Xem mẫu
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Bước ngoặc lịch sử quan trọng của cách mạng
nước ta
10:48 | 15/01/2005
Sau khi xâm lược và thôn tính toàn bộ nước ta, thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo. Chế
độ phong kiến suy tàn đã công khai câu kết và làm tay sai cho thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc ngày càng trở nên bức thiết.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917) đã tạo ra bước ngoặt lịch sử của nhân loại
trên con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, đó cũng là ngọn cờ cổ vũ cách mạng nước ta.
Cũng những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một mặt, thực dân Pháp ra sức tiến hành các chương trình khai thác thuộc địa với
quy mô lớn, vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân lao động, trước hết là nông dân bị phá sản, bần cùng, đồng
thời cũng ra đời một số ngành công nghiệp như khai khoáng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải để phục vụ sự thống trị và khai
thác thuộc địa của chúng. Và cũng từ đây hình thành một số giai cấp mới như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản Việt Nam, lực
lượng trí thức, tiểu tư sản... của xã h ội Việt Nam hiện đại.
Các cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp liên tiếp diễn ra nhưng cuối cùng đều thất bại
mà nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ và thiếu lực lượng cần thiết. Cách mạng Việt
Nam đã chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Giữa lúc đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ngày 5/6/1911 đã ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã rút ra kết luận là chủ nghĩa
đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa.
Cũng từ đấy Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác-Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, và xác định con
đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công
phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo. Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư
tưởng Mác-Lênin. Với tác phẩm “Bản án chế độ tựhc dân Pháp” và “Đường cách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh
niên, số đầu tiên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ với việc lập ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên tổ chức nhiều l ớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô.
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Hương Cảng (Trung
Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản (An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Liên
đoàn) đã nhất trí thành lập một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm Chánh cương vấn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam. Hội nghị cũng thông qua Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi
đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp Đảng Cộng s ản việt Nam ra đời.
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Luận cương Chính trị do đồng chí
Trần Phú khởi thảo. Kế thừa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Luận cương Chính trị đã nêu ra cách mạng Việt Nam phải trải qua hai
giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc và tiến lên giai
đoạn xây dựng xã hội cộng s ản chủ nghĩa (cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Trong giai đoạn đầu phải chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện mục tiêu “Độc lập dân tộc”, “Người cày có ruộng”, trong
đó đặt mục tiêu chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Phải xây dựng lực lượng cách mạng rộng rãi của toàn dân, trong
đó công nhân giữ vai trò lãnh đạo, công nông là hai động lực chính của cách mạng. Phương pháp cách mạng là bạo lực cách
mạng. Cách mạng Việt Nam phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới gìanh được thắng lợi.
Luận cương cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cần tăng cường đoàn kết với giai cấp vô
sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh đúng đắn, vạch ra con đường cứu nước khác về chất so với những
con đường cứu nước do những nhà yêu nước đương thời vạch ra và đã bị bế tắc, thất bại. Chính cương lĩnh này đã đặt nền tảng
cho một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thoát
khỏi bần cùng, lạc hậu. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân
tộc có chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều
kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 75 năm qua.
Gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng để có độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc thật sự
cho nhân dân. Đánh giá ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng”.
Hoàng Văn (tổng hợp)
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận
tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các
đảng cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công kích
lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong
- trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27-10-
1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương, trong đó yêu
cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cự c xúc tiến việc hợp nhất thành
một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An
Nam Cộng sản đảng đã cử những đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng
không thành.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có
đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới
Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.
Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2
đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã
họp ở Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ tóm tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là 'đội tiền
phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập
chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá
các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật
ngày làm việc 8 giờ ...
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp được đại bộ phận giai
cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày
và phải dựa vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông... để lôi
kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh
đổ".
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị hợp nhất là
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-lênin tư tưởng cách mạng
tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân
tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấ m dứt
cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan
trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan
trọng trong lịch sử nước ta.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, đất nước ta đã có
những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh tế và xã hội. Từ đó, phong trào dân tộc cũng có những bước
phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 20 của thế kỷ này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị với
những đòi hỏi, yêu cầu và những hành động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối quan hệ của mình đối với chính
quyền thực dân, tùy thuộc vào vị thế của mình trong kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau
chiến tranh có những chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện. Và cuối cùng, lịch
- sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ cứu nước và chứng kiến sự chuyển
giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam
III. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Ba tổ chức cộng sản
Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã thúc đẩy phong trào công nhân
và phong trào nông dân lên cao.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ công nhân Việt Nam có khoảng mười vạn
người. Các cuộc đấu tranh chống bọn chủ của công nhân Việt Nam được diễn ra dưới nhiều
hình thức từ thấp đến cao, từ phá giao kèo, bỏ việc đến bãi công. Họ biết liên kết công nhân
nhiều xí nghiệp cùng đấu tranh và liên hệ với công nhân Pháp và công nhân Trung Quốc.
Tháng 8-1925, cuộc bãi công tiêu biểu của hơn 1.000 công nhân binh xưởng Ba Son (Sài
Gòn) do Tôn Đức Thắng lãnh đạo đã giành thắng lợi lớn. Ông đã tổ chức Công hội ở Sài Gòn và
gây cơ sở ở nhiều xí nghiệp.
Trong hai năm 1926 - 1927, có 17 cuộc đấu tranh của công nhân trong cả nước. Tiêu
biểu là các cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (7-1926), đồn điền Cam
Tiên (12-1926), đồn điền Phú Riềng (tháng 8, 9-1927).
Năm 1928, bãi công đã nổ ra tại mỏ than Mạo Khê, nhà máy nước đá Laruy (Larue) ở
Sài Gòn (19-2), các nhà máy xay Chợ Lớn (23-2), sở dầu Hải Phòng (13-3), đồn điền cao su
Lộc Ninh (8-4), nhà máy cưa Bến Thuỷ (11-4), nhà máy tơ Nam Định (23-11). Trong năm
1929, bãi công của công nhân nhà máy chai Hải Phòng (23-4), nhà máy xe lửa Tràng Thi ở
Vinh (16-5), nhà máy sửa chữa ô tô Aviat ở Hà Nội (28-5), sở dầu Hải Phòng (23-9), nhà máy
xi măng Hải Phòng (22-10)...
Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ rệt tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của
công nhân. Báo chí của thực dân Pháp phải thừa nhận: "Từ đây, hành động tập thể của những
người lao động đã thay thế cho những vụ âm mưu của các hội kín".
Phong trào nông dân phát triển khá mạnh ở nhiều vùng trong cả nước. Năm 1927,
nông dân làng Ninh Thanh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và địa chủ chiếm
đất quyết liệt đến đổ máu. Nông dân tại nhiều làng thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh
Bình, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng nổi lên đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất, bãi
sa bồi, đòi chia ruộng công, chống nhũng lạm của bọn cường hào...
Phong trào công nhân và phong trào nông dân đã có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Nông
dân đã quyên tiền ủng hộ công nhân hoặc che chở đùm bọc công nhân khi phải về thôn quê
tạm lánh địch khủng bố.
"Đều đặc biệt và quan trọng nhứt trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự
tranh đấu của quần chúng công nông có tánh chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải là chịu
ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa".
Phong trào cách mạng dâng cao đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đội tiên phong cách
mạng có đủ bản lĩnh để lãnh đạo cuộc cách mạng của toàn dân tộc. Đó là Đảng Cộng
sản. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử chuẩn bị cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản ở nước ta. Trong lúc nhiều người yêu nước khác chưa nhận
thức được đòi hỏi bức xúc đó, thì những người tiên tiến trong Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đã sớm nắm bắt được nhu cầu lịch sử này của giai cấp công nhân và của dân
tộc.
Sau khi yêu cầu thành lập Đảng Cộng sản bị bác bỏ trong Đại hội Thanh niên ở
Hương Cảng (5-1929), ngày 17-6-1929 Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập ở Hà Nội
- và công bố Chính cương, Tuyên ngôn. Tuyên ngôn Đông Dương Cộng sản Đảng nêu rõ:
Thời kỳ đầu tiên của cách mạng ở Đông Dương là tư sản dân chủ cách mạng, giai cấp
vô sản "thực hành công nông liên hiệp" để đánh đuổi đế quốc Pháp và lật đổ phong kiến
địa chủ "thực hành thổ địa cách mệnh".
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng là sự kiện đột phá chính thức kết thúc
vai trò của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, có ảnh hưởng đến sự ra đời của hai tổ
chức cộng sản khác. Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng thành lập. Ngày 1-1-
1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời từ trong phái "tả" của Đảng Tân Việt. Trong
vòng 6 tháng, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời chứng tỏ những điều kiện thành lập
Đảng Cộng sản ở nước ta đã chín muồi.
Những người cộng sản của ba tổ chức này đã đánh giá nhau không đúng và chưa
nhận thức được hiện tượng phân tán và chia rẽ về tổ chức của phong trào cộng sản sẽ dẫn
đến những nguy cơ gì. Vì vậy, khắc phục sự phân tán và chia rẽ về tổ chức đó là nhiệm vụ
cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản, cũng là đòi hỏi khẩn thiết của cách
mạng nước ta lúc bấy giờ.
Trong tài liệu g ửi nh ững ng ười cộng sản Đông Dương ngày 27-10-1929 qu ốc tế
c ộng s ản nêu rõ: "Nhiệ m vụ quan trọng nh ất và cấp bách nh ất c ủa t ất c ả nh ững ng ười
c ộng sản Đông Dương là thành lập một đ ảng cách mạng có tính ch ất giai c ấp c ủa giai
c ấp vô s ản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính ch ất qu ần chúng ở Đông Dương.
Đảng đó ph ải chỉ có một và là t ổ ch ức cộng sản duy nh ất ở Đông Dương".
2. Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu
tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng bàn việc hợp
nhất.
Mùa xuân năm 1930, từ ngày 6-1 đến ngày 7-2 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản họp ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, với sự
tham gia của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, hai đại biểu của An Nam Cộng sản
Đảng và hai đại biểu ngoài nước. Hội nghị đã nhất trí thành lập một Đảng lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam (Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960, đã quyết
định lấy ngày 3-2-1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng). Tổng số đảng viên của Đảng cho
tới hội nghị hợp nhất là 565 đồng chí với 40 chi bộ.
Hội nghị thông quaChính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn
Ái Quốc khởi thảo. Đó là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của Đảng. Nội dung chủ yếu của
các văn kiện trên là:
- Cách mạng Việt Nam là "tư sản dân quyền cách mạng"... và "thổ địa cách mạng"...
để đi tới xã hội cộng sản.
- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập.
- Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh.
- Quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách
mạng Việt Nam chia cho nông dân nghèo.
- Tổ chức quân đội công nông.
- "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân
Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa
- chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ...
Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi
ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu
nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc
và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
- "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".
Văn kiện Hội nghị thành lập Đảng đã phát triển thêm một số luận điểm quan trọng
của tác phẩm Đường Cách mệnh.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cũng hợp
nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam theo một đường lối chính trị đúng đắn, dẫn đến sự thống nhất về tư tưởng và hành
động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên truyền thống đoàn kết của Đảng và dân tộc
từ đó về sau.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta,
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở dẫn đến những thắng lợi oanh
liệt và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc trong những năm sau.
Đánh giá về sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết:
"Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng".
Quá trình vận động thành lập Đảng cho Đảng ta một số kinh nghiệm: Độc lập tự chủ,
sáng tạo, tự lực, tự cường, tổng kết thực tiễn, kết hợp tinh hoa của nhân loại với tinh hoa
của dân tộc là những yếu tố giúp Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước đúng đắn,
đặt tiền lệ cho truyền thống độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng về sau.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ với phong trào công nhân mà với cả toàn bộ phong trào yêu nước, là sản phẩm
của sự thống nhất lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, phù hợp với đặc điểm xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến Việt Nam.
Sự đoàn kết thống nhất của đội tiên phong cách mạng tức Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định sự đoàn kết thống nhất phong trào cách mạng cả nước. Sự thống nhất cao ở
Hội nghị 3-2 là do uy tín và năng lực tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, dựa trên cơ sở
các tổ chức cộng sản đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hợp nhất đặt lợi ích chung
của cách mạng và của đất nước lên trên hết.
III - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - CƯƠNG
LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1- Thống nhất các tổ chức cộng sản
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản
đã gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan
trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương
- là sớm lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản
quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy
là tổ chức cộng sản mà thôi".
Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp
nhất các phần tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận
chỉ thị này, mùa thu nǎm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại
Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên.
Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một
công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự
Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông
Dương cộng sản đảng; Nguyên Thiệu và Châu Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam
cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc,
đại biểu của Quốc tế cộng sản.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý
kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt
của Đảng cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí
Nguyễn ái Quốc dự thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến
quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành
lập Đảng.
Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông
qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ
nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế
quốc)v.v..
Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể
thức cử Ban chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ để thu nạp Đông
Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu
đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà
tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất.
Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này, về sau đồng
chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản đảng dự Hội nghị hợp nhất đã
viết: "Tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã làm
cho tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần
mới. Có thể nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương
đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần những điều mà chúng tôi
mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui mừng
Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái
Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ
chức quần chúng cũng thống nhất theo điều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng ở
các xứ được chỉ định và Ban chấp hành trung ương lâm thời được thành lập. Các
- đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê
Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được các đảng bộ cử vào Ban chấp hành
trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu.
Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban chấp
hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm
1930, hai đồng chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các
đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm
thời cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ
đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng
cộng sản Việt Nam.
Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức
cộng sản ở Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng
cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa
như Đại hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và
đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước
thuộc địa, nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để
ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ mệnh
lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to
lớn đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối của
Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị
cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chính cương lĩnh vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp
nhất thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng...
2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa,
nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở
sức sinh sản, làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được".
Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra
lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn
ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và
toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai
giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân
biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế
quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ
nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác,
Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn
chỉnh tên gọi của thể loại cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân
- chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai
của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc
vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do
hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau,
ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện
cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này:
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách,
không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn
đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới,
thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội
công nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân
nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ"
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ
nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ,
đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân
chủ cho toàn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các
giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực
lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai,
mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng
chủ trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù
còn có những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương
sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những
nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì
quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng
Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ
địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với chủ nghĩa tư bản
thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản
đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các
- tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng
giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng
sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân
phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng
hơn.
Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng
vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân
Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp"
Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai
cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà
đi vào đường thoả hiệp"
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi
dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong
mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà
đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong
khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và
thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản
giai cấp Pháp"
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng
thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn
kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên
tiến, mà còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách
mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một
khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản,
chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục
tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".
Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai
cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng
sản".
Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập
tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành
- lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những người cách
mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong của dân tộc mình. Sau
ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi bộ cộng
sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn,
Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm cộng sản ở Campuchia được
thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên ở
Campuchia được thành lập ở trường trung học Xixôvát (Phnômpênh).
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ
chiếm 1,2% dân số, đã có Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó
chứng minh rằng, Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ
nghĩa Mác - Llênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu
tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được
truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn kết
được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách
mang.
Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới
vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng
chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã được mọi
người nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10
nǎm 1930 đã phê phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và quyết định "thủ
tiêu Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông qua
Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là
"Đảng cộng sản Đông Dương ".
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập
Đảng vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung ương
Đảng tháng l0-1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc, mà còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong
điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách
mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng
đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh; (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với
nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết
được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình.
Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó,
quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố
và tǎng cường".
- Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã
hội Việt Nam. Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng là thắng lợi của Cách
mạng tháng Mười Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở
khắp các lục địa.
ở nước ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong
trào yêu nước đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đường lối cứu nước
theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và quốc gia cách
mạng. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng,
đường lối, phương pháp cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng; đồng thời,
với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930), đánh dấu sự chấm dứt
ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản
trong cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời
đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp
mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát
triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân Việt Nam không chỉ làm nên
lịch sử vẻ vang của mình, mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị
áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân
chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội.
Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn ái Quốc, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cách mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào cách mạng
các nước, kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế, dân
tộc với thời đại, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo thành sức mạnh tổng
hợp để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm lược và xây dựng đất nước giàu mạnh.
Quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng eộng sản cho ta những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được
đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp
công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước
dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng
đầy đủ cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và
thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng
- lớp lao động và trưởng thành thông qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong
kiến.
Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi hỏi phải củng cố và phát triển phong trào
cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng dẫn,
lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong trào cách mạng mà
củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong
trào cách mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ
tiên phong.
Những người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam
cộng sản đảng hay Đông Dương cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy có những vấn
đề bất đồng, nhưng đã biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân
tộc, lợi ích giai cấp lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể
hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu
của toàn Đảng và toàn dân.
Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo
phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của
những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam
- Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Thành lập 3 tháng 2, 1930
Trụ sở quận Ba Đình, Hà Nội
Báo chính thức Báo Nhân dân
Tổ chức thanh niên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
Thành viên (2006) 3,1 triệu
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền tại Việt
Nam theo Hiến pháp, đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo
Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy
chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực tế, chủ nghĩa dân tộc, một số yếu tố
tích cực của chủ nghĩa tư bản và cả một vài yếu tố có tính truyền thống của ý thức
hệ phong kiến cũng có những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, trong các ngữ
cảnh không chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo, và đại bộ
phận người dân thường dùng một từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng
Cộng sản Việt Nam
Vai trò
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Lịch sử
[sửa] Tình hình thế giới
Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu
vực thuộc địa rộng 65 triệu km vuông với số dân 523,4 triệu người (so với diện
tích các nước đó là 16,5 triệu km vuông và dân số 437,2 triệu).[3]
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Sự ra đời của Liên bang Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết vào năm 1922.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế cộng sản được thành lập.
[sửa] Tình hình Việt Nam
• Kinh tế:
- o Quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì bên cạnh phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam.
o Kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, về cơ bản vẫn là
nền kinh tế nông nghiệp và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp.
• Xã hội:
o Từ xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến.
o Xã hội có sự phân hóa thành 5 giai cấp: Giai cấp địa chủ phong kiến,
giai cấp nông dân, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp
công nhân.
• Chính trị: tồn tại 2 chế độ.
o Triều đình phong kiến bù nhìn.
o Chế độ thực dân Pháp.
[sửa] Hình thành và các hoạt động đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản
Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 [4] đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại
Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ
ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất
này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày
6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự
Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn
Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn
Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức
cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn
kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng
Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng
Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và
Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.[5]
Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931, nổi bật là Xô-viết
Nghệ Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất
nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp.
Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do
Hà Huy Tập chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua
chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng
sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của
những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ
chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng
- Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng
minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7 năm 1936 do Lê
Hồng Phong chủ trì tổ chức tại Thượng Hải, Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ
đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt
trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương. Tháng 3 năm 1938, Hội nghị
Trung ương do Hà Huy Tập chủ trì họp ở Hóc Môn, Sài Gòn đã đổi tên Mặt trận là
Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn
áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu. Tháng 3 năm 1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương
đối với thời cuộc. Tháng 11 năm 1939 Hội nghị Trung ương đảng họp tại Hóc
Môn, Sài Gòn do Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã thành lập Mặt trận Dân tộc Thống
nhất Phản đế Đông Dương và Hội nghị Trung ương tháng 5 năm 1941 do Nguyễn
Ái Quốc chủ trì họp tại Cao Bằng lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận
này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến
với tên gọi Cách mạng tháng Tám.
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để
giấu sự liên hệ cộng sản với nhà nước mới thành lập, lấy tên gọi mới là Hội
nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, mọi hoạt động công khai của đảng
từ đây đều thông qua Mặt trận Việt Minh. Song trên thực tế, đảng vẫn hoạt động
và chỉ đạo công cuộc kháng chiến.
Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) quyết định lấy ngày 3 tháng
2 hằng năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng.
[sửa] Cầm quyền tại miền Bắc
Đảng này được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động
Việt Nam vào tháng 2 năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên
Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần
thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng
Cộng sản Đông Dương) thành các bộ phận riêng.
Sau đại hội II, Đảng Cộng sản thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Trong cuộc
cải cách, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia
cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Tuy
nhiên, cuộc cải cách đã đấu tố oan nhiều người, dẫn đến nhiều cái chết oan (số
liệu cụ thể chưa được xác định). Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên
nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương
trình Cải cách Ruộng đất như sau: Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng,
hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và Hồ Viết
Thắng bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính
thức hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam.
- [sửa] Sau thống nhất
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm
dứt Chiến tranh Việt Nam, tên đảng được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh sai lầm của
đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng
trở nên khó khăn. Đại hội khởi xướng chính sách đổi mới, cải tổ bộ máy nhà nước,
và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, trong lúc vẫn giữ vị trí
độc quyền.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 tiếp tục chính sách đổi mới, đồng
thời cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Sau đại hội, một số báo chí nước
ngoài đã đăng tin Đảng đang cân nhắc việc đổi tên, thành Đảng Nhân dân hay đổi
lại thành Đảng Lao động
Các Tổng Bí thư (tương đương với Bí thư Thứ nhất trong giai
đoạn 1960 - 1976)
Bài chi tiết: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam
Thời gian giữ
Họ tên Ghi chú
chức
Trần Phú 10/1930-4/1931 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương. Chỉ được
Lê Hồng Phong 3/1935đến 6/1936
công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương. Chỉ được
Hà Huy Tập 7/1936 đến 3/1938
công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
Nguyễn Văn Cừ 3/1938 đến 1/1940 Tổng bí thư ĐCS Đông Dương
Quyền Tổng Bí thư ĐCS Đông Dương từ
tháng 11/1940
Trường Chinh 5/1941 đến 9/1956
Thôi giữ chức sau Hội nghị Trung ương về
vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương (Kiêm chức
Hồ Chí Minh 10/1956 đến 9/1960
Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng)
Lê Duẩn 9/1960 đến 7/1986 9/1960-12/1976: Bí thư Thứ nhất Đảng Lao
động Việt Nam
- 12/1976-7/1986: Tổng bí thư ĐCS Việt Nam
(đến lúc mất)
Trường Chinh 7/1986 đến 12/1986 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Văn
12/1986 đến 6/1991 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Linh
Đỗ Mười 6/1991 đến 12/1997 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Lê Khả Phiêu 12/1997 đến 4/2001 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nông Đức Mạnh 4/2001 đến nay -
nguon tai.lieu . vn