Xem mẫu

  1. Đề tài “Cảm hứng nhân văn trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ của Sêcxpia”
  2. ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 2. Lịch Sử vấn đề. 3. Mục đích yêu cầu. 4. Đối tượng nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT 1.1. Thời đại 1.1.1. Bối cảnh lịch sử 1.1.2. Chủ nghĩa nhân văn và cảm hứng nhân văn 1.2. Tác giả 1.2.1. Tiểu sử 1.2.2. Sự nghiệp 1.3. Tác phẩm 1.3.1. Đôi nét về ba vở hài kịch, “Giấc Mộng Đêm Hè”, “Đêm Thứ 12”, “Người lái buôn thành Vơnidơ”. 1.3.2. Tóm tắt tác phẩm CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG NHÂN VĂN QUA BA VỞ HÀI KỊCH, GIẤC MỘNG ĐÊM HÈ, ĐÊM THỨ MƯỜI HAI, NGƯỜI LÁI BUÔN THÀNH VƠNIDƠ 2.1. Cảm hứng ca ngợi 2.1.1. Ca ngợi vẻ đẹp con người 2.1.2. Ca ngợi những khát vọng cao đẹp của con người 2.1.3. Ca ngợi và khẳng định cuộc sống nơi trần thế
  3. 2.2. Cảm hứng phê phán 2.2.1. Phê phán chế độ phong kiến lạc hậu 2.2.2. Phê phán những mặt trái của xã hội thời tích lũy nguyên thủy tư bản chủ nghĩa CHƯƠNG 3: ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT QUA BA VỞ HÀI KỊCH, GIẤC MỘNG ĐÊM HÈ, ĐÊM THỨ MƯỜI HAI, NGƯỜI LÁI BUÔN THÀNH VƠNIDƠ 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình 3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật 3.2. Nghệ thuật kết hợp tính hiện thực và tính lãng mạn trong ba vở hài kịch thể hiện qua: 3.2.1. Giọng điệu trữ tình 3.2.2. Nghệ thuật dựng truyện 3.2.3. Nghệ thuật dựng cảnh 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ 3.3.1. Đối thoại 3.3.2. Độc thoại
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 2. Lý do chọn đề tài Sêchxpia là ngôi sao sáng trong nền kịch Anh và cũng là người đại diện vĩ đại của nền văn nghệ Phục hưng. Ông được nhìn nhận là “Linh hồn của thời đại, kì tài của sân khấu” (Bêlinxki). Từ lâu sáng tác của ông đã vượt ra ngoài phạm vi nước Anh trở thành tài sản chung của thế giới. Chính vì thế mà chúng ta biết đến Sêcxpia qua cái nhìn của nhiều nhà nghiên cứu văn học, những chuyên gia về Sêcxpia; qua những bài viết hàng nghìn trang với những lời nhận xét, đánh giá quý báu. Tuy nhiên để hiểu biết sự nghiệp to lớn của Sêchxpia và những gì ông để lại cho đời bấy nhiêu thôi theo người viết vẫn chưa đủ. Cần phải có nhiều công trình nghiên cứu về ông hơn nữa, đặc biệt là ở thể loại hài kịch. Vì thế, người viết xin tìm hiểu một vấn đề nhỏ trong hệ thống sáng tác của ông đó là “Cảm hứng nhân văn trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ của Sêcxpia” Ngay từ lúc học phổ thông người viết đã có dịp tiếp xúc với những vở hài kịch, bi kịch kinh điển của Sêchxpia như: Romeo & Juliet, Hamlet, Người lái buôn thành Vơnidơ... Những vở kịch của ông không chỉ cuốn hút người viết bởi những tình tiết hấp dẫn mà nó còn mang lại cho người viết những bài học vô giá về tình yêu, về ý thức, trách nhiệm của con người trong xã hội. Và cho đến khi lên đến đại học, người viết lại được học và nghiên cứu sâu về Sêchxpia, về tác phẩm của ông. Người viết rất ngưỡng mộ ý chí, nghị lực của ông trong quá trình lao động và học tập, bằng con đường tự học mà ông đã vươn lên trở thành một thiên tài về văn chương được mọi người khắp thế giới kính trọng và nể phục. Đồng thời khi tìm hiểu tác phẩm của ông người viết cảm thấy rất thú vị, nó giúp cho người viết có một cách nhìn và cách suy nghĩ sâu sắc hơn về những vấn đề trong cuộc sống. Chính vì thế mà đến năm thứ tư của đại học người viết đã chọn mảng văn học nước ngoài để làm đề tài luận văn. Sêchxpia viết thành công ở cả ba thể loại: bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử. Nhưng người viết đặc biệt tâm đắc với những vở hài kịch của ông. Bởi vì nó không những mang đến tiếng cười mà nó còn giúp cho con người có cái nhìn lạc quan trong cuộc sống. Nếu có được cái nhìn lạc quan con người sẽ vững tin trên con đường tìm kiếm hạnh phúc. Bởi vì trong cuộc sống có rất nhiều những khó khăn, thử thách mà con người cần phải vượt qua. Hơn thế nữa, những vở hài kịch của ông còn giúp cho chúng ta nhận ra và biết trân trọng những tình cảm cao đẹp trong cuộc sống như: tình cha con, tình anh em, tình yêu, tình bạn...để từ đó con
  5. người cảm nhận cuộc sống này rất vui, rất đáng sống. Từ những điều tâm đắc cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ hướng dẫn người viết đã chọn đề tài: “Cảm hứng nhân văn trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ của Sêcxpia” qua đề tài này người viết hi vọng sẽ tích lũy được nhiều kiến thức quý báu khi có dịp tìm hiểu cuộc đời và tác phẩm của Sêcxpia một cách công phu và hệ thống. Bên cạnh đó, khi tiến hành nghiên cứu đề tài trên người viết còn học hỏi được những giá trị nhân văn được tác giả gửi gắm trong ba tác phẩm và có được kinh nghiệm trong qua trình nghiên một đề tài khoa học. Do năng lực và thời gian có hạn, sự tìm tòi và nghiên cứu của người viết trong khi thực hiện đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Mong thầy cô và các bạn giúp đỡ điều chỉnh cho những sai sót mắc phải của người viết, để luận văn được hoàn chỉnh. 2. Lịch sử vấn đề Sêchxpia được thế giới tôn vinh là nhà soạn kịch thiên tài, một trong những con người khổng lồ của thời đại Phục hưng. Bởi vì trong khoảng 20 năm cầm bút ông đã để lại cho đời những kiệt tác bất hữu có cả bi kịch, hài kịch và kịch lịch sử. Thế nhưng theo quá trình tìm hiểu và nghiên cứu của người viết thì đa số các nhà nghiên cứu đều tập trung vào thể loại bi kịch. Vì thế các bài nghiên cứu về thể loại hài kịch còn tương đối ít. Chính vì thế người viết đã chọn đề tài: “cảm hứng nhân văn trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ” để góp phần khẳng định giá trị tư tưởng trong tác phẩm hài kịch của Sêchxpia; đồng thời góp phần làm phong phú thêm các đề tài nghiên cứu về hài kịch của ông. Trong điều kiện nghiên cứu của mình người viết đã thu thập được một số tài liệu nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như sau: Công trình đầu tiên phải kể đến quyển “Lịch sử văn học Phương Tây”,tập 1 của nhóm tác giả Trần Duy Châu - Nguyễn Văn Khỏa - Lương Duy Trung – Nguyễn Trung Hiếu – Phùng Văn Tửu, Nxb Giáo dục, 1979. Trong quyển này các tác giả cho chúng ta nhiều thông tin quý báu về Sêchxpia và về những vở kịch của ông. Nhóm tác giả trên còn cho thấy được cái nhìn bao quát về điều kiện lịch sử Anh, tiểu sử tác giả cùng với các giai đoạn sáng tác của ông và đặc điểm của từng thể loại kịch mà ông sáng tác như:bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử. Nhóm các tác giả nêu lên những nhận định về hài kịch của Sêchxpia như sau: “Tiếng cười ở đây chính là thoát lên từ cái không khí lạc quan, yêu đời của thời đại Phục hưng. Đề tài của những vở hài kịch này thường xoay quanh câu chuyện tình yêu giữa những đôi nam nữ.
  6. Thông qua đề tài đó, Sêchxpia lên án những gì phản lại tự nhiên, cổ hữu, áp chế con người, nghĩa là những luân lý đạo đức, những thành kiến cũ của chế độ phong kiến. Đồng thời, cũng qua những vở hài kịch này, Sêchxpia lên tiếng tố cáo xã hội tư bản, cái xã hội trong đó đồng tiền đã chế ngự tất cả mọi giá trị vật chất và tinh thần, đè nặng lên số phận của con người như một định mệnh.” [3; tr.117]. Bên cạnh đó nhóm tác giả còn chứng minh cho những nhận định trên qua ba vở hài kịch: Đêm thứ mười hai và Giấc mộng đêm hè nhóm tác giả nhận định Sêchxpia viết hai tác phẩm trên để thể hiện “Sự chiến thắng của tình yêu và lòng chung thủy”.[3; tr.118]Còn trong vở Người lái buôn thànhVơnidơ các tác giả nhận định: “Là vở hài kịch có ý nghĩa nhất trong giai đoạn sáng tác này. Ở đây vang lên gay gắt lời tố cáo đồng tiền, thói tàn nhẫn và nền pháp lý bên vực cho quyền tư hữu của xã hội tư bản. Ở đây là sự chiến thắng vẻ vang của tình yêu, tình bạn, của chính nghĩa và của lòng nhân đạo.” [3; tr.118-119]. Tất cả những lời nhận định trên của nhóm tác giả đã cho thấy tác phẩm của Sêchxpia đầy tính nhân văn và những điều nói trên người viết sẽ tập trung làm sáng rõ ở phần nội dung chính của đề tài. Kế đến là quyển “Văn học Phương Tây” của nhóm tác giả Đặng Anh Đào - Hoàng Nhân - Lương Duy Trung - Nguyễn Đức Nam - Nguyễn Thị Hoàng - Nguyễn Văn Chính - Phùng Văn Tửu, “Văn học Phương Tây”, Nxb Giáo dục, 1997 cũng là nguồn tài liệu quý báu giúp cho chúng ta có một cái nhìn khái quát về Sêchxpia và tác phẩm của ông. Các tác giả của quyển này đã cho chúng ta cái nhìn tổng quát về thời đại của ông đang sống, về cuộc đời và các giai đoạn sáng tác của ông. Một điều quan trọng nữa là trong quyển sách này các tác giả còn thêm các nhận định, đánh giá, khẳng định giá trị sáng tác của Sêchxpia cũng như những cống hiến to lớn của ông đối với nền sân khâu thế giới. Đặc biệt là ở thể loại hài kịch các tác giả có nhận xét về hài kịch của Sêchxpia nói chung và ba vở hài kịch trên nói riêng như sau: “Sêchxpia viết hài kịch nhằm trước hết là mua vui cho công chúng nước Anh thời bấy giờ. Xuyên suốt các vở hài kịch của ông là chủ đề tình yêu đôi lứa. Hài kịch của ông khẳng định rằng tình yêu là chất men cuộc sống, là hạnh phúc tuyệt vời trên trần thế này. Tình yêu giúp con người thêm thông minh, sáng suốt, dũng cảm. Nó là nguồn sức mạnh có khả năng chiến thắng tất cả những gì và tất cả những ai chống lại nó, chống lại con người” [5; tr.203]. Lời nhận xét trên cho chúng ta thấy Sêchxpia viết hài kịch không chỉ đơn thuần là để mua vui cho khán giả mà nó còn ca ngợi tình cảm riêng tư của con người đó là tình yêu. Đồng thời tác giả còn khẳng định tình yêu sẽ là nguồn sức mạnh to lớn giúp con người chiến thắng tất cả những thế lực phản tiến bộ. Đây là một trong những tư tưởng mang đậm giá trị nhân văn
  7. của tác giả sẽ được người viết làm rõ ở phần nội dung chính của đề tài. Bên cạnh đó, nhóm tác giả trên còn chỉ ra điểm nổi bật về nghệ thuật trong các vở hài kịch của Sêchxpia đó là “Tính hiện thực kết hợp với tính lãng mạn bay bổng. Giới nghiên cứu coi Sêchxpia là người sáng tạo ra hài kịch “lãng mạn” và thường lấy các vở Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai làm dẫn chứng...nhưng chất lãng mạn, chất thơ ấy không chỉ có ở hai vở kịch này. Nó có ở hầu hết ở các vở hài kịch của Sêchxpia, chỉ khác ở độ đậm nhạt” [5; tr.204]. Điều này người viết sẽ tập trung làm sáng rõ ở phần phân tích những đặc sắc nghệ thuật của ba tác phẩm: Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ. Cùng với hai quyển sách trên thì quyển “Tuyển tập tác phẩm William Shakespeare”, Nxb Sân khấu trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây cũng cho người viết có hiểu biết sáng rõ hơn về thời đại tác giả sống, con người, quá trình sáng tác các vở kịch, tư tưởng, nghệ thuật và phong cách của Sêcxpia. Trong quyển sách này các tác giả có lời nhận định về hài kịch của ông như sau: “Nhưng thử hỏi ở đâu mà cuộc sống tưng bừng, mà con người thoải mái, mà cái cười hồn nhiên, đắc thắng như trong các vở hài kịch của Sêcxpia? ở đâu có con người tự hào khoan khoái, tin vào tương lai, tin vào mình như trong trong Những bà vợ vui vẻ ở Uynxo, Giấc mộng đêm hè. Ở đâu cái không khí trong sáng tươi mát như trong Đêm thứ mười hai. Điều mới mẻ mà Sêcxpia đem đến cho chúng ta là cuộc đời này rất vui và đáng sống, dù cho tạm thời cái vui phải nhường bước trước thực tế xấu xa, nhưng cái vui, cái đẹp không bao giờ chết được. Chính quan niệm này đã sản sinh ra một phương pháp nghệ thuật mới của ông là phối hợp cái vui với cái buồn trong những vở kịch buồn thảm nhất. Đây không phải là “gượng cười”, “đổi sầu làm vui”, hay “tìm cái vui để lẩn tránh cái thực tế xấu xa trong cuộc sống”. Cái vui này xuất phát từ chính nghĩa, từ lẽ sống, không phải từ một cách “ngụy biện”để lừa dối mình.” [7; tr.24]. Với lời nhận xét trên các tác giả cho chúng ta thấy trong các vở hài kịch của Sêcxpia chứa đựng nội dung lớn của chủ nghĩa nhân văn đó là ca ngợi và khẳng định cuộc sống nơi trần thế. Điều đó chứng tỏ Sêcxpia có sự tiếp thu tư tưởng cao đẹp của chủ nghĩa nhân văn và những tư tưởng đó đã tạo nên nguồn cảm hứng mãnh liệt để ông viết thành công các vở hài kịch. Bên cạnh đó, nhóm tác giả còn nhận xét thêm về nghệ thuật của các vở hài kich “Khung cảnh quen thuộc của hài kịch là “nước Anh xanh tươi”với những đồng cỏ, những cánh rừng, với những con người sống để mà yêu bất chấp uy quyền cha mẹ, như trong Giấc mộng đêm hè, Tùy theo ý muốn. Tình yêu của họ tuy bị trắc trở nhưng cuối cùng họ đều được toại nguyện. Chính vì vậy, hài kịch của ông rất phong phú tính trữ tình và rất lôi cuốn, nên thơ.” [7; tr.18]. Trong quyển sách này
  8. các tác giả còn cho chúng ta biết thêm về những chủ đề chính trong các vở hài kịch của ông: “Chủ đề của hài kịch là ca ngợi sự thắng thế của tư tưởng nhân đạo đối với những thành kiến Trung cổ. Đó là lời ca ngợi sự xuất hiện của con người mới, tự do, sung sướng. Bên cạnh việc ca ngợi sự đắc thắng của tư tưởng nhân đạo, việc chế nhạo cảnh tan rã của chế độ phong kiến phân quyền cũng là một chủ đề của hài kịch.” [7; tr.18] Tóm lại, trên đây là những ý kiến, nhận định mà người viết thu thập được trong quá trình nghiên cứu tài liệu. Tuy đây chỉ là những nhận định mang tính tổng quát, chưa đi sâu vào phân tích, trình bày, hoặc chứng minh cụ thể vấn đề nhưng nó sẽ là những định hướng quan trọng trong quá trình triển khai đề tài của người viết. 3. Mục đích yêu cầu Đề tài: “Cảm hứng nhân văn qua ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ của Sêchxpia”đã đặt ra cho người viết những yêu cầu sau: Một là: tìm hiểu về thời đại phục hưng và tư tưởng trung tâm của thời đại là chủ nghĩa nhân văn. Để biết được cơ sở tư tưởng tạo nên cảm hứng cho Sêcxpia viết ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ. Hai là: tìm hiểu về ba vở hài kịch trên để nắm được nội dung cốt lõi của ba vở hài kịch. Ba là: tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của “Cảm hứng nhân văn” qua ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ là cảm hứng ca ngợi và phê phán. Cảm hứng ca ngợi được biểu hiện qua ba yếu tố: ca ngợi vẻ đẹp của con người, ca ngợi những khát vọng cao đẹp của con người, ca ngợi cuộc sống nơi trần thế. Cảm hứng phê phán được biểu hiện qua việc phê phán xã hội phong kiến đang trên đà suy tàn và phê phán những mặt trái của xã hội thời tích lũy nguyên thủy tư bản. Bốn là: tìm hiểu những nghệ thuật đặc sắc được tác giả sử dụng trong ba vở hài kịch để từ đó thấy được giá trị cả về nội dung và hình thức của tác phẩm. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Sêcxpia đã để lại cho nền văn học thế giới nhiều kiệt tác văn chương tuyệt vời nhưng ở bài viết này người viết chỉ tập trung nghiên cứu ba vở hài kịch tiêu biểu của ông là: Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ. Bên cạnh đó, người viết còn tìm hiểu các tài liệu có liên quan đến đề tài và các tài liệu nói về thời đại Phục Hưng ở Châu Âu và ở Anh.
  9. Phạm vi đề tài là: người viết sẽ tập trung vào tìm hiểu các biểu hiện của “Cảm hứng nhân văn” và những nghệ thuật đặc sắc trong ba vở hài kịch trên. Sau đó, người viết sẽ tiến hành phân tích, đánh giá, tổng hợp các biểu hiện đó và sử dụng cơ sở dữ liệu trong ba vở hài kịch để chứng minh cho những điều trên. 5. phương pháp nghiên cứu Trong quá tình thực hiện đề tài “Cảm hứng nhân văn trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ của Sêchxpia” người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu như sau: Trước hết, người viết tập hợp tài liệu: văn bản của ba vở hài kịch và những tài liệu có liên quan đến đề tài. Kế đến là tập hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu đã đề cập đến các vấn đề có liên quan tới đề tài làm cơ sở và định hướng cho người viết trong việc nghiên cứu. Sau đó bổ sung những phát hiện mới trong quá trình nghiên cứu của người viết để luận văn được tốt hơn. Sau khi tổng hợp tài liệu và tổng hợp các ý kiến cũng như đã tham khảo qua đề tài người viết tiến hành các bước như sau: 6. Lập dàn ý đại cương 7. Lập dàn ý chi tiết 8. Viết bản thảo 9. Đọc sửa chữa, hoàn chỉnh bài viết Một thao tác xuyên suốt trong quá trình thực hiện đề tài này là phần phân tích những biểu hiện của: “Cảm hứng nhân văn” trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ và những nghệ thuật đặc sắc của ba vở hài kịch. Như vậy, để hoàn thành đề tài này người viết đã sử dụng các thao tác như: tổng hợp, phân tích, chứng minh, diễn dịch, quy nạp...đó là con đường giúp người viết tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 THỜI ĐẠI 1.1.1 Bối cảnh lịch sử:
  10. Trong hai thế kỉ XV, XVI, ở Châu Âu đã dấy lên một cuộc vận động tư tưởng và văn hóa mới rất mực hào hứng và quyết liệt. Mở ra một thời đại mới đó là thời đại Phục Hưng. Đầu tiên, ngọn gió mới thổi lên từ đất Italia. Tiếp đó nó lan rộng ra các nước ở Tây Âu và Trung Âu. Trong đó, nước Anh bước vào thời kì Phục Hưng muộn hơn so với Italia và một số nước Tây Âu, trong hai thế kỉ XV và XVI lại bị hai cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề về kinh tế và chịu sự chia rẻ sâu sắc. Cuộc khủng hoảng chính trị của xã hội phong kiến đạt đến đỉnh cao trong cuộc nội chiến của các hầu tước phong kiến. Người ta gọi nội chiến đó là cuộc chiến tranh “Hai hoa hồng” (1445-1485). Hai tập đoàn phong kiến York và Lencaxtơ tranh giành quyền thống trị, cuối cùng cả hai cùng kiệt sức. Họ Tiudo lên nắm chính quyền. Từ cuối thế kỉ XV trở đi, Anh mới có thể chăm lo cho đến việc khôi phục và phát triển kinh tế, mở mang văn hóa. Có thể nói, dưới triều đại Tiuđo đầu tiên, nước Anh đã phát triển mạnh mẽ về chính trị và kinh tế xã hội. Những bước tiến này rất lớn mạnh đến cần thiết chuẩn bị đưa nước Anh đến một hình thái kinh tế mới (Tư bản chủ nghĩa). Cùng với xu thế lịch sử chung ở Tây Âu bấy giờ là tiến lên CNTB, nước Anh cũng tiến lên theo xu hướng đó.Từ thế kỉ XVI trở đi nó nhanh chống đuổi kịp rồi vượt lên những nước đi trước nó. Quan hệ sản xuất TBCN từng bước được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở miền Nam nước Anh. Công thương nghiệp ở đây vốn dĩ đã có truyền thống. Mặt hàng chủ yếu để xuất khẩu của Anh lúc này là len dạ, vì vậy phải phát triển mạnh chăn nuôi cừu. Bọn địa chủ mới ở Anh được chính quyền nhà vua hỗ trợ bằng các đạo lực cho phép rào đất cướp ruộng của hàng vạn nông dân ra khỏi làng mạc, nhà của, ruộng đất của họ, biến những nơi đó thành những bãi cỏ nuôi cừu. Các đạo luật khoanh điền đẫm máu đã đẩy hàng vạn nông dân phải đi lanh thang kiếm ăn.Và để biến những người nông dân bị phá sản đó thành nhân công rẻ mạt cho các xí nghiệp công trường, chính quyền ban bố đạo luật “Cấm lang thang” với hình thức phạt rất tàn ác. Bị bắt lần đầu thì bị đóng dấu bằng sắc nung đỏ lên bả vai rồi đuổi về nguyên quán. Nếu tái phạm thì bị chặt đầu hoặc treo cổ. Kết quả là dưới triều đại của Hen-ri VIII, có đến 72000 nông dân bị xử tử sau khi đã bị đuổi ra khỏi nhà của ruộng đất của mình...Đây là giai đoạn Tô-mat Mô- rơ đã tố cáo “Cừu nuốt sống cả người...”. Chính vì thế, ở thời kì này có rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra. Đặc biệt quan trọng là cuộc khởi nghĩa 1607 lôi cuốn hầu như cả miền Trung nước Anh. Các cuộc khởi nghĩa này đều bị dìm trong máu lửa. Có thể nói rằng nước Anh thời Sêcxpia tua tủa những thớt chặt đầu và những giá treo cổ.
  11. Thợ thủ công cũng khốn khổ không kém. Họ bị bòn rút đến kiệt sức trong các hầm mỏ, công trình, xí nghiệp. Ngày làm việc không có giới hạn, thường từ 12 đến 14 giờ với tiền công rẻ mạt nữ giới tiền lương ít hơn nam giới. Chính vì thế mà các cuộc khởi nghĩa của nông dân thường được hỗ trợ và liên kết của thợ thủ công. Tư sản mới cùng với lớp quý tộc mới được chính quyền nhà vua giúp đỡ đã đền đáp công ơn bằng cách ủng hộ chính quyền này chống bọn lãnh chúa phong kiến nhằm thống nhất quốc gia, thực hiện việc thống nhất thị trường trong nước và bành trướng thế lực ra bên ngoài. Kết quả là nước Anh đã trở thành một quốc gia thống nhất về chính trị, kinh tế dưới triều đại Tuiđo. Đến thời nữ hoàng Êlizabet, đã trở thành một cường quốc cạnh tranh với Tây Ban Nha là nước mạnh nhất lúc bấy giờ. Sau chiến thắng hạm đội “Acmađa vô địch” của Tây Ban Nha (1558), Anh thành bá chủ mặt biển. Việc giao thông buôn bán với các nước, việc tìm kiếm thị trường mới và thuộc địa của Anh bấy giờ ngày càng được đẩy mạnh. Các sử gia tư sản Anh thường ca ngợi thời kì nữ hoàng Êlizabet I là “thời kì nước Anh vui vẻ”. Khách quan mà nói đó là thời nước Anh trở thành cường quốc số một ở Châu Âu đang ra sức bành trướng thế lực của nó. Hạm đội Anh dẫn đường các thương thuyền giông buồm đến các thị trường ở Châu Mĩ rồi Châu Á, Châu Phi để xâm chiếm thuộc địa và kiếm thị trường buôn bán mới. Vàng bạc và của cải của các nước như Tây Ban Nha, Bố Đào Nha, cướp được ở Châu Mĩ, trên đường về, một phần đáng kể đã bị hạm đội Anh cướp lại. Thị trường trong nước Anh nhờ hoạt động thương mại kích thích lúc này cũng phát triển mạnh tạo bộ mặt phồn vinh cho đất nước. Đô thị ngày càng tập trung sầm uất. Luân Đôn kinh đô của nước Anh chẳng những là một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của cả nước mà còn là một trung tâm văn minh của Châu Âu nữa. Triết học, khoa học kĩ thuật, văn học, và nghệ thuật nước này Anh lúc này phát triển mạnh vượt lên chiếm vị trị tiên tiến ở Châu Âu. Tuy nhiên, đằng sau bộ mặt phồn vinh “vui vẻ” đó một xã hội đang trải qua những biến động dữ dội của thời kì quá độ từ chế độ phong kiến lên CNTB, là một xã hội chất chứa những mâu thuẫn giai cấp gay gắt luôn luôn sẵn sàng bùng nổ thành những cuộc đấu tranh quyết liệt. Và đặc biệt là sự phồn vinh và “vui vẻ” đó được xây dựng trên xương máu của quần chúng nông dân, thợ thủ công Anh cũng như sự áp bức và bóc lột trắng trợn nhân dân thuộc địa vừa chinh phục được. Chính vì thế mà nước Anh dù phát triển rực rỡ về mọi mặt nhưng bên trong lại tiềm tàn nhiều sự đỗ vỡ.
  12. Về phương diện tôn giáo, đây cũng là thời kì mà nước Anh xây dựng nền quốc giáo của mình, thoát khỏi ách thống trị của giáo hội La Mã. Tuy nhiên, cũng như phong trào cải cách tôn giáo ở bất kì nước nào, quá trình xây dựng Anh quốc giáo cũng là quá trình đấu tranh đổ máu. Ngay dưới triều đại Êlizabet, các tín đồ theo Cơ đốc giáo vẫn nhiều lần nổi dậy và các cuộc khởi nghĩa đó đều bị dìm trong bể máu. Tất cả những chuyển biến về kinh tế, chính trị, xã hội nói trên lá cơ sở tốt đẹp cho nước Anh tiếp thu trào lưu nhân văn chủ nghĩa 1.1.2 Chủ nghĩa nhân văn và cảm hứng nhân văn. * Chủ nghĩa nhân văn Thời đại Phục hưng là một thời đại vĩ đại và to lớn. Nổi bật ở thời đại này là cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng do giai cấp tư sản lãnh đạo đã đưa đến thắng lợi rực rỡ đánh dấu bước nhảy vọt của tư tưởng con người trong quá trình tự giải phóng. Và tư tưởng trung tâm của thời đại Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn. Đây là trào lưu tư tưởng tiến bộ nhất, tạo nên giá trị sáng ngời của nền văn nghệ Phục hưng. Chủ nghĩa nhân văn tìm thấy ở thời cổ đại đặc biệt là ở cổ đại Hi Lạp tinh thần trân trọng con người, coi con người là quí, cuộc sống nơi trần thế là đáng trân trọng. Chủ nghĩa nhân văn đã tiếp thu tinh thần đó và đã phát triển nó cho phù hợp với con người thời đại mình. Tất cả những cái gì chống lại con người kìm hãm tự do của con người đều bị lên án. Mặt khác, nó còn ca ngợi những gì thuộc về quyền sống tự nhiên của con người. Chính vì thế, chủ nghĩa nhân văn được định nghĩa như sau: Theo Vôn ghin, chủ nghĩa nhân văn: “là toàn bộ những quan điểm đạo đức, chính trị bắt nguồn không phải từ cái gì siêu nhiên kì ảo, từ những nguyên lý ngoài nhân loại mà chính từ con người tồn tại thực tế trên trái đất, với những nhu cầu và khả năng trần thế và hiện thực của nó. Những nhu cầu, những khả năng ấy đòi hỏi phải được phát triển đầy đủ và thỏa mãn”. [8; tr.41] Tư định nghĩa trên cho thấy sự tiến bộ của tư tưởng này, chủ nghĩa nhân văn đã giúp cho con người thời đại nhận ra Trung cổ phong kiến và nhà thờ truyền bá một thứ nhân sinh quan rất mực đen tối và thê lương. Nhằm thống trị con người về mặt tinh thần họ truyền bá tư tưởng diệt dục, xem cõi đời là bể khổ, con người khi sinh ra đã mang tội lỗi. Chính vì thế con người phải sống khổ hạnh chịu đọa đày phần xác để cứu lấy phần hồn. Và Họ cho rằng
  13. cõi đời là “một thung lũng nước mắt”, “Thiên đường” mới là cuộc sống đáng hướng tới. Đó là những tư tưởng phản tự nhiên nhằm chống lại con người. Chính vì vậy, con người cần phải nhận ra và tiêu diệt nhân sinh quan phản tiến bộ đó. Chính từ những nhiệm vụ trên mà chủ nghĩa nhân văn xoay quanh hai nội dung chính đó là tấm lòng trân trọng con người như Prôtagôrax thâu tóm trong định nghĩa nổi tiếng: “con người là kiểu mẫu và kích thước để đo lường vạn vật”. Con người đáng được tin yêu, như nhân vật Hamlet đã nói: “kì diệu thay là con người, Nó cao quý làm sao về mặt lý trí, vô tận làm sao về mặt năng khiếu, về hình dung và dáng điệu nó mới giàu ý nghĩa làm sao. Về hành động nó thật như thiên thần, về nhận thức nó chẳng kém gì thượng đế, thật là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài” [8; tr.42]. Bên cạnh đó chủ nghĩa nhân văn còn ca ngợi trần gian là thực tế đáng sống: con người phải sống lạc quan yêu đời. Văn học Phục hưng là văn học lạc quan và tin vào con người. Cũng như các nước Italia, Pháp, Đức, Tây Ban Nha... nước Anh cũng tiếp thu trào lưu tư tưởng tiến bộ trên nhưng chủ nghĩa nhân văn ở Anh phát triển chậm hơn so với các nước trên. Nhưng chính vì vậy mà nước Anh lại có điều kiện tiếp thu những tinh hoa của nền văn học các nước đi trước. Chính điều đó đã mang lai cho nền văn hóa Phục hưng Anh nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng có những bước phát triển rực rỡ vượt bật so với các nước đi trước. Cùng với xu thế chung của thời đại văn hóa Phục Hưng Anh cũng mang những tính chất như mọi phong trào văn hóa Phục Hưng đã phát triển trên lục địa Châu Âu: tinh thần chống chủ nghĩa ngu dân, chủ nghĩa giáo điều kinh viện Trung cổ nhằm giải phóng cho trí tuệ con người, tinh thần khẳng định cuộc đời trần thế, sự đòi hỏi quyền tự do cho cá nhân con người, niềm phấn khởi trước những chân trời rộng mở nhờ những cuộc phát kiến về thiên văn và địa lí đưa lại, niềm say mê trước vẻ đẹp của tác phẩm nghệ thuật văn nghệ cổ đại Hi Lạp vừa được phát hiện... Nhưng bên cạnh những tính chất chung đó, văn nghệ Phục hưng Anh còn biểu hiện những đặc trưng riêng biệt khác, do đặc điểm của sự phát triển lịch sử dân tộc và truyền thống văn học nghệ thuật nước Anh chi phối. Một đặc điểm nổi bật hơn cả đó là tính mâu thuẫn, tính đối kháng gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp ở Anh. Chính vì thế văn học Phục Hưng Anh là không những chống phong kiến mà còn chống cả tư sản. Bên cạnh đó nước Anh thế kỉ XVI đã trở thành một quốc gia tư bản chủ nghĩa điển hình nên ở đây qui luật cạnh tranh, sự phân hóa xã hội, sự cách biệt giàu nghèo, sức mạnh của đồng tiền làm biến đổi nhân tâm, nhân phẩm và nhân tính con người... đã diễn ra hết sức khốc
  14. liệt. Nhưng bên cạnh đó,chủ nghĩa tư bản là phương thức sản xuất tiến bộ nên nó đã kích thích mạnh mẽ sản xuất vật chất và tinh thần, sự phát triển của khoa học kĩ thuật, tạo ra bước ngoặt trên mọi lĩnh vực kinh tế, tư tưởng và văn hóa. Chính tình hình đó đã ảnh hưởng đáng kể đến nền văn học nghệ thuật Anh và để lại dấu ấn trong nền văn nghệ Anh. Tiêu biểu là ở thể loại kịch và kịch là thể loại văn học có truyền thống lâu đời ở Anh. Từ thời Trung cổ, nền kịch dân gian Anh đã thu được nhưng thành tựu đáng kể. Dòng kịch tôn giáo của Anh cũng khá phát triển. Sang thế kỉ XV, các tác phẩm văn nghệ của La Mã cổ đại, của Italia, Pháp... thời Phục hưng được dịch ngày một nhiều sang tiếng Anh . Nền kịch Anh nhờ tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của các tác phẩm trên đã tạo cho kịch Anh những bước phát triển mới. Kịch cổ đại nêu cho kịch Anh thấy kịch tính gay gắt, những dục vọng ghê gớm, cuộc đấu tranh của con người chống lại định mệnh khắc nghiệt. Còn kịch Italia hiện đại mà chủ yếu là hài kịch đưa vào kịch Anh không khí tưng bừng, vui vẻ tươi mát của buổi bình minh thời đại Phục hưng, những đề tài và chủ đề mới mẽ phản ánh cuộc sống trần thế. Và từ năm 1580 cho đến 1642, nền kịch Anh phát triển hết sức mạnh mẽ phong phú. Trước khi Sêcxpia bước vào kịch trường, nền kịch Anh có hai xu hướng chính: Jôn Lyly và Rôbơc Gin chuyên chú ý mô tả những cái êm dịu, nhẹ nhàng, vui vẻ. Họ thường đưa lên sân khấu nhưng cuộc tình duyên ban đầu éo le trắc trở nhưng kết thúc vui vẻ. Bên cạnh đó, họ còn khai thác các truyện thần thoại hoặc truyền thuyết. Họ tạo ra lối văn đối thoại ý vị, giàu chất trữ tình. Khuynh hướng của Thô-mơx Kit (1558-1594) và Crixtôp Maclôvơ (1564-1593) thì ngược lại. Kit cũng như Maclôvơ thường dựng lên những cảnh tượng rùng rợn, hải hùng đầy máu và nước mắt. Họ mang đến cho Kịch Anh hai chủ đề mới: chủ đề thù hận và khát vọng. Với chủ đề thù hận người xem sẽ thấy trên sân khấu những cảnh tượng đầy máu và nước mắt bởi các cuộc thanh toán hận thù một cách quyết liệt của các nhân vật trong vở kịch. Còn ở chủ đề khát vọng, người xem sẽ tiếp xúc với các nhân vật có dục vọng ghê gớm, phi thường sẵn sàng làm mọi thứ để thỏa mãn dục vọng của mình. Kit và Maclôvơ là hai nhà soạn kịch lớn của nước Anh trước Sêcxpia. Đến thời Sêcxpia ta thấy trong các vở kịch của ông đã có sự tiếp thu, vận dụng và phát huy những thế mạnh của mỗi xu hướng; đồng thời ông còn kết hợp cả hai lại tạo ra một phong cách nghệ thuật kịch đặc sắc làm rạng rỡ kịch Anh.
  15. Tóm lại phong trào văn nghệ Phục hưng ở nhiều nước Tây Âu thế kỉ XIV đến thế kỉ XVII nói chung và ở nước Anh nói riêng là phong trào văn hóa của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã dùng sức mạnh của mình phá vỡ những ràng buộc của sự chuyên chế về văn hóa thời kỳ Trung Cổ, phong kiến mở ra một ở một thời kỳ mới giải phóng tư tưởng, phát triển văn nghệ và khoa học.Đăc biệt là chủ nghĩa nhân văn một tư tưởng tiến bộ đã góp phần thức tỉnh con người phải đấu tranh chống lại những quan niệm phản tiến bộ chống lại con người và thấy rằng cuộc sống nơi trần thế là đáng sống đáng trân trọng. Chính những điều đó đã góp phần khẳng định thời đại Phục Hưng là thời đại khổng lồ. * Cảm hứng nhân văn Khái niêm về cảm hứng: Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “Cảm hứng là cách gọi tắt của cảm hứng chủ đạo. Lúc đầu để chỉ yếu tố nhiệt tình say sưa diễn thuyết, sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ. Về sau lý luận văn học xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm của nghệ sĩ đối với thế giới được miêu tả” [; tr.36]. Do đó còn được xem là: “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc người tiếp nhận” [ ;tr.36] Bê-lin-xki thì coi đây là điều không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [; tr.36] nhằm: “đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ và các yếu tố của nội dung tác phẩm…mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế giới quan của mình trong tác phẩm” [; tr.36] Còn thuật ngữ nhân văn trong tiếng Anh là Human culture. Trong đó Human là con người, những gì thuộc con người. Còn Culture là văn hóa, nền văn hóa. Như vậy, Human culture là văn hóa của con người, thuộc về con người. Mà nói đến văn hóa là nói đến những gì tốt đẹp, đặc trưng nhất cần được gìn giữ, phát huy. Do đó, Human culture còn được hiểu là khái niệm dung để nói đến vẻ đẹp, nét đẹp của con người. Còn trong từ điển Hán Việt thì nhân văn được chiết tự như sau: nhân là người, văn là vẻ đẹp. Vậy, nói đến nhân văn chính là nói đến vẻ đẹp của con người.
  16. Như vậy thuật ngữ Cảm hứng nhân văn là một thuật ngữ dùng trong văn chương mà nó lấy nét đẹp con người làm đối tượng chủ yếu để thể hiện. Nó đề cao vẻ đẹp của con người và lấy nó làm tiêu chuẩn để nhìn nhận, đánh giá về sự vật, hiện tượng theo xu hướng bảo vệ cái đẹp, cái cao cả của con người. Nó xuất phát từ tấm lòng yêu thương, tin tưởng và ca ngợi vẻ đẹp của con người về cả ngoại hình lẫn nhân cách, về trí tuệ lẫn tâm hồn, về ước mơ lẫn hành động. Xem đó như là khởi nguồn cho mọi ý tưởng sáng tạo. Có thể nói từ định nghĩa về chủ nghĩa nhân văn và cảm hứng nhân văn cho chúng ta thấy cả hai có những điểm tương đồng và dị biệt. Điểm tương đồng là cả hai cùng hướng đến việc ca ngợi vẻ đẹp của con người và khẳng định cuộc sống nơi trần thế. Còn dị biệt là chủ nghĩa nhân văn được xem “là một trào lưu văn hóa, tư tưởng nảy sinh ở Italia và một số nước ở Châu Âu vào thời kì Phục hưng. Những người khởi xướng trào lưu này thường được gọi là nhà nhân văn. Họ chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung ra khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ đốc giáo và giải phóng con người. Họ quan niệm không phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy thân phận của mình. Con người có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình.”[tdtnvh; tr.75]. Còn cảm hứng nhân văn dù không phát triển rầm rộ, cao trào để hình thành trào lưu, trường phái như chủ nghĩa nhân văn nhưng nó tồn tại rất lâu từ khi văn học ra đời. Bởi vì chức năng chính của văn học là hướng con người đến chân, thiện, mĩ thì cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của con người chính là nhân tố hàng đầu để giúp văn học thực hiện chúc năng trên. Dó đó, cảm hứng nhân văn là yếu tố luôn thường trực trong văn học và tùy vào từng thời kỳ, giai đoạn mà nó biểu hiện ít hay nhiều. 1.2 TÁC GIẢ 1.2.1 Tiểu sử UYLIAM SÊCXPIA nhà viết kịch, nhà thơ, nhà nhân đạo vĩ đại của văn chương nghệ thuật Anh thời Phục hưng. Ông sinh ngày 23/04/1564 ở Stratford trên sông Evon. Đây là một thị trấn nằm ở miền Trung nước Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thị dân khá giả, cha là thương nhân len dạ, có thời kì được nhân dân tính nhiệm bầu làm Thị trưởng luôn mấy nhiệm kì nhưng dần dần sa sút. Lên 7 tuổi, ông học trường Grammar school ở ngay thị trấn. Đây là loại trường Tiểu và Trung học kết hợp, khá phổ biến thời đó ở Anh. Trường dạy các kiến thức phổ thông, tiếng Hi Lạp, tiếng La Tinh, ngữ pháp và một ít văn chương cổ đại Hi Lạp, La Mã. Nhưng
  17. Sêcxpia không theo được hết chương trình. Năm 14 tuổi vì gia đình sa sút nợ nần, bố cũng đã mất chức Thị trưởng. Từ đây, Sêcxpia phải tự mình lăn lộn với đời để kiếm sống và nâng cao trình độ học vấn bằng con đường tự học. Ông tự học trong sách vở và cuộc sống ngoài xã hội. Năm 18 tuổi ông cưới vợ là một phụ nữ lớn hơn ông 8 tuổi, có ba con. Năm 1585 ông rời quê lên Luân Đôn đang lúc kịch trường Luân Đôn tới hồi sôi nổi. Bước đầu ông sinh làm chân giữ ngựa, soát vé ở cổng hí kịch. Sau đó làm nghề nhắc tuồng, thợ sửa bản in, dần dần lên làm diễn viên, đạo diễn và nhà viết kịch. Lợi tức từ rạp hát là nguồn sống suốt đời của ông. Khi đời sống đã khá giả, ông củng cố địa vị bằng cách mua một chức quý tộc nhỏ. Cũng thời gian này, Sêcxpia quen biết bá tước Southamton là người hào hiệp giúp đỡ ông rất nhiều. Và đặc biệt ông đã quen được một người bạn Ý là Giovani Florio. Ông này đã giúp ông hiểu thêm văn học Phục hưng ở Pháp và Ý cuộc sống đang êm đềm thì xảy ra biến cố vụ án Esex và Southamton (1601). Southamton bị kết tội dấy loạn chống triều đình nữ hoàng Êlizabet, do đó Sêcxpia cũng bị tình nghi dính líu và việc đó diễn ra trước hôm vở Richard II được trình diễn. Essex bị chặt đầu còn Southamton bị tù chung thân. Còn Sêcxpia trốn biệt. Đến năm 1603 Elizabet chết, jaque VI lên ngôi, xưng là james. Sau đó, Southamton được trả tự do và trọng dụng. Sêcxpia xuất hiện trở lại ông về với đoàn kịch của mình là Nhà hát Địa cầu được thành lập năm 1599. Mười năm sau (1609), ông cho diễn kịch ở rạp hát có mái che Blachfơraiơ (Blackfriars), đó là những sự kiện quan trọng, vì trước đó kịch thường biểu diễn ở ngoài trời. Khoảng 1612, Sêchxpia từ giã sân khấu về sống ở quê nhà. Sự nghiệp sáng tác của Sêchxpia khá đồ sộ. Về thơ có: Vinơt và Ơđâunit (1593), Vụ cưỡng hiếp Lucrixơ (1594), tập thơ trữ tình gồm 154 bài xonê (1593 - 97), in năm 1609. Về kịch có 37 vở. Năm 1612 Sêcxpia rời Luân Đôn sau ¼ thế kỷ hoạt động sân khấu. Trở về Stratford để sống những năm cuối đời. Ông mất ngày 23/4/1616. Có thể nói, Sêcxpia xuất thân từ tầng lớp bình dân trong xã hội và không có điều kiện học tập. Nhưng bằng nghị lực của mình ông đã không ngừng tự học và vươn lên trong cuộc sống để trở thành nhà viết kịch thiên tài, người đại diện vĩ đại cho nền văn học Phục hưng Anh. Chính điều đó, Sêcxpia đã làm cho con người cùng thời ông phải bất ngờ và thán phục. Đồng thời ông cũng là một tấm gương về tinh thần lao động và học tập nghiêm túc cho mọi thế hệ học tập và nôi theo.
  18. 1.2.2. Sư nghiệp Sêcxpia không chỉ là ngôi sao sáng trong nền văn nghệ nước Anh mà còn là cây đại thụ của nền văn học thế giới. Trên con đường sáng tác của mình ông đã để lại cho nền văn học nhân loại nói chung và kịch Anh nói riêng gần 40 vở kịch, 2 bản trường ca, một tập 154 bài xonnê. Quá trình sáng tác của ông chia làm ba gia đoạn : *Giai đoạn 1 (1590-1600): Đây là giai đoạn của những hài kịch hay nhất thể hiện cái nhìn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống. Không khí lạc quan nhân văn chủ nghĩa bao trùm lên tất cả các sáng tác của ông trong giai đoạn này. Đồng thời thể hiện niềm tin vào khả năng con người có thể giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội và cuộc sống theo hướng tươi sáng tích cực nhất. Các vở hài kịch tiêu biểu: Hài kịch của những hiểu lầm (1592), Giấc mộng đêm hè (1595), chàng thương gia thành Vơnizơ (1596), Ầm ĩ vì chuyện không đâu (1598), Những bà vui tính ở Uynxo (1598), Đêm thứ mười hai (1600). Bên cạnh các vở hài kịch ở giai đoạn này ông còn sáng tác các vở kịch lịch sử phản ánh quá trình đấu tranh chống phong kiến địa phương để tiến tới xây dựng nền quân chủ chuyên chế. Đồng thời, qua các vở kịch lịch sử cũng thể hiện khá rõ quan điểm chính trị của Sêcxpia là tán thành chính thể quân chủ chuyên chế vì nó là biểu hiện của sự thống nhất quốc gia mở ra thời kì “nước Anh vui vẻ” điều mà ông và cả nhân dân Anh chờ đợi . Các vở kịch lịch sử tiêu biểu của giai đoạn này như: Hen-ri IV (1590-1591), Ri-Sơt III (1592),Ri-sơtII (1595),Vua Giôn(1596), Hen-ri V(1598), Hen-Ri VI (1597), Đặc biệt ở cuối giai đoạn này ông còn cho ra đời vở bi kịch “Rômêô và Jiuliet”. Đây là một trong số những vở bi kịch vĩ đại của ông góp phần khẳng định vị thế của Sêcxpia trong kịch trường thế giới nói chung và nước Anh nói riêng. *Giai đoạn 2: Từ 1601-1608 Đây là giai đoạn trải qua những chấn động dữ dội của đời sống xã hội, nên không khí lạc quan yêu đời, yêu người không còn nữa mà thay vào đó là sự phê phán những mặt đen tối, những cái xấu xa, lên án tội ác cường quyền, bạo lực và nêu bậc sự khủng hoảng bế tắc của xã hội thời đại. Nếu như giai đoạn đầu Sêcxpia giải quyết những mâu thuẫn bằng sự hài hòa và lòng tin vào khả năng đạt được sự hài hòa ấy, thì sang giai đoạn này lí tưởng đó không mất đi nhưng những mâu thuẫn đã gấy gắt hơn, kịch liệt hơn và bế tắc hơn thậm chí dẫn đến
  19. bi kịch. Đây là giai đoạn ra đời các vở bi kịch tuyệt tác của ông. Tuy nhiên dù tất cả những xung đột bi kịch trong thời kì này dường như bế tắc nhưng không dẫn đến sự bi quan trong ông. Trái lại Sêcxpia say sưa tìm kiếm những lối thoát cho bi kịch của mình. Bởi trong Sêcxpia luôn tồn tại một niềm tin, niềm tin vào con người, vào sự thắng lợi cuối cùng của những nguyên lí tốt đẹp trong đời sống. Và hướng giải quyết các mâu thuẫn đó không dừng lại ở sự hài hòa nữa mà nó đòi hỏi sự đấu tranh đến cùng để phân chia ranh giới rạch ròi. Sáng tác trong giai đoạn này có các tác phẩm bi kịch tiêu biểu như: Hămlet (1601), Tơ-rôi- lơt va Cre-xi-da, Mọi việc tốt lành nếu kết thúc tốt lành (1602), Mẹo đối mưu, Ô-ten- lô(1604), Vua Lia, Măcbet (1605), Antôni và Cleopat (1606), Cô-ri-ô-la-nơx, Tai-mơn ở Aten (1607), Pê-ri-cơ-lex (1608). Tóm lại, trong giai đoạn này, cái nhìn của Sêcxpia về xã hội thật u ám. Sêcxpia như hụt hẫng với quyền lực của xã hội. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn thấy trong ông niềm tin vào cuộc sống vẫn luôn bùng cháy. Chính niềm tin đó đã gieo vào tác phẩm của ông một ngọn gió mới báo hiệu sự bùng nổ của cuộc cách mạng sẽ diễn ra đó là cuộc cách mạng tư sản Anh. *Giai đoạn 3: Từ 1609-1613 Đây là giai đoạn Sêcxpia quay trở về con đường tìm kiếm một giải pháp lạc quan cho các mâu thuẫn xã hội. Nhưng vì hiện thực cuộc sống thời Sêcxpia không có tiền đề trực tiếp cho sự thắng thế của công lí và điều thiện. Vì vậy những tác phẩm của giai đoạn này là những vở mang màu sắc mơ màng, thần thoại, kết thúc vui vẻ nhưng tính chất bi kịch vẫn còn đậm nét, vẫn mang nội dung phê phán xã hội nhưng kín đáo, nhẹ nhàng hơn. Giai đoạn này có các sáng tác phẩm tiêu biểu như: Xim-bơ-lin (1609), Câu chuyện mùa đông (1610), bão táp (1612). Có thể nói, cả ba giai đoạn sáng tác trên đều phản ánh thế giới quan của Sêcxpia trước thời đại. Ở giai đoạn đầu thể hiện không khí vui vẻ tràn đầy niềm tin vào cuộc sống, vào con người và thể hiện sự ủng hộ của ông đối với chính quyền chuyên chế. Vì ở giai đoạn này, dưới triều đại Tuiđo nước Anh trở thành một quốc gia thống nhất và tiến lên xây dựng nước Anh thành một quốc gia hùng mạnh. Và đến thời Êlizabet thì nước Anh trở thành cường quốc số một thế giới mở ra thời kì “nước Anh vui vẻ”. Chính vì thế mà Sêcxpia tin tưởng và kì vọng về một tương lai tươi sáng thế nhưng càng về sau ông càng hụt hẫng trước niềm tin đó. Điều này được nói rõ ở giai đoạn thứ hai. Ở giai đoạn này nhà văn đầy tinh thần nhân
  20. đạo chủ nghĩa Sêcxpia đã phản ánh một cách chân thật và sinh động mâu thuẫn giữa một bên là lý tưởng nhân văn chủ nghĩa tốt đẹp, một bên là tình trạng bần cùng khốn khổ của nhân dân, giữa lý tưởng tự do và giải phóng con người và thực tế là con người đang rơi vào xiềng xích trói buộc mới. Chính vì thế mà trong các vở bi kịch đã mô tả rất đậm nét cuộc đấu tranh của cá nhân con người chống đối lại các thế lực đen tối của xã hội. Sau khi Êlizabet chết, Giắc lên ngôi đã có những cải cách mới đã mang lại niềm hy vọng mới cho ông nhưng niềm hy vọng đó cũng mong manh. Vì vậy ở giai đoạn ba các vở kịch có kết thúc vui vẻ nhưng vẫn mang tính chất bi kịch. Để có cái nhìn tổng thể về quá trình sáng của Sếcxpia, chúng ta thể hiện lại toàn bộ các tác phẩm của ông theo trình tự thời gian trong bảng niên đại sáng tác sau. Tuy nhiên việc xác định niên đại sáng tác của Sêcxpia đặc biệt khó khăn, vì thời gian in lần đầu tiên của các vở kịch không trùng khớp với thời gian sáng tác và dựng trên sân khấu. Nhờ một quá trình nghiên cứu công phu và lâu dài người ta lập ra được một các gần đúng bảng niên đại sáng tác sau: 1590 Henri VI, phần thứ hai Henri VI, phần thứ ba 1591 Henri VI, phần thứ nhất 1592 Ri-Sớt III Hài kịch của những hiểu lầm 1593 Tai-Đrê-Ni-Cơ X Cô nàng đáo để đã thuần rồi 1594 Hai chàng công tử ở Hê-rô-na Công cốc vất vả với tình Rô-mê-ô và Ju-li-et 1593 Ri-Sơt II Giấc mộng đêm hè 1596 Vua Giôn Người lái buôn thành Vơ-ni-đơ
nguon tai.lieu . vn