Xem mẫu

Câu 1. Tại sao nói giáo dục là hoạt động cơ bản của xã hội ? MỞ ĐẦU Để tồn tại và phát triển, con người cũng như mọi sinh vật khác phải luôn tự vận động và phát triển mọi tiềm năng và sức mạnh bản chất của mình, thực hiện các hoạt động cơ bản nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để thoả mãn nhu cầu của bản thân và thích ứng với môi trường sống. Trong các hoạt động đó có hoạt động giáo dục. Xét từ góc độ xã hội học và tâm lí học, có thể định nghĩa giáo dục chính là một quá trình xã hội hoá nhân cách được tổ chức một cách chuyên biệt (có tổ chức, có mục đích và được xã hội phân công, chuyên môn hoá). Tất cả các tác động nào đó của con người, nếu nhằm truyền thụ cho thế hệ sau, hoặc cho người khác và giúp họ lĩnh hội “kinh nghiệm xã hội – lịch sử”, định hướng cho thế hệ sau có được sự phát triển nhân cách và sự thuận lợi khi bước vào cuộc sống xã hội thì đều được gọi là giáo dục . Là một hiện tượng XH đặc biệt, chức năng đặc thù của GD là sự chuyển giao (truyền thụ và lĩnh hội, thông qua giao tiếp và hoạt động) hệ thống kinh nghiệm xã hội – lịch sử của các thế hệ trước (của loài người) cho thế hệ sau (đến từng cá thể người) một cách có mục đích, có ý thức , đảm bảo cho thế hệ sau có được sự phát triển nhân cách thuận lợi và thích ứng với yêu cầu cuộc sống, sự phát triển XH Là một quá trình “xã hội hoá nhân cách” được tổ chức một cách chuyên biệt, nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện nhân cách con người (cá nhân/ nhóm/ XH) Hoạt động cơ bản của xã hội là hoạt động của con người nhằm để tồn tại và phát triển của XH, không có nó XH không thể tồn tại và phát triển. Các hoạt động cơ bản của xã hội như hoạt động sản xuất, hoạt động nhận thức, hoạt động giáo dục, hoạt động văn hóa, hoạt động đấu tranh chính trị ... Giáo dục, lúc đầu là HĐXH mang tính tự phát, sau dần trở thành hoạt động có ý thức tự giác của con người, của xã hội. Giáo dục bắt nguồn từ lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, giáo dục cũng bắt đầu....Nguồn gốc của giáo dục bắt nguồn từ lao động vì trong quá trình tác động vào thế giới kháeh quan, con người tiếp thu và tích lũy dược những kinh nghiệm truyền lại cho người khác cho thế hệ sau để ứng dụng vào quá trình lao động để đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy giáo dục là hoạt động cơ bản của XH GD trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại ứng với mỗi một giai đoạn phát triển các hình thái kinh đều có một cấu trúc xã hội tương ứng. Triết học duy vật lịch sử coi GD thuộc phạm trù thức ý thức xã hội chị sự quy định của các yếu tố tồn tại xã hội: Sản xuất, kinh tế và chịu sự ảnh hưởng của các yêu tố khác: chính trị, văn hóa khoa học. Tuy nhiên giáo dục cũng có sự tác động trở lại nhất định đối với các yểu tố tồn tại xã hội và các yếu tố ý thức xã hội Giáo dục tác động thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện những chức năng xã hội của nó: + Chức năng Kinh tế sản xuất: Giáo dục không phài là yếu tố của sản xuất kĩ thuật nhưng giáo dục tác động trực tiếp đến sức lao động làm chủ công cụ sàn xuất (thông qua nghiên cứu phát minh, cải tiến, chế tạo công nghệ từ đó làm tăng năng xuất và sản lượng từ đó tăng trưởng kinh tế . Như vậy GD có vai trò tác động quyết định đến phát triển nguồn nhân lực và tái sản xuất mở rộng sức lao động của nền sản xuất và kinh tế xã hội thể hiện ở: ­ Đào tạo nhân tài cho các lĩnh vực phi vật thể ­ Bồi dưỡng cho người lao động đạo đức nghề nghiệp ­ Giáo dục là phương tiện hữu hiệu để phổ biến khoa học kĩ thuật đến mọi người dân ­ Đầu tư ch GD là đầu tư cho phát triển. GD là động lực phát triển kinh tế xã hội. Để thực hiện tốt chức năng này, công tác GD & ĐT cần quan tâm đến những vấn đề: ­ Gắn kết GD với sự phát triển kinh tế ­ XH trong từng giai đoạn phát triển của đất nước (đào tạo gắn với nhu cầu của XH) ­ Xây dựng hệ thống cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp sự phát triển kinh tế ­ XH của đất nước, đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. ­ Quan tâm thích đáng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường dạy nghề, THCN, cao đẳng, đại học. ­ Đầu tư cơ sở vật chất trường học cả về số và chất đáp ứng nhiệm vụ đào tạo ở tất cả các cơ sở GD & ĐT + Chức năng Chính trị xã hội: Giáo dục chịu sự quy định của chính trị và tư tưởng xong giáo dục cũng tác động mạnh mẽ (Kìm hãm hoặc thúc đẩy) đến chính trị và hệ tư tưởng bằng sự tích hợp, lồng ghép các quy định của hệ tư tưởng, đường lối, chính sách … vào nội dung chương trình giáo dục vào quy trình truyền thụ và lĩnh hội. Như vậy giáo dục trở thành một trong các con đường hiện thực hóa sức mạnh của chính trị và hệ tư tưởng là con đường thuận lợi nhất, hiệu quả nhất đưa chính trị và hệ tư tưởng vào quần chúng nhân dân vả cuộc sống. ­ Mặt khác giáo dục còn có thể tác động mạnh mẽ đến cấu trúc xã hội đặc biệt là trình độ dân trí trong các giai tầng xã hội, sự phát triển của giáo dục làm thay đổi cả về chất và lượng của kết cấu các giai tầng xã hội. Chính vì vai trò to lớn như vậy. Lê nin đã khẳng định mọi giai cấp cầm quyền đều cố gắng nắm vững và độc quyền điều hành các thể chế giáo dục nhằm phục vụ hệ tư tưởng và các mục tiêu chính trị của mình. + Chức năng văn hóa khoa học: Các giá trị cơ bản của nền văn hóa, các tri thức cơ bản của các khoa học được chọn lọc đưa vào hệ thống, chương trình, mục tiêu giáo dục. Ngược lại thông qua sự tác động có định hướng liên tục, rộng khắp đến nhận thức, thái độ, hành vi của nhiều cá nhân, nhiều thế hệ. Giáo dục là con đường cơ bản nhất để lưu trữ, bảo tồn, mở rộng và phát triển các giá trị văn hóa, khoa học. Chất lượng giáo dục có vai trò to lớn đối với tốc độ và quy mô và nhiều chỉ số phát triển kinh tế xã hội quan trọng của một quốc gia. Thông qua 3 chức năng này giáo dục tác động đến sự phát triển của xã hội. Giáo dục chính là một trong nhiều hoạt động xã hội cấu thành nên một hình thái kinh tế ­ xã hội, do đó giáo dục chịu sự quy định của xã hội. Cùng với các hoạt động nhận thức ­ nghiên cứu khoa học, hoạt động lao động ­ sản xuất, hoạt động chính trị ­ xã hội, hoạt động văn hoá ­ nghệ thuật, giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội, là một trong những điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người. KLSP Thực hiện tốt các chức năng của giáo dục có tác động to lớn đến sự phát triển của xã hội, vì vậy đặt ra một số vấn đề đối với người làm công tác giáo dục và nhà QLGD trong điều kiện thực tế hiện nay như sau: ­ Phải nhận thức đùng giáo dục có vai trò to lớn trong XH hiện đại chính vì nhận thức đúng đó mà Đảng ta đã xác định Giáo dục là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho GD là đầu tư cho sự phát triển; GD chính là động lực để phát triển kinh tế ­ xã hội. Căn cứ vào bản chất của giáo dục, vai trò của giáo dục nên chúng ta phải đổi mới, cải cách gd nâng cao hiệu quả GD, chất lượng GD để giáo dục làm thay đổi và cải biến xã hội ­ GD tác động đến XH, cùng với các hoạt động XH khác như VH, KT CT vì vậy phải đặt nó trong hoàn cảnh xã hội. Giáo dục phải gắn với thực tiễn XH, đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển KT­XH trong từng giai đoạn cụ thể. ­ Xây dựng hệ thống GD cấn đối đa năng nhằm thực hiện ba mục tiêu: Lấy nâng cao dân trí làm nền tảng cho cho đào tạo nhân lực, trên cơ sở đó bồi dưỡng nhân tài cho tất cả các lĩnh vực đời sống … làm động lực trực tiếp thúc đẩy đất nước phát triển hòa nhập với thế giáo văn minh. ­ Hệ thống giáo dục cần không ngừng đổi mới nội dung, PP, P tiện … nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao và những phẩm chất cần thiết để đáp ứng yêu cầu của nện SX hiện tại. ­ Tăng cượng hợp tác QT trong giáo dục. ­ GD cho thế hệ trẻ niềm tin, bản lĩnh và có sự chuẩn bị đầy đủ phẩm chất, năng lực để có thể tham gia vào các mối quan hệ đa dạng. ­ Giáo dục cần phải được quan tâm ngay từ bậc học mầm noncho đến ĐH và trên Đh, phát triển hợp lý các loại hình GD, các phương thức đào tạo để mọi lứa tuổi đều được hưởng quyền lợi học tập, thỏa mãn nhu cầu phát triển tài năng của mọi công dân góp phần đắc lực vào sự phát triển đất nước. Vấn đề 2 Tính lịch sử, tính giai cấp của giáo dục. MỞ BÀI Triết học duy vật lịch sử coi GD thuộc phạm trù thức ý thức xã hội chị sự quy định của các yếu tố tồn tại xã hội: Sản xuất, kinh tế và chịu sự ảnh hưởng của các yêu tố khác: chính trị, văn hóa khoa học. Khi có những biên đổi về chế độ chính trị, cấu trúc Xh và hệ tư tưởng của XH thì giáo dục cũng có những biến đổi tương ứng, lịch sử GD thế giới và nước ta đã khảng định điều đó. Như vậy Giáo dục có tính lịch sử và tính giai cấp trong XH có giai cấp. Thật vậy, tất cả các tác động nào đó của con người, nếu nhằm truyền thụ cho thế hệ sau, hoặc cho người khác và giúp họ lĩnh hội “kinh nghiệm xã hội – lịch sử”... thì đều được gọi là giáo dục Là một hiện tượng XH đặc biệt, chức năng đặc thù của GD là sự chuyển giao (truyền thụ và lĩnh hội, thông qua giao tiếp và hoạt động) hệ thống kinh nghiệm xã hội – lịch sử của các thế hệ trước (của loài người) cho thế hệ sau (đến từng cá thể người) một cách có mục đích, có ý thức , đảm bảo cho thế hệ sau có được sự phát triển nhân cách thuận lợi và thích ứng với yêu cầu cuộc sống, sự phát triển XH Là một quá trình “xã hội hoá nhân cách” được tổ chức một cách chuyên biệt, nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện nhân cách con người (cá nhân/ nhóm/ XH) Khoa học giáo dục đã nghiên cứu và chỉ ra hiện tượng giáo dục có các tính chất sau: ­ Tính phổ biến: Ở đâu có xã hội loài người, ở đó có giáo dục. ­ Tính vĩnh hằng: Khi nào còn xã hội loài người, lúc đó còn giáo dục. ­ Tính lịch sử: Giáo dục ra đời theo nhu cầu của lịch sử xã hội, trước hết, nó phản ánh trình độ phát triển lịch sử, bị quy định bởi trình độ phát triển của lịch sử. ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội có một trang lịch sử giáo dục ­ Tính giai cấp: Thông qua các định hướng tư tưởng ­ chính trị và pháp luật đối với mục đich, nội dung và phương pháp giáo dục, giai cấp cầm quyền sử dụng giáo dục như một công cụ chuyên chính của nhằm duy trì quyền lợi của mình, tạo nên nền giáo dục chính thống. ­ Tính nhân loại và tính dân tộc: Giáo dục, trước hết là các giá trị nhân loại, thể hiện ở thành tựu và xu thế phát triển giáo dục, ở mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục... Trong mỗi cá nhân, những giá trị văn hoá của dân tộc luôn gắn kết với những giá trị chung của nhân loại Trong các tính chất cơ bản trên ta tập trung phân tích tính lịch sử, tính giai cấp của Giáo dục. *) Tính Lịch sử: Giáo dục là một hình thái ý thức­ xã hội, luôn vận động và biến đổi theo thời gian. Giáo dục chịu sự quy định của các yếu tố vật chất, thuộc tồn tại xã hội chi phối như các điều kiện kinh tế và trình độ sản xuất xã hội. Mặt khác, là một hình thái ý thức­ xã hội, nên giáo dục còn chịu sự tác động chi phối, khống chế của các hình thái ý thức­ xã hội khác, như pháp luật, tôn giáo, đạo đức, văn hoá, khoa học... đặc biệt là tác động của chính trị. Ở mỗi giai đoạn của sự phát triển XH đều tác động đến GD và tạo nên đặc điểm của giáo dục và làm cho GD phát triển. Giáo dục ra đời theo nhu cầu lịch sử XH, trước hết giáo dục phản ánh trình độ phát triển lịch sử, bị quy định bởi trình độ phát triển của lịch sử. Mặt khác trong một chừng mực nhất định giáo dục với các chức năng XH và tính thiết chế của nó lại tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử. Vì vậy ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử XH có 1 trang lich sử giáo dục. Chủ nghĩa duy vật đã khẳng định: Mõi hình thái kinh tế XH có một hình thái giáo dục tương ứng, mỗi phương thức sán xuất có một phương thức giáo dục tương ứng. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì giáo dục có sự khác nhau về mục đích, mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức. Ở thời kỳ sơ khai giáo dục được thực hiện bởi những người lớn truyền thụ cho trẻ em một cách trực tiếp thông qua sản xuất và giáo dục được giao cho những người già trong nhà. Ở thời kỳ cổ đại trẻ em đươc gửi vào các trường nội tú và sống trong những điều kiện khắc nghiệt nhằm hoàn thành hiệm vụ. Nhà trường ra đời chuyển từ hình thức dạy học cá nhân sang hình thức dạy học tập thể và hiệu quả của việc dạy học được nâng lên. Nửa sau thế kỷ XX cùng với sự phát triển của kinh tế XH thì giáo dục trở thành điều kiện nhất thiết để tái tạo sản xuất sức lao động XH tạo ra nguồn lực cơ bản để đáp ứng yêu cầu của XH. Ngày nay giáo dục trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, thiết kế theo một kế hoạch chặt chẽ, có phương pháp, phương tiện hiện đại đã góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của XH. Đạo đức, trí tuệ khoa học kỹ thuật, tiềm năng kinh tế của bất kỳ XH nào đều phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục. *) Tính Giai cấp: giáo dục mang tinh giai cấp vì nó phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, trong một chừng mực nhất định, trong các tầng lớp xã hội khác, giai cấp khác vẫn tồn tại những quan niệm về mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục không chính thống... tạo thành dòng giáo dục dân gian nhưng giáo dục chính thống bao giờ cũng thuộc giai cấp nắm quyền lãnh đao XH và phục vụ cho giai cấp nắm quyền XH. VD: Trong XH chiếm hữu nô lệ giáo dục của giai cấp chủ nô phát triển có hệ thống, có chữ viết và có người dạy, trog khi đó giáo dục của giai cấp nô lệ là giáo dục gia đình giáo dục của người lớn cho trẻ em với trình độ giáo dục thấp. Trong thời kỳ này trình độ giáo dục lạc hậu chủ yếu là của giai cấp chủ nô. Khi XH phát triển lên hình thái KTXH cao hơn là hình thái KTXH phong kiến thì giáo dục đã khác về bản chất so với thời khì chiếm hữu nô lệ. XH phong kiến có nền giáo dục của giai cấp phong kiến, có chữ viết, có nôi dung giáo dục, mục đích giáo dục là để làm quan, phương pháp tuyển chọn qua thi cử. Còn giáo dục của người dân là giáo dục với mục đích để trở thành ngươi tốt hơn . Các nhà giáo dục học đã khẳng định giáo dục mang tính giai cấp. Nó thể hiện trong các chính sách giáo dục chính thống, được xây dựng trên cơ sở tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Giáo dục không đứng ngoài chính sách và quan điểm của nhà nước và điều đó được toàn XH chấp nhận. Trong XH có giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ của giai cấp cầm quyền để duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích và nội dung giáo dục, phơng pháp giáo dục, lợi ích này phù hợp với một bộ phận người trong xã hội, hoặc đa số các tầng lớp trong XH hay toàn XH. Trong Xh có giai cấp đối kháng thì giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của gia cấp thống trị thông qua việc truyền bá và xây dựng ý thức quan hệ giai cấp, giáo dục là vũ khí để đấu tranh giai cấp. Mối quan hê giữa tính lịch sử và tính giai cấp của giáo dục, có thể nói tính giai cấp là một trường hợp riêng của tính lịch sử vì XH có tính lịch sử, khi lịch sử thay đổi thì có sự thay đổi tính giai cấp của giáo dục. KLSP Trong giáo dục và công tác QLGD luôn phải chú trọng tính giai cấp và tính lịch sử trong giáo dục. khi nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục phải căn cứ vào điều kiện kinh tế chính trị thực tế, với xu thế của lịch sử để XD chương trình, XD mục tiêu, tuy nhiên đồng thời với XD, đổi mới phải kế thừa tính lịch sử giáo dục. + Do giáo dục có tính lịch sử nên nó vận động theo thời gian. Vì vậy cần nhìn nhận giáo dục trong sự vận động của lịch sử, phải xem xét giáo dục trong mọi mối quan hệ kinh tế xã hội, văn hóa. Luôn xác định rõ chiều hướng phát triển, trình độ phát triển mục đích, mục tiêu, nội dung phương pháp vai trò của giáo dục đối với người dạy và người học. + Trong công việc quản lí: Quán triệt cho cán bộ, giáo viên, học sinh quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước về giáo dục… + Tổ chức, chỉ đạo, quản lí mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường theo Luật giáo dục, Điều lệ, tuân thủ mục tiêu, nội dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá… + Bản thân tích cực tự học tập, bồi dưỡng, cử cán bộ, giáo viên đi học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lí luận chính trị, quản lí nhà nước về giáo dục…để thực hiện tốt vai trò giáo dục trong nhà trường… Để tránh vi phạm tính quy luật quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về phát triển giáo dục Đã chỉ rõ: “ Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác ­ Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng”. Vấn đề 3. Môi trường xã hội đối với sự phát triển cá nhân và các kết luận sư phạm Mở bài Từ xa xưa Ông cha ta đã có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Đó là cách nhìn nhận của Ông cha ta về mối quan hệ giữa môi trường xã hội, những ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sự hình thành và phát triển cá nhân con người. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn