Xem mẫu
-
ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ VỚI VẤN ĐỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Bốn nội dung cơ bản của công cuộc cải cách hành chính mà Chính phủ đề
ra bao gồm: Cải cách thể chế, cải cách bộ máy và chế độ công vụ, xây dựng đội
ngũ công chức và cải cách tài chính công. Trong thực tế, bên cạnh cải cách thể
chế được xem là cái gốc của mọi cuộc cải cách thì “cải cách” con người cán bộ,
công chức được xem là yếu tố quyết định đối với sự thành, bại của công cuộc
cải cách hành chính nói chung.
Luật cán bộ, công chức ra đời, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010 đã đánh
dấu một bước tiến mới trong việc tách bạch giữa đội ngũ cán bộ, công chức làm
việc trong các cơ quan hành chính với đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn
vị sự nghiệp của Nhà nước. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để tập trung xây
dựng, hoàn thiện và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước. Để đáp ứng yêu
cầu này, nhiều vấn đề đã và đang đặt ra: xác định cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh
công chức; công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với vị trí công việc cụ thể của từng
đối tượng cán bộ, công chức; chế độ tuyển dụng công chức đảm bảo tính dân
chủ, công khai, minh bạch; chế độ khen, thưởng, đãi ngộ thích đáng, nghiêm
- minh v.v… Tuy nhiên, một vấn đề không kém phần quan trọng trong việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng vừa chuyên” là ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ.
Trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, cán bộ, công chức (quản
lý, điều hành) là những người xây dựng, ban hành các văn bản quản lý; đồng thời
cán bộ, công chức (thực thi) cũng là những người áp dụng văn bản vào quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Ở đây dễ phát sinh tâm lý, người ban hành văn bản thường
đưa ra những quy định, tiêu chuẩn, định mức có lợi cho mình và tất nhiên phần
khó khăn sẽ thuộc về đối tượng áp dụng. Chưa kể đến trường hợp cán bộ, công
chức vận dụng các chủ trương, chính sách một cách tự do, tùy tiện theo hướng
bất lợi hay có lợi cho người dân tùy theo mối quan hệ, sự thân tình và cả những
khoản thù lao, quà cáp ngoài quy định. Do đó, vấn đề đạo đức công vụ được đặt
ra là cán bộ, công chức không chỉ có cái tầm mà còn phải có cái tâm trong sáng.
Tức là mọi quyết định của cán bộ công chức đặt ra trên hết thảy phải hợp lòng
dân, xuất phát từ quyền và lợi ích chính đáng của dân. Bởi vì mục đích cuối cùng
của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước chính là phục vụ nhân dân.
Một khía cạnh khác của đạo đức công vụ là tinh thần, thái độ phục vụ nhân
dân của cán bộ, công chức. Hồ Chủ Tịch đã nói: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm
đày tớ trung thành của nhân dân”, “đày tớ là phục vụ nhân dân”. Tuy nhiên,
trong thực tế vẫn còn không ít cán bộ, công chức giài quyết công việc cho dân
- theo kiểu “ban ơn”, “ban phát”, tỏ thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng
nhiễu…Ttrách nhiệm xử lý công việc chưa cao, còn hiện tượng đùn đẩy, né tránh
trách nhiệm, “ăn thật làm giả” và người gánh chịu thiệt hại, hậu quả không ai
khác chính là nhân dân. Tinh thần, thái độ làm việc này hoàn toàn trái ngược với
những chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ, đó là: thái độ cư xử đúng mực, lịch
sự, nhã nhặn; thực hiện nhiệm vụ với tinh thần tận tụy, nhiệt tình, trung thực,
không vụ lợi, vun vén cá nhân “Tóm lại, đạo đức công vụ là một phạm trù tương
đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ, công chức không
chỉ trong các mối quan hệ xã hội thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện
nhiệm vụ công, đó là trong giao dịch hành chính với tổ chức, công dân. Để công
tác cải cách hành chính thực sự trở thành động lực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước, việc xây dựng các quy định, quy
chế chuẩn về trách nhiệm và đạo đức công vụ là một việc làm rất cần thiết. Tuy
nhiên, hơn ai hết bản thân cán bộ, công chức phải tự rèn luyện, trau dồi và phải
tự “vượt lên chính mình”./.
VÀI NÉT VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1. Một số quy định p.luật liên quan đến đạo đức công vụ của CBCC
Cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là sự ra đời của hệ thống pháp luật mới. Với bản
- chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, những giá trị đạo đức nghề nghiệp
hướng tới xây dựng một nền công vụ mới, phục vụ nhân dân được chú trọng, hình
thành và phát triển trên nền tư tưởng đạo đức mới, pháp luật mới. Trong hệ thống
pháp luật mới đã xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hệ thống các quy phạm
pháp luật về công chức, công vụ. Nhiều nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới của
xã hội mới được thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật cho chuẩn mực
hành vi của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu xây dựng nền công vụ mới, gắn với nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Quyền lực nhà nước liên quan trực tiếp đến nền công vụ, được phản ánh qua một
trong những nội dung cốt yếu của nền công vụ, đó là đội ngũ cán bộ, công chức.
Bất kỳ nhà nước nào cũng phải định ra những chuẩn mực đạo đức trong nền
công vụ của mình. Ngoài những nội dung chuẩn mực mà nhiều quốc gia sử dụng
tương tự như nhau, thì tuỳ theo đặc điểm văn hoá, tâm lý xã hội... mỗi quốc gia lại
có những chuẩn mực đạo đức đặc thù riêng trong nền công vụ của mình. Chuẩn
mực đạo đức công vụ của cán bộ, công chức Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, N.nước và nền công vụ nước ta coi là “cái nền”, “cái gốc” của đội ngũ
CBCC và được gói gọn trong 4 chữ “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”, suy rộng ra là
“nhân, nghĩa, liêm, trí, dũng, tín”.
- Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng
chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy
chế công chức Việt Nam. Với văn bản này có thể nói, đây là lần đầu tiên Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp
luật khá hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức
cách mạng Việt Nam. Trong đó, tại Lời nói đầu, nội dung về công chức và đạo
đức công vụ đã được thể hiện rất rõ: “Công chức Việt Nam là những công dân giữ
một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân…Công chức
VN phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và
nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”.
Điều 2 của Quy chế quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân,
trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh
làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ
máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Điều 3, Quy chế công chức Việt Nam quy định quyền lợi của công chức và tại
các điều tiếp theo quy định việc tuyển dụng, tổ chức, quản trị, sử dụng công
chức. Từ những quy định trên có thể thấy, ngay trong Quy chế công chức đầu
tiên của nước Việt Nam độc lập, Nhà nước ta đã nêu lên những chuẩn mực đạo
đức pháp lý rất quan trọng đối với công chức nhà nước. Lần đầu tiên những giá
- trị đạo đức truyền thống: cần, kiệm, liêm, chính... được thể chế hoá thành những
giá trị chuẩn mực pháp lý đối với công chức Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan
trọng và vượt qua thời gian, đến nay những quy định này vẫn còn nguyên giá
trị. Kế thừa và phát huy những quy định pháp luật về công chức và đạo đức công
vụ và nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ công chức trong tình
hình mới, Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 8: “Tất cả các cơ quan nhà nước
và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền.”
Như vậy, với quy định của Hiến pháp 1980, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, Nhà nước ta đã ban hành những chuẩn mực về đạo đức pháp lý cho công
chức và cơ quan nhà nước trong đạo luật gốc, đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý
cao nhất.Hiến pháp 1992 tại Điều 8 cũng quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán
bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham
nhũng”.
Như vậy với quy định này, Hiến pháp 1992 đã kế thừa Hiến pháp 1980
- nhưng đồng thời phát triển thêm lên để không ngừng hoàn thiện những nguyên
tắc, những quy định hiến định đối với đạo đức công vụ và các chuẩn mực pháp lý
cho công chức nhà nước. Căn cứ vào Hiến pháp 1992, để xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực và tận tụy phục vụ
nhân dân, trung thành với Tổ quốc, Nhà nước ta đã ban hành Luật cán bộ, công
chức, trong đó, những chuẩn mực đạo đức pháp lý được thể hiện một cách tập
trung và rất cụ thể ở các quy định về nghĩa vụ của công chức, như: trung thành
với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ
nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Luật cán bộ, công chức cũng quy định: Trong khi thi hành công vụ, cán
bộ, công chức có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết
quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; có ý thức kỷ luật; nghiêm chỉnh
chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm
quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo
vệ bí mật nhà nước; chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ
gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả,
- tiết kiệm tài sản nhà nước được giao; chấp hành quyết định của cấp trên. Đối với
cán bộ, công chức là người đứng đầu thì còn phải thực hiện các nghĩa vụ như: chỉ
đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành
công vụ của cán bộ, công chức; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống
tham nhũng, quan liêu, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm
về để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tổ
chức thực hiện các quy định pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hoá công sở trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc
quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách
dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân...
Với việc ban hành Luật cán bộ, công chức, chế định công chức và đạo đức công
vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện mới, góp phần xác lập các chuẩn mực đạo
đức pháp lý cho cán bộ, công chức Việt Nam trong tiến trình xây dựng đội ngũ
CBCC trong sạch, vững mạnh.
Luật Phòng, chống tham nhũng cũng có những quy định phản ánh những nội
dung về chuẩn mực công chức, công vụ, trong đó xác định cụ thể cán bộ, công
chức là một trong những đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn. Xác định
tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
- quyền hạn này để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi,
gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Những hành vi tham nhũng được xác định là:
tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; nhận hối lộ; lợi dụng chức quyền để đưa hối lộ,
môi giới hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ
nghĩa... Để đảm bảo các nguyên tắc về chuẩn mực đạo đức trong hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức và nhằm chống lãng phí, thực hành tiết kiệm
ngân sách nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí quy định trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như:
thực hiện công vụ được giao đúng quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của
cơ quan, tổ chức, bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; sử dụng tiền, tài
sản nhà nước được giao đúng mục đích, định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; tham gia giám sát, đề xuất các biện
pháp, giải pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ quan, tổ chức và
trong lĩnh vực công tác được phân công, kịp thời phát hiện, tố cáo, ngăn chặn và
xử lý hành vi gây lãng phí theo thẩm quyền. Ngoài ra Luật cũng quy định CBCC
có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức như: khiển trách; cảnh cáo...
buộc thôi việc.
- Chuẩn mực đạo đức của cán bộ, công chức cũng được quy định trong thực hiện
dân chủ trong hoạt động của cơ quan khi thực thi công vụ. Trong quan hệ giải
quyết công việc với công dân, tổ chức, cán bộ, công chức phải làm việc đúng
thẩm quyền, không được quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền
hà. Cán bộ, công chức không tiếp nhận và giải quyết công việc của công dân, tổ
chức tại nhà riêng. Cán bộ, công chức phải có trách nhiệm bảo vệ bí mật nhà
nước, bí mật công tác và bí mật nội dung đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân,
tổ chức theo quy định của pháp luật. Trong hoạt động ở doanh nghiệp nhà nước
và thực hiện dân chủ ở xã cũng có những văn bản quy phạm pháp luật quy định
chuẩn mực đạo đức cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ... Các
chuẩn mực về công chức và đạo đức công vụ đã được nhà nước ban hành dưới
các hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Từ những nội dung cơ bản này,
Chính phủ và chính quyền các cấp, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thực hiện và
quản lý sâu rộng hơn, cụ thể hơn trong các hoạt động của nền công vụ. Đó là
các quy định pháp luật về xây dựng cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, công
chức một cách minh bạch; những quy định nhằm tăng cường tính minh bạch
thông qua việc công khai và giám sát đối với tài sản và trách nhiệm cá nhân,
hoặc các quy định nhằm nâng cao đạo đức công vụ, hạn chế tiêu cực như sách
- nhiễu, vòi vĩnh, hối lộ...
2. Một số giải pháp định hướng hành động nhằm nâng cao đạo đức công vụ
của cán bộ, công chức. Đạo đức công vụ của cán bộ, công chức là yếu tố cốt lõi
bảo đảm cho hoạt động và quản lý nhà nước có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị
trường đòi hỏi có những cơ chế, quy định pháp luật tốt hơn, phù hợp hơn để duy
trì và phát huy cao nhất các giá trị cơ bản của nền công vụ một nền công vụ vì
dân. Việc hình thành nên các chuẩn mực về tư cách đạo đức công vụ của người
cán bộ, công chức là rất quan trọng. Sau đây có thể nêu một số giải pháp định
hướng hành động nhằm nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức:
Xây dựng và ban hành Luật đạo đức công vụ trên cơ sở các quy định đã có
về đạo đức cán bộ, công chức và công vụ đã được quy định ở Luật cán bộ, công
chức; Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí...
Đổi mới và cải cách công tác quản lý cán bộ, công chức ở tất cả các khâu
từ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đánh giá và giải quyết các
chính sách, chế độ theo đúng các nguyên tắc trong thi hành công vụ như: tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự
kiểm tra, giám sát... để giảm thiểu tối đa các tiêu cực phát sinh trong hoạt động
của nền công vụ;
- Cải thiện quan hệ của cơ quan hành chính với dân, theo đó cần phải loại
bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà khi giải quyết công việc của dân và
doanh nghiệp; chấn chỉnh bộ máy, ngăn chặn và đẩy lùi quan liêu, tham nhũng;
cải cách triệt để các thủ tục hành chính theo nguyên tắc thống nhất, công khai,
đơn giản...;
Thực hiện tốt nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức, trong đó chú ý kết hợp
giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế;
Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở nhằm tạo điều kiện để cán bộ, công chức và
nhân dân kiểm tra giám sát các hoạt động của cán bộ, công chức; việc chi tiêu
tài chính công...;
Tăng cường hệ thống thanh tra công vụ nhằm nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra
thường xuyên và định kỳ các hoạt động công vụ;
Chú trọng công tác khen thưởng và xử lý vi phạm, phát hiện và xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật; nêu cao đạo đức công chức, công vụ, khen
thưởng, động viên kịp thời gương người cán bộ, công chức mẫn cán với công vụ
Đạo đức công vụ trong Luật cán bộ, công chức
Luật cán bộ, công chức được Quốc hội thông qua ngày 13 tháng 11 năm
2008 đã chính thức luật hoá quy định về đạo đức của cán bộ, công chức, cụ thể
- được quy định tại Điều 15, Mục 3, Chương II. Đây được xem là bước tiến mới
trong việc đề cao và cụ thể hoá quy định về đạo đức công vụ thành quy định của
luật
Luật cán bộ, công chức được Quốc hội thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 đã
chính thức luật hoá quy định về đạo đức của cán bộ, công chức, cụ thể được quy
định tại Điều 15, Mục 3, Chương II. Đây được xem là bước tiến mới trong việc đề
cao và cụ thể hoá quy định về đạo đức công vụ thành quy định của luật
Câu hỏi đặt ra là: Vì sao cần thiết phải quy định nội dung nêu trên vào Luật cán
bộ, công chức?
Sinh thời, với tầm nhìn rọi tới tương lai của mình, Bác Hồ đã cảnh báo những
nguy cơ và chỉ ra những căn bệnh của Đảng cầm quyền và của cán bộ, công
chức do chủ nghĩa cá nhân gây ra, trong đó rất đáng chú ý những căn bệnh như
quan liêu, lười biếng, hiếu danh, xu nịnh a dua, kéo bè kéo cánh, nhũng lạm, dìm
người tài … Bác chỉ rõ, cán bộ các cơ quan, đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn
của đút, có dịp "dĩ công vi tư". Từ đó có thể hiểu, tham nhũng không chỉ là tham
nhũng kinh tế, mà gốc rễ là tham nhũng quyền lực. Đó là bệnh rất đáng sợ của
cán bộ, công chức. Một nền công vụ mà vẫn còn có lúc, có nơi, có cơ quan, có
- đoàn thể hay cá nhân mang căn bệnh ấy, thì nền công vụ ấy dễ bề suy yếu, làm
sao đủ sức để cải cách, làm mới cả một nền hành chính nước nhà.
Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta lại thừa nhận đạo đức công vụ như việc thừa
nhận những quy phạm đạo đức khác, có ý nghĩa xã hội và được “mơ hồ hoá”
trong đời sống cũng như trong hoạt động công vụ. Một khi các tiêu chuẩn đạo
đức không được phản ánh một cách cụ thể trong khuôn khổ pháp lý thì thật khó
xác định đâu là tiêu chuẩn, đâu là nguyên tắc bắt buộc để điều chỉnh hành vi của
tất cả cán bộ, công chức. Hơn nữa, sự “mơ hồ” trong việc xác định đạo đức của
cán bộ, công chức lại được kết hợp với chuyện không minh bạch các quy trình
giải quyết công vụ, cung cấp những thông tin được pháp pháp luật thừa nhận
mang tính công khai sẽ là môi trường thuận lợi cho công chức có thể vận dụng
một cách tuỳ tiện mà rất khó bị phát hiện. Cứ thế, cùng một sự việc, công chức
có thể xử lý theo hướng bất lợi hay có lợi cho người dân tùy theo mối quan hệ, sự
thân tình và cả những khoản thù lao, quà cáp không nằm ở bất cứ quy định nào.
Mãnh đất tốt lành ấy tạo điều kiện cho công chức đổi chác đạo đức lấy các lợi ích
cá nhân trong hoạt động công vụ. Thực tế, có công chức nhầm tưởng quyền lực
mà người dân trao cho họ nên họ tự trở thành “ông quan” được quyền “quản lý”
người dân. Thế nên, để “quản” được (theo họ là tốt), nhiều khi họ phải bịa ra đủ
kiểu khó khăn, phức tạp để “đội” lên cộng vụ mà họ thực hiện. Từ chỗ quan trọng
- hoá hoạt động công vụ để rồi đưa cái nhìn theo kiểu “xuống dưới” đối với người
dân, và bản thân những cán bộ, công chức này tự gắn cho mình một “ông quan”
trong người, khiến người dân e dè nghĩ ngay đến sự “bôi trơn” hay đi đường tắt
khi ghé “cửa quan”.
Có người than rằng, bộ máy hành chính đang vận hành theo đúng các quy trình
tưởng như là theo luật định, nhưng tuỳ từng mối quan hệ và sự “chịu chi” khác
nhau cán bộ, công chức sẽ cho ra “sản phẩm” và đưa đến tay người dân theo các
kiểu khác nhau. Chẳng hạn, nếu có “quan hệ”, hồ sơ đăng ký kinh doanh của
anh A sẽ được giải quyết trong một đến hai ngày; nếu không, ngoài việc phải
chạy ngược xuôi để bổ sung những loại giấy tờ (nhiều khi không có trong quy
định), anh B phải đợi đến hết thời hạn theo giấy hẹn mới nhận lại kết quả. Như
vậy, đạo đức công chức chi phối một cách tuỳ tiện vào hoạt động công vụ,
nghiễm nhiên tạo ra sự bất bình đẳng của những người được phụ vụ, ở ví dụ trên
là sự bất bình đẳng về quyền được hưởng dịch vụ công của anh A và B. Sự bất
bình đẳng này thể hiện một cách khác nhau tuỳ theo sự quan trọng của từng loại
hoạt động công vụ khác nhau, dẫn đến hệ thống công vụ bị lỗi. Khi hệ thống
công vụ của một quốc gia bị lỗi mà có một trong những nguyên nhân quan trọng
hàng đầu đến từ đạo đức công vụ, thì thứ hạng về nạn tham nhũng của nước ta
trên bản đồ quốc tế vẫn còn là một điều đáng buồn …
- Điều 15, Luật cán bộ, công chức quy định về đạo đức của cán bộ, công chức
rằng: “Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong hoạt động công vụ.” Như vậy, tuy đã luật hoá vấn đề này nhưng ở các văn
bản hướng dẫn cần quy định chi tiết hơn để xác định cụ thể quy định về đạo đức
công vụ, như thể hiện trong mối quan hệ với công dân, đồng nghiệp, lãnh đạo và
cơ quan cấp trên, đối với Đảng, Nhà nước. Khi đó, việc thực hiện những tiêu chí
mang tính pháp quy về đạo đức công vụ sẽ tạo được bước chuyển biến tích cực
cho nền hành chính. Đó cũng là cơ sở mang tính pháp lý để các cơ quan, đơn vị
xây dựng quy chế đạo đức công vụ cho cơ quan, đơn vị mình thực hiện, từ đó
không chỉ thúc đẩy việc cải cách trong lĩnh vực hành chính mà còn tạo môi
trường tốt để đưa những lĩnh vực khác cùng chuyển biến, phát triển.
Câu 1: Khái niệm đạo đức. Phân tích 1 VD về hành vi đạo đức
a) Khái niệm đạo đức
Có nhiều cách hiểu khác nhau về đạo đức
Theo kinh dịch đạo đức được tiếp cận theo 2 hướng:
+ Đạo có nghĩa là hướng đi, lối làm việc, cách ăn ở, sinh hoạt của xã hội, của
nhóm người và của từng con người cụ thể.
- + Đức đó là những biểu hiện của luân thường, đạo lý, phù hợp với trời đất, hòa
hợp với mọi người và được mọi người chấp nhận như là một cách ứng xử.Và đó
cũng có thể là cách ứng xử của cá nhân
Theo từ điển tiếng việt thì từ đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư
luận, xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu
dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có”.
Đạo đức cũng có thể được hiểu là toàn bộ những “quan niệm, tri thức và các
trạng thái xúc cảm tâm lý chung của cộng đồng (con người) về các giá trị thiện và
ác, lương tâm và trách nhiệm, hạnh phúc và công bằng, vị tha và dũng cảm”
được cộng đồng thừa nhận như là những “quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi
ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội”. Đó chính
là những tiêu chuẩn để “khen, chê; ủng hộ hay phản đối” các hành vi, cách ứng
xử
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội được cộng đồng thừa nhận như là “những quy tắc
đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân
- với cá nhân trong xã hội” chúng được thể hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Nói cách khác đạo đức là một hệ thống giá trị, hiện tượng xã hội mang tính
chuẩn mực, thể hiện mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt.
Đạo đức còn được hiểu là hệ thống các quy tắc chuẩn mực xã hội giúp con
người tự điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội.
Đạo đức là phạm trù đề cập đến mối quan hệ con người và các quy tắc ứng xử
trong mối quan hệ giữa con người với con người trong các hoạt động sống.
Đạo đức là phạm trù có tính lịch sử. Mỗi xã hội trong những giai đoạn lịch sử có
những chuẩn mực nhất định
Mỗi xã hội, cộng đồng người có những hệ thống chuẩn mực riêng, được hình
thành trên cơ sở nền văn hóa, tôn giáo, luật lệ, triết lý sống…
Có những chuẩn mực là những giá trị phổ quát, đúng với mọi cộng đồng người.
Đạo đức được xem xét trên 2 mặt:
+ Những giá trị chuẩn mực đạo đức
- + Những hành vi đạo đức,những phẩm chất có thể kiểm chứng trong thực tế
b) Phân tích 1 ví dụ:
Ví dụ 1: Hành động dắt một bà cụ sang đường
Đây được coi là một hành động có đạo đức. Trong trường hợp phố xá đông đúc
xe cộ đi lại việc sang đường của các cụ già là rất khó khăn, họ rất cần sự giúp đỡ
của một ai đó mà không nhất thiết phải là con cháu của cụ, bất cứ một cá nhân
bình thường nào khi nhìn thấy trường hợp đó đều có thể đứng ra cầm tay cụ và
đưa cụ sang đường an toàn.
Câu 2: Đạo đức cá nhân là gì? Các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức cá nhân
a) Đạo đức cá nhân:
Đạo đức cá nhân là những giá trị mà từng cá nhân hướng đến, tạo ra
chuẩn mực xã hội. Đó cũng chính là những “giá trị” mà tứng cá nhân cố
gắng tạo ra cho mình
Đạo đức cá nhân thể hiện thông qua những phẩm chất được hình thành qua
quá trình tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức cộng đồng, xã hội.
- Mỗi cá nhân sẽ có nhân sinh quan, có triết lý sống riêng nhưng đều chịu ảnh
hưởng của các triết lý đạo đức cơ bản. Triết lý đạo đức được ví như những nốt
nhạc cơ bản, trạng thái phát triển về ý thức đạo đức của mỗi người được ví như
những hoà âm hay những bản nhạc mang phong cách riêng của mỗi người.
Trong xã hội V.Nam hiện nay giá trị của đạo đức cá nhân được thể hiện thông
qua những định hướng lớn như: Tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng, lối sống
lành mạnh, nếp sống văn minh, lao động sáng tạo với lương tâm nghề nghiệp
sáng tạo, thường xuyên học tập để tiến bộ. (theo nghị quyết TW 5 khóa VI)
b) Các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức cá nhân:
Gia đình: ngay từ nhỏ, cuộc sống gia đình có thể tạo nên chuẩn mực, tư duy,
phán xét của thành viên gia đình. Cha mẹ thường coi đó như là công việc quan
trọng để tạo nên đạo đức cho con cái. Nhận thức đúng của cha mẹ về của rơi,
nhặt, lấy cắp của người khác, về “những biểu hiện không được chấp nhận nơi
đông người” là sai, và họ dạy con cái không làm điều đó và hình thành quan niệm
“ sai đúng” cho trẻ. Trẻ em hấp thu những điều đó từ cha mẹ và tạo nên đạo đức
cho mình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cách hướng dẫn của cha mẹ , nhận thức của
con cái sẽ khác nhau. Mặt khác, yếu tố xã hội, cộng đồng sẽ tác động đến việc
hình thành nhân cách đạo đức cho trẻ. Cùng với sự trưởng thành của trẻ, nếu
nguon tai.lieu . vn