Xem mẫu
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NÔNG HỌC
ĐỀ CƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG LÂN VÀ KALI BÓN
ĐẾN SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT CỦA GIỐNG
LÚA KHÂU KÝ TẠI HUYỆN TÂN UYÊN TỈNH LAI CHÂU
Người hướng dẫn : TS. NGUYỄN MAI THƠM
Bộ môn : CANH TÁC HỌC
Người thực hiện : PHẠM THỊ NHINH
Lớp
Mã sinh viên
: KHCTB – K57
: 572284
1
HÀ NỘI – 2015
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong năm loại cây lương thực chính của
thế giới. Lúa gạo ảnh hưởng tới ít nhất đời sống của 65% dân số thế giới và là
nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con người. Vì vậy việc quan tâm phát
triển cây lúa được đặt lên hàng đầu.
Lúa Khẩu Ký là giống lúa đặc sản hoang dại đã được một người nông dân
miền núi tìm thấy trong tự nhiên. Với đặc điểm là giống lúa thuần, cây cao,
khóm to khỏe. hạt to,chắc cho chất lượng gạo rất thơm, dẻo và ngon. Do đó, giá
thành của loại gạo này thường cao hơn so với các loại gạo khác bán trên thị
trường và được bán với số lượng ít. Tuy nhiên do canh tác theo phương pháp
truyền thống, không được chọn lọc cẩn thận nên giống lúa này ngày càng bị
thoái hoá, phân li ra nhiều dòng, không giữ được đặc điểm trội, nhiều sâu bệnh,
năng suất thấp.
Trước thực trạng đó, từ năm 2012 đến nay, Sở KH&CN Lai Châu đã phối
hợp với Trung tâm Thực nghiệm và Đào tạo nghề Học viện Nông Nghiệp Việt
Nam nghiên cứu, phục tráng, phát triển giống lúa này qua dự án “Phục tráng
giống lúa Khẩu ký, Nếp Tan địa phương của huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu”.
Đề tài được thực hiện trong 3 năm (2012 2015) với các nội dung Điều tra
khảo sát tình hình sản xuất giống lúa khẩu ký tại huyện Tân uyên; nghiên cứu
phục tráng giống lúa khẩu ký tại huyện Tân Uyên; đánh giá chất lượng cơm
2
của giống lúa khẩu ký sau khi phục tráng; nghiên cứu xây dựng quy trình sản
xuất thâm canh giống lúa khẩu ký; xây dựng mô hình sản xuất trình diễn lúa
khẩu ký đã phục tráng; tuyên truyền nhân rộng mô hình phục vụ sản xuất, trên
các xã điểm triển khai của huyện Tân Uyên: Nậm Sỏ, Trung Đồng, Thân Thuộc.
Sau 3 năm triển khai đề tài, từ giống lúa siêu nguyên chủng thu được, vụ mùa
2014 trung tâm đã cung cấp giống nguyên chủng cho bà con nông dân ở thị trấn
Tân Uyên và hai xã: Trung Đồng, Thân Thuộc gieo cấy.Với sự hỗ trợ giống và
phân bón của huyện Tân Uyên, nên vụ mùa 2014 hơn 300 hộ đã gieo cấy 109 ha,
ngoài ra nhiều hộ cũng mua giống Khẩu Ký về trồng. Tổng diện tích lúa Khẩu
Ký của huyện Tân Uyên gieo cấy trên 150 ha.
Tiếp nối các thành quả nghiên cứu trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu ảnh hưởng của liều lượng Lân và Kali bón đến sinh trưởng, phát
triển và năng suất của giống lúa Khẩu Ký tại huyện Tân Uyên, tỉnh Lai
Châu”.
1.2 Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Xác định liều lượng Lân và Kali đến sinh trưởng và năng suất giống lúa
Khẩu Ký trong vụ mùa nhằm góp phần hoàn thiện quy trình canh tác và phổ
biến sản xuất giống lúa Khẩu Ký tại huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
1.2.2. Yêu cầu
Xác định lượng bón phân Lân đối với các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển
và năng suất cho lúa Khẩu Ký vụ Mùa tại Tân Uyên, Lai Châu.
3
Xác định lượng bón phân Kali đối với các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển
và năng suất cho lúa Khẩu Ký vụ Mùa tại Tân Uyên, Lai Châu.
Đảm bảo về mặt kỹ thuật trồng trọt.
Kết quả thí nghiệm phải chính xác, trung thực.
PHẦN II
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
2.1.1 Tình hình nghiên cứu về Lân:
Theo kết quả của Nagai (1959), lân được hút trong 42 ngày đầu tiên sau cấy
thì chuyển lên bong, có tác dụng rõ rệt đến năng suất lúa, còn lân được hút sau
đó phần lớn được ở rễ và trong rơm rạ (Đào Thế Tuần, 1963).
Theo Kamurava và Ishizaka (1996), thời kì lân có hiệu suất cao nhất là thời
kì đầu sau cấy 10 – 20 ngày (Katyal, 1978).
Buba (1960) cho biết, lúa là loại cây trồng cần ít lân, do đó khả năng hút lân
từ đất mạnh hơn cây trồng cạn (Katyal, 1978).
Nghiên cứu của Brady, Nylec (1985) cho thấy, đối với lúa chỉ cần giữ cho
lân có trong đất khoảng 0,2ppm hoặc thấp hơn một chút là có thể cho năng suất
tối đa. Tuy vậy, cần bón lân kết hợp với các loại phân khác như đạm, kali mới
nâng cao được hiệu quả của nó (Katyal, 1978).
4
2.1.2 Tình hình nghiên cứu về Kali
Yoshida (1985) cho biết, chỉ khoảng 20% tổng lượng kali cây hút là được
vận chuyển vào hạt, lượng còn lại tích luỹ trong rơm, rạ.
Theo Matsuto, giữa việc hút đạm và kali có mối tương quan thuận, tỉ lệ
N/K thường là 1,26. Nếu cây hút nhiều đạm thì dễ thiếu kali, do đó thường phải
bón nhiều kali ở những ruộng bón nhiều đạm (Tandon và Kimo 1995; Pan Xigan
1990).
Kết quả nghiên cứu của Trại thí nghiệm Cuban (Liên Xô cũ) cho biết, để
thu được 4 tấn thóc/ha cần bón 3550kg K2O, trung bình 44kg K2O/ha (Nguyen
Van Bo và cs, 1993; Hargopal, 1988).
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
2.2.1 Tình hình nghiên cứu về Lân
Lúa hút lân mạnh nhất vào thời kì đẻ nhánh và làm đòng (Nguyên Văn
Uyển, 1994; Trung, 1994).
Trung bình để tạo ra một tấn thóc, lúa hút khoảng 7,1kg P2O5. Lân trong đất
rất ít, hệ số sử dụng lân của lúa lại thấp, do vậy phải bón lân với liều lượng
tương đối khá.
Kết quả thí nghiệm của Trường Đại học Nông nghiệp II (1994) cho thấy:
trọng vụ xuân, bón lân từ 30120kg P2O5/ha đều làm tăng năng suất lúa 1017%.
Liều lượng 90kg P2O5 cho năng suất cao nhất, nếu bón nhiều hơn năng suất có
xu hướng giảm; trong vụ hè thu, đối với giống lúa VM1, bón supe lân hay lân
nung chảy đều làm tăng năng suất rất rõ rệt (Nguyễn Vi, 1995; Nguyễn Văn
Uyển, 1994).
2.2.2 Tình hình nghiên cứu về Kali
5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn