Xem mẫu

  1. Luận văn Đề tài: “Các giải pháp huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất sản phẩm, 2 tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm may tại công ty May Chiến Thắng
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ, Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đ ã đạt đ ược thì nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng đã và đang gặp phải những trở lực trong quá trình phát triển trong đó hiện tượng thiếu vốn cho đầu tư phát triển là một trong những vấn đề nổi cộm. Một cán bộ cao cấp của Đảng ta đã từng phát biểu về tình trạng thiếu vốn tại các doanh nghiệp như sau:“ Vốn là nguồn lực đầu tiên và cơ bản của sự phát triển và hiện đại hoá đất nước, cái mà các doanh nghiệp cần hiện nay là vốn,..v.v. và vốn, nếu không có vốn tất cả dự định của chúng ta chỉ là mơ ước mà thôi “ . Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường vừa tạo ra thời cơ nhưng cũng đem đến không ít các thách thức cho các doanh nghiệp. Công ty May Chiến Thắng - một doanh nghiệp may thuộc Tổng công ty Dệt - May Việt Nam là một trong những doanh nghiệp đã trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, trong quá trình hoạt động công ty đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, cũng như nhiều doanh nghiệp khác, công ty đang phải giải quyết rất nhiều vấn đề khó khăn mà nổi bật là vấn đề tạo vốn cho đổi mới máy móc thiết bị . Nếu công ty có thể tạo ra một chính sách huy động và sử dụng vốn thích ứng, có hiệu quả thì nó sẽ là một trong những động lực cơ b ản để phát triển công ty trong tương lai. Trong thời gian thực tập tại công ty May Chiến Thắng. Em đã có đ iều kiện nghiên cứu tình hình thực tế về công tác huy động vốn tại công ty và xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến về: “Các giải pháp huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất sản phẩm,
  3. tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm may tại công ty May Chiến Thắng” Nội dung của luận văn được trình bày qua 3 chương sau: Chương I: Những vấn đề chung về huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại các doanh nghiệp hiện nay Chương II: Thực trạng về công tác huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại công ty May Chiến Thắng Chương III: Một số ý kiến về giải pháp huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại công ty May Chiến Thắng. Do điều kiện trình độ và thời gian hạn chế nên chắc chắn bài luận văn này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự chỉ bảo chân thành của các Thầy-Cô giáo để bản luận văn này được ho àn thiện hơn. Để hoàn thiện đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo: GS-TS Phan Kim Chiến và các thầy cô giáo trong Bộ môn Q uản lý kinh tế cùng sự giúp đỡ quí báu của các cán bộ, công nhân viên Công ty May Chiến Thắng đ ã giúp đỡ em trong thời gian thực hiện luận văn này. H à nội, ngày 10 tháng 2 năm 2002 2
  4. CHƯƠNG 1 NH ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐỔI MỚI MÁY MÓC THIẾT BỊ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP HIỆN NAY 1.1 TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN CỐ ĐỊNH 1.1.1 Tài sản cố định Nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước ở Việt Nam đ ã trải qua hơn 10 năm hình thành, củng cố, từng bước hoàn thiện. Song song với quá trình đó là sự xuất hiện và tác động ngày càng sâu sắc của hệ thống các quy luật kinh tế đặc trưng cho nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận trở thành mục tiêu rất cụ thể, rất thiết thực và mang tính sống còn đối với doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất, tạo ra sản phẩm cần có 3 yếu tố là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải,...) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động sử dụng trong qúa trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là các TSCĐ. Đó là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để được coi là TSCĐ thì các tư liệu lao động phải thoả mãn hai điều kiện cơ bản về giá trị tối thiểu và thời gian sử dụng tối thiểu, hai tiêu chuẩn này được quy định tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý trong từng thời kỳ nhất định. Theo Quyết định 51/TTg ngày 21/01/1995 thì tư liệu lao động được coi là TSCĐ thì phải có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị trên 3
  5. 5.000.000 đ. Tuy nhiên, cũng có những tài sản còn thiếu một trong hai tiêu chuẩn trên nhưng có vị trí đ ặc biệt quan trọng và xét trong m ột hệ thống gồm nhiều bộ phận liên kết với nhau cùng thực hiện một chức năng nào đó thì cũng vẫn được coi là TSCĐ. Đặc điểm chung của TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, trong quá trình đó hình thái vật chất (của TSCĐ hữu hình) và đ ặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận gía trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ. Trong các doanh nghiệp, TSCĐ có nhiều loại khác nhau. Mỗi loại lại có công d ụng kinh tế, tính chất kỹ thuật và được sử dụng trong những điều kiện khác nhau. Để thuận tiện cho công tác quản lý TSCĐ doanh nghiệp cần tiến hành phân loại TSCĐ một cách khoa học. Thông thường có các phương pháp phân loại TSCĐ như sau: Phương pháp thứ nhất: Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện. Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau: + TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất + TSCĐ vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất Phương pháp thứ hai: Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng. Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau: + TSCĐ dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp + TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh, quốc phòng: là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. 4
  6. + TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ: là các TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ Nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác có quan hệ với doanh nghiệp. Phương pháp thứ ba: Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế. Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau: + N hà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho,.. + Máy móc thiết b ị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như phương tiện đường sắt, đường bộ, đường ống,.. + Thiết bị dụng cụ quản lý: là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm: + Các lo ại TSCĐ khác Phương pháp thứ tư: Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng. Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được phân làm những loại sau: + TSCĐ đang sử dụng: Đó là những TSCĐ doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, phúc lợi , sự nghiệp,.. + TSCĐ chưa cần dùng: Đó là các TSCĐ cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng hiện tại doanh nghiệp chưa sử dụng, đang cất trữ. + TSCĐ không cần sử dụng, chờ thanh lý: Đó là những TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh, cần thanh lý, nhượng bán để thu hồi lại vốn đầu tư. Trên đây là bốn phương pháp phân lo ại TSCĐ chủ yếu trong doanh nghiệp, ngoài ra tuỳ theo đặc điểm tổ chức quản lý mà ở từng doanh nghiệp còn tiến 5
  7. hành phân loại TSCĐ theo các tiêu thức khác nhau như phân loại TSCĐ theo nguồn hình thành, theo bộ phận sử dụng,.. Bốn phương pháp phân loại TSCĐ trên giúp cho doanh nghiệp thấy đ ược cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình, cơ cấu TSCĐ theo mục đích sử dụng, công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ và mức độ sử dụng có hiệu quả các TSCĐ. Đó là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng các quyết định đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp với tình hình thực tế đồng thời nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ và tính khấu hao TSCĐ cho chính xác. 1.1.2 Vốn cố định Vốn cố định là số vốn ứng trước để mua sắm, xây dựng TSCĐ hữu hình và vô hình. VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ, song chính đặc điểm của TSCĐ lại quyết định đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Đặc điểm của V CĐ là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, nó được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất và sau nhiều chu kỳ sản xuất VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Trong các doanh nghiệp VCĐ chiếm vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó là là một bộ phận của vốn đầu tư nói riêng và vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Việc xác định quy mô VCĐ, mức trang bị TSCĐ hợp lý là cần thiết song điều quan trọng nhất là phải có biện pháp quản lý sử dụng tốt VCĐ tránh thất thoát vốn đảm bảo năng lực sản xuất và hiệu quả hoạt động của TSCĐ. Trong công tác quản lý VCĐ, một yêu cầu được đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải bảo toàn VCĐ. Bảo toàn vốn có thể hiểu là việc giữ nguyên vẹn sức mua của đồng vốn ban đầu và không ngừng làm cho nó phát triển lên để sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn vốn, với số vốn thu hồi được doanh nghiệp ít nhất cũng có thể mua được một khối lượng TSCĐ có quy mô và tính năng kỹ thuật như cũ với thời giá hiện tại. Trong quy chế quản lý tài chính và 6
  8. hạch toán kinh doanh đối với DNNN ban hành kèm theo Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 và sau này là Nghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 20/04/1999 có quy đ ịnh rõ: “ ... Doanh nghiệp có nghĩa vụ nhận, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực được Nhà nước giao, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn,..” Tại các doanh nghiệp việc bảo toàn VCĐ phải xem xét trên cả hai mặt : hiện vật và giá trị. Bảo toàn VCĐ về mặt hiện vật không phải chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và đ ặc tinh sử dụng ban đầu của TSCĐ mà quan trọng hơn là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Bảo to àn V CĐ về m ặt giá trị là phải duy trì sức mua của VCĐ ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể sự biến động của giá cả, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Việc bảo toàn vốn cụ thể như thế nào còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của bản thân TSCĐ tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể áp dụng các phương pháp b ảo to àn V CĐ như: tổ chức đánh giá và đánh giá lại TSCĐ, lựa chọn phương pháp và tỷ lệ khấu hao thích hợp, thường xuyên duy tu bảo dưỡng TSCĐ ,.., hay kiểm tra hiệu quả sử dụng TSCĐ thông qua các chỉ tiêu tài chính . Tóm lại, TSCĐ và VCĐ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc bảo toàn VCĐ, thường xuyên đổi mới TSCĐ cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường là vấn đề doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm nếu không muốn mình bị tuột hậu và thất bại trong cạnh tranh. 1.1.3 Hao mòn TSCĐ Trong qúa trình sử dụng, TSCĐ bị hao mòn do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, hao mòn TSCĐ được chia làm hai loại. Hao mòn hữu hình TSCĐ : là sự hao m òn về vật chất và gía trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy 7
  9. được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, trọng tải, nhiệt độ,... sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu ,.. và cuối cùng TSCĐ không còn sử dụng được nữa. Về mặt giá trị đó là sự giảm dần gía trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Hao mòn vô hình TSCĐ : là sự giảm sút về giá trị trao đổi của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Người ta thường chia hao mòn vô hình thành các loại sau: + H ao mòn vô hình loại 1: TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do đã có những TSCĐ như cũ song giá mua lại rẻ hơn. Do đó trên thị trường các TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình. + H ao mòn vô hình loại 2: TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do đã có những TSCĐ mới tuy mua với giá trị như cũ nhưng lại hoàn thiện hơn. Do đó trên thị trường các TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình. + Hao mòn vô hình loại 3: TSCĐ bị mất giá ho àn toàn do chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm tất yếu dẫn đến những TSCĐ sử dụng để sản xuất những sản phẩm này cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Tóm lại, trong quá trình sử dụng, TSCĐ bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Bộ phận giá trị hao mòn đó được chuyển dịch dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao TSCĐ. Bộ phận giá trị này được cấu thành trong giá thành sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao. Sau khi sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ, số tiền khấu hao sẽ được tích luỹ lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ. Việc trích lập quỹ khấu hao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp bởi nó là một trong những nguồn vốn cơ bản để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ. 1.2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI MÁY MÓC THIẾT BỊ CÔNG N GHỆ V À CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUYẾT ĐỊNH ĐẦU 8
  10. TƯ ĐỔI MỚI MÁY MÓC THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ TẠI DOANH NGHIỆP. 1.2.1 Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là đòi hỏi khách quan tại các doanh nghiệp Nền kinh tế thị trường đ ã tạo cho các doanh nghiệp nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, gắn chặt với nó là một hệ thống các quy luật kinh tế trong đó quy luật cạnh tranh giữ một vị trí chủ chốt. Mỗi doanh nghiệp khi ho ạt động đều phải chấp nhận cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Nếu doanh nghiệp nào chiến thắng được trong cạnh tranh thì sẽ tiếp tục phát triển, còn nếu không thua lỗ phá sản là khó tránh khỏi. Do đó, các doanh nghiệp luôn tìm kiếm các giải pháp nhằm chiếm lợi thế trong cạnh tranh. Trong số rất nhiều giải pháp thường được áp dụng thì đầu tư đổi mới máy móc thiết bị , hiện đại hoá công nghệ sản xuất là giải pháp quan trọng. Bởi nếu doanh nghiệp thường xuyên đổi mới máy móc thiết bị công nghệ sản xuất, thường xuyên trang bị mới những TSCĐ hiện đại thì sẽ có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tối đa các khoản chi phí sản xuất,... Sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra vừa có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường về chất lượng sản phẩm cũng như hình thức mẫu mã, tiết kiệm đ ược chi phí sản xuất sẽ giảm được giá bán sản phẩm, đáp ứng đ ược nhu cầu tiêu dùng trong điều kiện kinh tế hạn hẹp của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp với hạ giá bán sẽ làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, điều này còn có ý nghĩa hơn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có nhưng thay đổi theo chiều hướng hội nhập dần với kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay, việc đổi mới máy móc thiết bị công nghệ đặt ra như một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp bởi máy móc thiết bị của các doanh nghiệp đã cũ và lạc hậu. Điều này được thể hiện qua các mặt sau: 9
  11. + Trang thiết bị hầu hết đã cũ nát, chắp vá không thể sản xuất được những sản phẩm yêu cầu độ chính xác cao , không thể đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Trước đây nước ta nhập máy móc thiết bị từ nhiều nguồn khác nhau: 25% từ Liên Xô( Cũ), 21% từ các nước Đông Âu, 20% từ các nước ASEAN, ... nên tính đ ồng bộ kém, khi sử dụng năng lực thiết bị chỉ đạt 50% công suất, thiết bị lạc hậu từ 3-5 thế hệ,... + Do đ ầu tư thiếu đồng bộ nên thiếu nhiều phụ tùng thay thế, suất tiêu hao vật liệu, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm còn quá lớn, nhiều tiêu chuẩn, qui phạm, định mức đã lỗi thời nhưng chưa sửa đổi. Máy móc thiết bị cũ làm cho số giờ chết máy cao, ... những nguyên nhân trên làm cho cho giá thành sản phẩm lên cao . Theo điều tra mới đây, trong số gần 5000 DNNN có đ ến hơn một nửa sử dụng máy móc thiết bị có hệ số hao m òn lớn hơn 50%, gần 70% máy móc thiết bị được sản xuất từ những năm 1960-1970. Điều này dẫn đến tình trạng có nhiều máy móc thiết bị phải nằm “ đắp chăn” không thể sử dụng được nữa. Theo tính toán chung, số hàng hoá trong nước hiện bị ứ đọng thì 40% là do giá thành cao và chất lượng kém, 20% đ ã lạc hậu lỗi mốt, 30% do không cạnh tranh nổi với hàng ngoại. Công nghệ cũ còn gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng tại nhiều khu vực khác nhau. Tóm lại, việc đổi mới máy móc thiết bị là đòi hỏi khách quan đối với các doanh nghiệp nếu muốn chiến thắng trong cạnh tranh, củng cố và mở rộng chỗ đứng của mình trên thị trường cả trong hiện tại và tương lai. 1.2.2 Các yêu cầu cơ bản đối với máy móc thiết bị công nghệ khi tiến hành quá trình đầu tư đổi mới tại các doanh nghiệp hiện nay. Đổi mới máy móc thiết bị là cần thiết đối với các doanh nghiệp song việc đổi mới hoàn toàn không đơn giản, nó phải đảm bảo được một loạt các yêu cầu sau: 10
  12. Đổi mới phải bắt kịp tiến bộ khoa học công nghệ: Mục đích của việc đổi mới thiết bị công nghệ trong doanh nghiệp là thay thế, khắc phục những tồn tại, hạn chế của công nghệ cũ bằng những công nghệ mới tiên tiến hơn, ưu việt hơn, có khả năng tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế, khi thực hiện hoạt động đầu tư đổi mới doanh nghiệp cần tiến hành điều tra, nghiên cứu kỹ tính năng kỹ thuật cũng như mức độ tối tân của công nghệ sắp đầu tư. Việc điều tra, nghiên cứu này sẽ giúp doanh nghiệp tránh việc đầu tư vào những công nghệ lạc hậu, làm giảm sút hiệu quả của hoạt động đầu tư. Đổi mới phải đồng bộ , có trọng điểm: Tính đồng bộ trong đổi mới là rất quan trọng bởi một sản phẩm tạo ra nếu muốn được thị trường chấp nhận thì cần phải đáp ứng được nhiều mặt như chất lượng, kiểu dáng, mẫu m ã,.. nếu đổi mới một cách“ khập khiễng ” chẳng hạn như sản phẩm vẫn giữ nguyên kiểu dáng, mẫu mã, chỉ thay đổi chất lượng, chất liệu cấu thành sản phẩm thì rất khó cho người tiêu dùng nhận ra được những ưu điểm mới của sản phẩm này. Do đó, sẽ làm giảm hiệu quả của công tác đổi mới tài sản. Tuy nhiên, đổi mới đồng bộ đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn, đây là một trở ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp .Do đó, nếu thiếu vốn để đầu tư, thì doanh nghiệp nên thực hiện giải pháp tình thế là đổi mới có trọng điểm. Tính trọng điểm của hoạt động đầu tư thể hiện ở chỗ: chỉ đổi mới đối với những công nghệ chủ chốt mang tính sống còn đ ối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đã thiếu vốn lại đầu tư một cách giàn trải chắc chắn sẽ dẫn tới thất bại trong hoạt động đầu tư. Đổi mới phải đón trước được yêu cầu và thị hiếu của thị trường: Những đòi hỏi của thị trường về một loại sản phẩm nào đó có thể thay đổi rất nhanh. Nếu doanh nghiệp không điều tra, nghiên cứu kỹ trước khi thực hiện hoạt động 11
  13. đầu tư đổi mới chắc chắn sẽ làm giảm sút hiệu quả của hoạt động đầu tư thậm chí công tác đổi mới sẽ hoàn toàn vô nghĩa. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư đổi mới Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị là đòi hỏi khách quan nhưng nếu xét trên giác độ quản lý tài chính thì hoạt động đầu tư này chính là các quyết định đầu tư dài hạn, đầu tư không chỉ cho hiện tại mà phải đón đầu được những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tương lai và cần có một nguồn vốn lớn. Vì vậy, để đi đến một quyết định đầu tư đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng hàng loạt các vấn đề- những yếu tố chi phối trực tiếp đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Một là: Tính hiệu quả của dự án đầu tư: Hoạt động đầu tư dài hạn luôn chứa đựng trong nó rất nhiều rủi ro. Mỗi doanh nghiệp phải xác định được độ tin cậy của dự án đầu tư, phải dự đoán được sự biến động trong tương lai về chi phí đầu tư bỏ ra, thu nhập nhận được từ dự án đầu tư, lãi suất vay vốn, khả năng tiêu thụ sản phẩm ,.. Vì vậy, phân tích tính khả thi của dự án đầu tư là công việc phải được tiến hành rất kỹ lưỡng, tỷ mỉ, khoa học trước khi thực hiện dự án đầu tư. Hai là: Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ luôn luôn thay đổi, nó có thể là thời cơ cũng có thể là nguy cơ đe doạ đối với tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trước khi thực hiện dự án đầu tư cần phải tính đến những tiến bộ trong tương lai của khoa học công nghệ đối với những thiết bị mình sẽ đầu tư, từ đó có thể xác định chính xác trọng tâm cũng như cách thức đầu tư đổi mới trang thiết bị. Nếu thiết bị máy móc luôn tiên tiến, ít nhất ngang bằng với công nghệ của các doanh nghiệp cùng ngành trong nước cũng như khu vực thì doanh nghiệp mới có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có lợi thế trên thị trường, có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại. 12
  14. Ba là: Thị trường và sự cạnh tranh: Một dự án đầu tư chỉ có thể được chấp nhận khi nó có khả năng tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, có khả năng sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng đ ược những đòi hỏi ngày càng phong phú và khắt khe của thị trường. V ì vậy , khi đưa ra một quyết định đầu tư không thể thiếu được sự phân tích kỹ tình hình hiện tại của bản thân doanh nghiệp, tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như d ự đoán diễn biến tình hình thị trường trong tương lai. Bốn là: Khả năng tài chính của doanh nghiệp: doanh nghiệp không thể tiến hành các dự án đầu tư nằm ngoài khả năng tài chính của mình. Hoạt động đầu tư đổi mới máy móc thiết bị luôn mang tính hai mặt. Một mặt, nó đem lại diện mạo mới, tạo ra lợi thế trong cạnh tranh và uy tín cho doanh nghiệp. Mặt khác, đó là ho ạt động đầu tư cho tương lai, luôn chứa đựng những rủi ro và mạo hiểm. Một cơ cấu tài chính vững chắc sẽ là điều kiện tiên quyết đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Chính vì vậy công tác đầu tư đổi mới máy móc thiết bị phải quan tâm tới tình hình tài chính tại thời điểm đầu tư, trong quá trình đầu tư, hiệu quả của hoạt động đầu tư. Có như vậy doanh nghiệp mới tránh được những cú sốc về tài chính do hậu quả của hoạt động đầu tư sai lầm gây ra. Nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư là rất lớn, nó phát sinh liên tục. Tình trạng chung tại các doanh nghiệp hiện nay là nguồn vốn tự có rất hạn hẹp và thường không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Vì vậy, để có đủ vốn thực hiện ho ạt động đầu tư thì doanh nghiệp phải huy động thêm dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi huy động các nguồn vốn doanh nghiệp cần chú ý đến một số vấn đề sau: + Số vốn cần phải huy động: Việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn là cần thiết nhưng phải đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc tài chính như: không huy động vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn, lượng vốn vay vượt quá xa 13
  15. so với lượng vốn tự có dẫn tới hệ số nợ lên cao và có thể mất khả năng thanh toán,.. + Chi phí huy động vốn: Để hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao thì nhất thiết doanh nghiệp cần quan tâm đến chi phí sử dụng vốn và thời gian huy động vốn. Nếu như vốn vay là một loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, nó cũng chịu sự tác động của quy luật cung- cầu thì lãi vay phải trả chính là số tiền doanh nghiệp phải chi ra để có quyền sử dụng số vốn vay đó. Doanh nghiệp khi vay vốn cần so sánh giữa chi phí sử dụng vốn và kết quả thu được do sử dụng vốn vay đó. Mặt khác, thời gian vay phải phù hợp với thời gian khấu hao, với chu kỳ luân chuyển của TSCĐ được hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, còn có một số nhân tố khác cũng có ảnh hưởng tới quyết định đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị tại doanh nghiệp như: các chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, tính rủi ro của hoạt động đầu tư, .... Như vậy, để việc huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ đúng hướng, mang lại hiệu quả kinh tế cao thì trước khi thực hiện các dự án đầu tư doanh nghiệp cần nghên cứu kỹ các vấn đề đ ã được đề cập ở phần trên. Đó chính là các cơ sở quan trọng để đưa ra những quyết định đầu tư đúng hướng, đảm bảo sự thành công của hoạt động đầu tư. 1.3 PHƯƠNG HƯỚNG HUY ĐỘNG VỐN ĐỔI MỚI MÁY MÓC THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP HIỆN NAY. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm 1997,1998,1999 và những tháng đầu năm 2000 là một hồi chuông cảnh tỉnh với các nhà quản lý về nguy cơ trì trệ của nền kinh tế. Sự phát triển mạnh và ổn định của nền kinh tế luôn gắn liền với sự phát triển ổn định và có hiệu quả của các doanh nghiệp. Đặc biệt là khi sự phát triển của các doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá- 14
  16. H iện đại hoá. Xuất phát từ thực trạng về vốn trong các doanh nghiệp hiện nay thì vấn đề giải quyết các khó khăn về vốn là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết không thể trì hoãn. Vậy đâu là nguyên nhân d ẫn tới tình trạng thiếu vốn tại các doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng ? + Nguồn vốn NSNN cấp cho các DNNN còn hạn hẹp. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Mặc d ù trong những năm gần đây thu NSNN không ngừng tăng nhưng cùng với nó rất nhiều khoản chi NSNN cũng phát sinh và đòi hỏi một lượng vốn lớn từ NSNN. Hiện tượng bội chi NSNN diễn ra thường xuyên trong các năm tài khoá. Chính vì vậy, nguồn vốn NSNN cấp cho các doanh nghiệp rất hạn hẹp, phân tán, không đáp ứng đủ nhu cầu vốn để đổi mới tài sản tại các DNNN. Khu vực kinh tế tư nhân thì lại càng khó khăn hơn, các doanh nghiệp này quy mô vốn chủ sở hữu thường nhỏ, khả năng vay vốn từ ngân hàng cũng khó khăn do phải chịu nhiều sức ép như vay vốn phải có tài sản thế chấp, lãi suất vay vốn thường ít được ưu đãi hơn lãi suất vay vốn ở các DNNN, .... + Mặc dù đã trải qua hơn 10 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nhưng một thực tế không thể phủ nhận là cơ chế quản lý kinh tế cũ chưa hoàn toàn bị xoá bỏ, bản thân tại một số doanh nghiệp còn có một sức ỳ khá lớn, chưa thoát khỏi tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, thiếu năng động trong công tác quản lý cũng như tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Trình độ quản lý kinh tế yếu kém dẫn tới tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đầu tư phát triển, bản thân chính các doanh nghiệp này chưa phát huy được năng lực thực sự của mình. Do không mạnh dạn tìm kiếm các nguồn tài trợ khác từ bên ngoài nên việc thiếu vốn là khó tránh khỏi. Ngoài ra còn có nhiều lý do khác cũng dẫn tới hiện tượng thiếu vốn tại các doanh nghiệp như: Cơ chế vay vốn tín dụng còn khá ngặt ngèo đối với khu 15
  17. vực kinh tế tư nhân (vay vốn phải thế chấp tài sản, ..), thị trường vốn tại Việt N am chưa được hoàn thiện, .. Để giải quyết nghịch lý ngân hàng thừa vốn trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn, Nhà nước cần bổ sung các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn có thể vay vốn, phục vụ cho nhu cầu đầu tư đổi mới đang trở nên cấp bách. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ đ ược đặt ra như một yêu cầu cấp bách trước sức ép của thị trường, của cạnh tranh,... Để phù hợp với việc huy động, quản lý và sử dụng vốn ta có thể chia toàn b ộ số vốn mà doanh nghiệp có thể huy động để đầu tư đ ổi mới máy móc thiết bị thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài. 1.3.1 Nguồn vốn bên trong Đây là các nguồn vốn có thể huy động được từ nội bộ doanh nghiệp bao gồm quỹ khấu hao và lợi nhuận để lại tại quỹ đầu tư phát triển. Quỹ khấu hao được hình thanh trên cơ sở số tiền trích khấu hao TSCĐ được tích luỹ lại. Quỹ khấu hao lớn dần lên cùng với sự giảm dần về mặt giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ trong quá trình hoạt động. Mục đích nguyên thuỷ của việc trích lập quỹ khấu hao là nhằm tái sản xuất giản đ ơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Trước năm 1994, số tiền khấu hao được giữ lại tại các DNNN rất nhỏ bé, doanh nghiệp không có quyền sử dụng số tiền khấu hao TSCĐ có nguồn gốc từ NSNN. Tuy nhiên, từ năm 1994 trở lại đây Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cho các DNNN bằng cách giao toàn bộ số tiền khấu hao cho doanh nghiệp. Đây là một thay đổi hoàn toàn phù hợp đặc biệt trong điều kiện hiện nay việc đổi mới máy móc thiết bị có thể coi là một trong những giải pháp quan trọng để các doanh nghiệp đảm bảo sự phát triển của mình trên thị trường. Ngoài quỹ khấu hao cơ bản, lợi nhuận để lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại quỹ đầu tư phát triển cũng là một nguồn vốn quan trọng để tái đầu 16
  18. tư đổi mới TSCĐ. Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa chi phí bỏ ra và thu nhập trong một thời kỳ nhất định. Số lợi nhuận để lại tại doanh nghiệp là phần còn lại của lợi nhuận trước thuế thu nhập sau khi đã trừ đi một số khoản khác như : thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thu sử dụng vốn,..Theo tinh thần của N ghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 20/04/1999 thì phần lợi nhuận để lại này được doanh nghiệp sử dụng để bù đắp, bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và trích lập các quỹ như: quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,... với tỷ lệ trích lập đ ược quy định rất chi tiết. Trong số các quỹ trên thì doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ đầu tư phát triển phục vụ cho hoạt động đầu tư đổi mới hiện đại hoá TSCĐ. Hoạt động tài chính tại các doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú, trên thực tế ngoài một số nguồn vốn kể trên doanh nghiệp còn có thể khai thác một số nguồn vốn nữa nhưng chỉ mang tính chất tạm thời như : nguồn vốn do thanh lý nhượng bán TSCĐ, do chênh lệch đánh giá lại tài sản, do kiểm kê tài sản phát hiện thừa,... Trong công tác huy động vốn doanh nghiệp đặc biệt coi trọng nguồn vốn bên trong bởi nó có rất nhiều ưu điểm: Một là: Tái đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ là mục đích nguyên thuỷ của việc trích lập quỹ khấu hao Hai là: Nguồn vốn bên trong là nguồn vốn chủ sở hữu, nó thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có toàn quyền quyết định trong việc sử dụng nên việc sử dụng ngồn vốn này khá linh hoạt và không phải chịu những sức ép trong quá trình sử dụng như vốn vay ( như sức ép về việc thanh toán nợ gốc khi khoản vay đáo hạn, lãi vay phải trả, các quy định chặt chẽ do ngân hàng đề ra trong quá trình sử dụng vốn vay,..) Như vậy, huy động tối đa nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp là xu hướng chung trong việc huy động vốn đổi mới thiết bị công nghệ. Tuy nhiên, 17
  19. thực trạng tại các doanh nghiệp hiện nay là nguồn vốn bên trong còn rất hạn chế, thường không thể đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng tại doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc huy động nguồn vốn bên ngoài là cần thiết. 1.3.2 Nguồn vốn bên ngoài Nguồn vốn bên ngoài là các khoản doanh nghiệp đi vay của các tổ chức, cá nhân có quan hệ với mình, đó có thể là quan hệ bạn hàng, đối tác, cán bộ công nhân viên trong công ty, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, huy động vốn qua hợp tác liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu,... Nguyên tắc cơ bản khi huy động vốn vay là: Khi huy động tối đa nguồn vốn bên trong mà không đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư thì sẽ đi vay nhưng phải đảm bảo thu nhập nhận được từ việc sử dụng vốn vay phải lớn hơn các chi phí bỏ ra khi sử dụng vốn vay. Trong thực tế, các nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp có thể huy động được gồm có: Phát hành trái phiếu : Đây là hình thức huy động vốn khá đặc trưng và đem lại hiệu quả huy động vốn cao tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Việc sử dụng trái phiếu để tài trợ dài hạn cho nhu cầu đầu tư sẽ tạo ra sự linh hoạt hơn cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng vốn bởi doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động đầu tư mà không phải tuân thủ một loạt các quy chế tín dụng như sử dụng vốn vay ngân hàng, nó có huy động đủ vốn cho doanh nghiệp để thực hiện quá trình đầu tư trong một khoảng thời gian ngắn, quyền kiểm soát và lãnh đạo doanh nghiệp không bị xáo trộn,...Do đó, phát hành trái phiếu để tài trợ vốn dài hạn cho hoạt động đầu tư là một hướng đi quan trọng Phát hành cổ phiếu: Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng việc phát hành cổ phiếu. Mặc dù phát hành cổ phiếu còn là một hình thức huy động vốn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam 18
  20. nhưng đây là một hướng đi rất có triển vọng bởi trong thời gian gần đây Chính phủ đang khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá để huy động vốn và nhiều doanh nghiệp đã thực hiện theo hướng này, sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam đã được thành lập và trong một tương lai gần sẽ chính thức đi vào hoạt động. Hệ thống pháp luật về trái phiếu, cổ phiếu đang được hoàn thiện, trình độ hiểu biết của công chúng về cổ phiếu và trái phiếu dần được nâng cao.... Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn tại doanh nghiệp. Liên doanh liên kết: Sự cạnh tranh gay gắt buộc các doanh nghiệp thay vì tìm cách vượt qua lẫn nhau, loại bỏ nhau thì liên doanh liên kết, sát nhập lại để cùng nhau phát triển được coi là một xu thế mới mẻ và có nhiều triển vọng. V iệc chuyển từ đối đầu sang đối thoại hợp tác cùng phát triển không những không làm cho doanh nghiệp suy yếu đi m à còn đem lại nhiều ưu thế. Khi tiến hành liên doanh liên kết thì doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn chủ sở hữu đủ lớn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Liên doanh vừa tạo điều kiện tăng nguồn lực tài chính, nâng cao trình độ quản lý và sử dụng thiết bị công nghệ, tận dụng ưu thế hiện có của các bên liên doanh ... Doanh nghiệp có thể liên doanh với các đối tác trong nước nhưng xu hướng hiện nay là hợp tác liên doanh với nước ngoài. Thông thường bên Việt Nam góp vốn bằng đất đai, nhà xưởng là chủ yếu, còn bên nước ngoài góp vốn bằng máy móc thiết bị công nghệ hoạc bằng tiền. Như vậy, đối với các doanh nghiệp Việt Nam điều này là có lợi bởi có thể đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ trong điều kiện thiếu vốn. Khó khăn lớn nhất của bên Việt Nam khi tiến hành liên doanh là việc xác định trị giá vốn góp của bên đối tác, việc thiếu kinh nghiệm này nhiều khi gây lên những bất lợi lớn đối với b ên Việt Nam. N goài ra việc xây dựng điều lệ hoạt động của liên doanh thiếu chặt chẽ, không khoa học đã dẫn tới hiện tượng b ên đối tác dựa vào những hạn chế của 19
nguon tai.lieu . vn