Xem mẫu

  1. lệ ma chay: Ma chay theo tục lệ xa xưa. Vài vùng có tục hoả táng cho người chết từ 12 tuổi trở lên. Văn hoá: Người Dao có nền văn hoá lịch sử lâu đời và tri th ức dân gian r ất phong phú, đặc biệt là y học cổ truyền. Họ không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá gọi là chữ Nôm Dao. Lễ cầu mùa Nhà nửa sàn nửa trệt Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa t ối. Ch ỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa th ường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại nh ư cối g ỗ hình tr ụ, c ối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt lu ộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, ng ười ra kiêng đ ể đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết. Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay. Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu. Mặc: Nam mặc quần, áo. Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc đ ể chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn. Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài y ếm, váy ho ặc qu ần áo ng ắn hoặc dài màu chàm và đầu đội khăn.. Y phục rất sặc sỡ. Hiện trang vẫn giữ được các nét hoa văn truyền thống với những trang trí hoa văn truy ền th ống. H ọ
  2. không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên v ải b ằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm. Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu kh ắp các t ỉnh mi ền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất. Phụ nữ Dao đỏ búi tóc vấn khăn lên đỉnh đầu. Trang phục của họ phần cổ áo thêu hoa văn sặc sỡ, riêng chiếc yếm ngực còn gắn những bông hoa tám cánh chạm bằng bạc.
  3. Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú, tuỳ nhóm mà ở nhà tr ệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà n ửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đ ất là lo ại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm b ằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà đ ược làm b ằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với th ời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới. Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng. Nhà người Dao ở Lai Châu. Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
  4. Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ð ặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân bi ệt gi ữa những người thuộc các thế hệ khác nhau. Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh h ưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ. Lễ hội đón xuân của dân tộc Dao Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có h ợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái tr ước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra kh ỏi nhà gái và b ước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai. Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có ng ười chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi l ễ, tìm đ ất đào huy ệt. Ng ười ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của nh ững người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huy ệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân m ộ. ở m ột s ố n ơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ
  5. cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang s ống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu. Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa Cấp sắc là nghi lễ nguyên vị trí là có thể làm nhà được. truyền thống của những người đàn ông Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng Dao đến tuổi trưởng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh thành. Trong ảnh thầy hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là cúng đang làm lễ cấp Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người sắc. Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều ph ải qua l ễ c ấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang nh ững v ết c ủa l ễ thành đinh xa xưa. Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt. Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ. Màn múa chuông của dân tộc Dao Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truy ện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, S ự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng ch ủ yếu
  6. trong các nghi lễ tôn giáo. Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo. Nguồn : UBDT Văn hóa ẩm thực của người Dao Món ăn chế biến từ lương thực Xôi: Giống như một số tộc người anh em, người Dao cũng thường xuyên đồ xôi để ăn trong những ngày Tết và lễ như: lễ vào nhà mới, lễ cưới hoặc trong những ngày gia đình nhờ anh em giúp cây ruộng, gieo trồng ngô lúa, làm chu ồng trại gia súc. Đặc biệt, trong Tết Thanh minh nhiều nhà còn đồ xôi nhiều màu. Ngoài cơm và xôi, đôi khi người Dao cũng ăn cháo, ăn các loại c ủ t ự gieo tr ồng hoặc tìm kiếm từ trong rừng. Quà bánh: Các loại quà bánh của người Dao cũng khá đa dạng nh ư: bánh ch ưng, bánh dầy, bánh rán, bánh gio, bánh trôi, bánh chay, bánh đúc, bánh sừng bò... Trước đây, trong các ngày Tết Nguyên Đán và Tết 14 tháng 7 âm l ịch ng ười Dao làm nhiều bánh chưng đế đành ăn dần. Không ít gia đình trong suốt tháng giêng hoặc tháng 7 đều có bánh ăn. Món chế biến từ thịt và thủy sản Món xào: Khi thịt gà, thịt lợn, thịt dê, thịt bò người Dao th ường đem sào g ừng và nghệ. Đối với thịt lợn, thịt gà khi chế biến món sào đ ều cho m ột ít n ước và thường cho thêm gừng. Một số món như thịt bò, thịt trâu còn tươi cũng được đem xào chín với gừng. Chỉ có lòng gan lợn. thịt chim, th ịt chuột đồng, nh ộng được xào khô và cho thêm hành, gừng hoặc lá chanh thái nhỏ và cho một ít rượu. Trường hợp xào cho nhiều người ăn còn nêm thêm một số hương vị như thảo quả, quế, gừng sả... Món luộc: Để làm món thịt luộc, rửa sạch thịt và cắt thành miếng to bằng bàn tay. Sau đó bỏ vào nồi hoặc chảo, cho nước vừa đủ rồi bắc lên b ếp l ửa đun sôi, dùng đũa lật và chọc vào thịt để kiểm tra, nếu thấy chín đều thì vớt ra. N ước luộc thịt được đem nấu canh với rau cải, cải bắp hoặc với rau ngót, mồng tơi.
  7. Trước khi ăn, thịt luộc chín được đem thái hoặc chặt thành miếng nhà xếp vào bát, đ a hay đổ thịt ra lá dong, lá chuối. Món hầm: Thịt hầm cũng được người Dao ưa thích. Món th ịt hầm th ường ph ải có thêm những thứ bô trợ như đu đủ, khoai sọ, măng khô, giá đ ậu t ương, su hào... Tuỳ theo đặc điểm của món thịt hầm, họ có cho thêm một số gia v ị nh ư rượu, hành, hồ tiêu, củ sả, riềng, gừng... Món nấu (o khấu): Trong các món ăn của người Dao, nếu so sánh với các món xào, luộc và hầm thì các món nấu từ thịt cũng không phải là ít. Họ rất thích ăn thịt lợn nạc nấu hoặc rim, nhất là thịt gà nấu canh gừng. Nhiều khi đ ậu ph ụ, trứng gà cũng được đem nấu canh. Ngoài ra, họ còn hay nấu canh thịt lợn nạc với phở hoặc miến dong, nấu xương lợn với bí đao... Khi bắt được những con cá to họ cũng hay đem nấu canh với gia vị. Nhìn chung, trong nh ững ngày T ết hoặc lễ thường thấy xuất hiện nhiều món thịt nấu. V ới ốc đồng hoặc ốc su ối, họ thường đem rửa sạch, chặt đuôi rồi nấu canh nghệ, khi ăn thì mút l ấy th ịt b ỏ vỏ. Món rán: Món rán được chế biến khá đơn giản. Khi th ấy ch ảo nóng thì cho m ỡ vừa đủ, sau đó đập trứng hoặc cho đậu phụ hay cá xuống rán cho đến khi chín thì vớt ra, người chế biến món rán phải biết điều chỉnh ngọn lửa cho phù hợp và lật đồ rán cho khỏi bị cháy. Món nướng: Trước đây khi thịt lợn, người Dao có thói quen lây ít gan có c ả m ật và thịt nạc đem ướp muối rồi dùng tre gắp lại, đặt cạnh than h ồng để nướng. Khi chín gan được thái từng miếng, mật thì cho vào bát rượu, sau đó chia cho mọi người cùng ăn, thịt nướng thái ra bát cho trẻ con ăn. Món ăn chế biến từ rau Món rau nấu canh: Trong các món thức ăn hàng ngày, món rau n ấu canh m ặn hoặc nhạt là món chính. Bất kể loại rau nào cũng đ ược người Dao đem n ấu canh, chẳng hạn như rau cải, cà chua, bắp cải, đu đ ủ, su su, rau bí, rau r ền, măng, mướp, bầu, bí, khoai sọ....
  8. Món rau xào: Các loại rau như: mùi khai, ngọn khoai lang, lá non của cây sắn, rau cải làn, rau đớn thường được sào, ít dùng nấu canh. Tuy gọi là rau xào nhưng vẫn phải cho một ít nước để đun cho rau chín, tức là tránh cho rau bị cháy. So với món nấu thì món xắn thường cho muối mặn hơn. Món hầm: Nhìn chung, món rau hàm thường phải có thịt hoặc xương hay cá thì mới ngon. Với người Dao, những món hầm bằng rau, củ hay qu ả th ường ít cho các gia vị như hành, tỏi, gừng, lá tía tô... Món luộc: Trước đây, người Dao ở Vĩnh Phúc ít ăn món rau luộc, nguyên nhân có thể lúc đó nước mắm chưa được phổ biến. Hiện nay, đã ảnh hưởng từ văn hoá của người Việt láng giềng nên người Dao cũng ưa thích món rau luộc. Rất nhiều loại rau như rau cải, bắp cải, su hào, rau rền...được họ đem luộc ăn với nước chấm. Thức uống Người Dao có tập quán uống rượu từ lâu đời. Tuy vậy, ch ỉ có đàn ông Dao là hay uống rượu, nhất là khi nhà có khách. Còn nữ giới chỉ uống rượu thuốc để chữa bệnh hoặc trong dịp lễ Tết cũng như lúc có bạn bè. Nước uống của người Dao là nước lã đun sôi với một loại rễ, lá cây r ừng ho ặc hạt vối vừa mát vừa bổ. Hiện nay, nhiều gia đình người Dao đã tự trồng chè nên nước chè xanh cũng là đồ uống phổ biến của họ. Ứng xử trong ăn uống Theo tập quán, cứ đến bữa ăn chính, tất cả các thành viên trong gia đình đ ều phải ngồi vào mâm cùng ăn uống. Về vị trí ngồi, hàng được gọi là phía trên là nơi ngồi của đàn ông, còn hàng phía dưới hoặc tiếp giáp bếp là chỗ ngồi c ủa phụ nữ và trẻ con. Việc chia ra thành nhiều mâm để ăn uống th ường ch ỉ x ảy ra khi trong nhà có khách hoặc các thành viên quá đông, không đ ủ ch ỗ ng ồi ăn cùng mâm. Tuy vậy, hiện nay cũng có một số gia đình thích chia ra thành 2 mâm để ăn uống cho thuận tiện. Khi đó, mâm trong gian bếp có bà, m ẹ cùng con dâu và các cháu nhỏ, còn mâm trong gian khách có ông, bố cùng các con trai và các cháu trai lớn tuổi. Trong ăn uống của người Dao, khi mọi người ngồi vào mâm phải chờ cho đủ cả gia đình mới được cầm bát đũa. Người Dao có thói quen trong bữa ăn mời, nhường nhịn và gắp thức ăn cho nhau. Bố mẹ gắp cho ông bà và con cái, ông bà
  9. gắp cho các cháu nhỏ. Khi thịt gà dù to hay bé đều đành bộ gan cho ông bà, đùi chân cho những đứa trẻ bé nhất, còn đầu cánh để cho những đứa lớn hơn. Trong bữa ăn, nếu có khách chủ nhà cũng không quên mời và luôn tay gắp miếng ăn ngon cho khách. Đúng theo tập quán trước kia, người Dan vừa ăn c ơm vừa u ống rượu, khách thường nhấc chén uống rượu mỗi khi chủ nhà nâng chén mời nhưng không chạm chén. Do vậy, khách cần dựa theo kh ả năng của mình mà uống nhiều hay ít mỗi khi nhấc chén uống rượu. Khi uống cạn chén khách cứ tụ nhiên để cho chủ nhà rót rượu xuống. Nếu cảm th ấy không mu ốn u ống n ữa thì lấy tay đẩy nhẹ miệng chai lên mỗi khi th ấy chủ nhà định rót r ượu xu ống chén của mình. Khi ăn cơm xong hoặc đang ăn không được để đũa lên miệng bắt, bởi vì họ quan niệm rằng chỉ trong những ngày ma chay hoặc xới cơm cúng vong hồn người chết mới được để đũa như vậy. Đối với các nghi lễ của người Dao như đám cưới, vào nhà mới, đám ma, có một số món ăn thường được chế biến theo chuẩn mực đã được t ập quán c ộng đồng quy định. Chẳng hạn, trong đám cưới thường phải có các món nh ư: xôi, th ịt l ợn luộc, thịt gà thiến, xương lợn nấu với một số món nh ư măng, đ ậu tương h ầm... Nhìn chung, nếu đám cưới to thì có khá nhiều món và đ ược ch ế bi ến nh ư trong những ngày Tết Nguyên đán. Trong lễ cấp sắc, họ thường ăn th ịt lợn, th ịt gà cùng với một số món như cá suối và thịt sóc để cúng lễ. Còn trong đám ma có thịt lợn luộc, thịt lợn xào, rau cải nấu, nhất thiết phải có món đu đủ n ấu hoặc bi chuối rừng nấu với xương lợn. Về cách sắp xếp số lượng người ngồi ăn trong mâm cũng tuỳ theo từng nghi lễ. Còn vị trí ngồi, được xếp theo gi ới, ngôi th ứ, v ị thế trong dòng họ, theo tuổi tác và địa vị của khách. Tuy vậy, vị trí ngồi còn phải tuỳ theo sự quy định của từng loại nghi lễ. Trang phục của người Dao Chuyện ăn mặc của phụ nữ người Dao rất được cọi trọng. Ngay từ bé, các cô gái Dao đã được mẹ dạy cho cách thêu thùa, ăn mặc sao cho đẹp, duyên dáng. Trang phục cảu người Dao Tiền và Dao đỏ cũng có chút khác biệt Trang phục của người Dao đỏ So với người Dao Đỏ ở Quảng Bạ thì người Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì h ầu nh ư vẫn giữ được nguyên vẹn bộ trang phục cổ truyền bao gồm khăn đội đầu, áo dài, áo con, dây lưng, xà cạp và đồ trang sức bằng bạc.
  10. Khăn đội đầu của người Dao Đỏ ở đây thường có hai loại, khăn vấn bên trong và khăn phủ bên ngoài. Khăn vấn bên trong thường là màu chàm hoặc đen, dài khoảng 155cm, rộng 12cm. Toàn bộ mặt khăn được thêu kín các hoạ tiết trang trí bằng chỉ màu trắng, xanh lơ và màu đỏ. Hai đầu khăn đính nhiều chuỗi hạt cườm và có tua dài màu đỏ. Khăn được gấp đôi theo chiều dọc, hai mép khăn khâu lại với nhau thành một cái ống. Khi đội người ta cuộn nhi ều vòng quanh đầu, thường từ hai đến ba khăn nối nhau thành một cái vành rộng. Khăn phủ bên ngoài thường cũng làm bằng vải chàm màu đen, dài 18cm, rộng 23 cm. Hai đầu khăn thêu hoa văn trang trí bằng chỉ màu giống như khăn v ấn bên trong. Khi đội, khăn này phủ bên ngoài vành khăn bên trong, hai đ ầu khăn đ ỏ v ề phía sau vai. Cùng với chiếc khăn, trong trang phục của người Dao Đỏ quan trọng nh ất là chiếc áo dài. Theo phong tục, phụ nữ Dao Đỏ ở đây không mặc áo ng ắn mà ch ỉ mặc áo dài. Áo tứ thân màu chàm hoặc đen, không khoét nách mà tay đ ấu th ẳng vào thân. Nẹp cổ liền với nẹp ngực được thêu kín các hoạ ti ết trang trí b ằng ch ỉ màu đỏ. Hai đầu của nẹp ngực đính nhiều chuỗi hạt cườm và tua đỏ như nẹp ngực. Cửa tay áo, nẹp xung quanh tà áo trước và sau đều được thêu b ằng ch ỉ màu đỏ và trắng. Riêng ở gấu vạt trước và sau người ta thêu hai nẹp tách rời nhau, trông xa như hai áo mặc lồng nhau, áo ngoài ngắn h ơn áo trong. Bên trong của chiếc áo dài, phụ nữ Dao Đỏ còn mặc áo con, gọi là lui ton, giống như cái yếm, mặc bên trong che kín cả ngực và bụng, cổ tròn mở sau gáy, có n ẹp c ổ dài hình chữ nhật, từ cổ xuống nửa thân áo đều bằng vải đỏ và có những đường thêu bằng chỉ trắng và vàng. Khoảng giữa thân áo mỗi bên đính một dải vải nh ỏ để làm dây buộc ra phía sau lưng.
  11. Góp phần trang trí thêm cho chiếc áo dài còn có dây lưng. Áo ng ười Dao Đ ỏ không có khuy nên khi mặc người ta vắt chéo thân bên này đè lên thân bên kia rồi buộc dây lưng ra ngoài. Dây lưng bằng vải đỏ và không có hoa văn trang trí. Quần của phụ nữ Dao Đỏ luôn cùng màu với áo là màu chàm hoặc đen, đ ược cắt theo kiểu chân què, cạp lá toạ. Gấu của ống quần có m ột vài đ ường thêu bằng chỉ màu trắng, đỏ và vàng. Cùng với chiếc quần là xà cạp. Xà cạp bằng vải màu trắng. Một đ ầu đ ược thêu nhiều hoạ tiết khác nhau bằng chỉ màu đen. Cùng với xà c ạp là dây bu ộc có tua dài màu đỏ. Nếu như trang phục của phụ nữ Dao Đỏ cầu kì bao nhiều thì trang phục của nam người Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì lại rất đơn giản, chỉ có khăn đội đ ầu, áo ngắn và quần. Khăn đội đầu của nam giới thường làm bằng vải thô màu chàm hoặc đen, khi đội được gắp làm tư theo chiều dọc rồi cuốn lên đầu nhi ều vòng, vòn đ ầu th ừa gài vào bên trong vành khăn. Áo ngắn cũng màu chàm hoặc đen, cổ tròn, mở ngực, không khoét nách, tay đ ấu thẳng vào thân. Nẹp ngực, gấu của hai thân trước và sau đều được thêu b ằng chỉ màu đỏ, trắng và vàng. Nẹp áo thân bên trái còn đính thêm một mi ếng v ải màu đỏ hình chữ nhật dài từ thân cổ áo xuống quá chỗ xẻ tà. Mi ếng v ải này
  12. được thêu kín các hoạ tiết hoa văn bằng chỉ đỏ, trắng và vàng. Người Dao Đỏ thường gọi miếng vải đó là lùi kệm. Quần của nam giới cũng cùng màu với áo, cắt theo kiểu chân què, c ạp lá to ạ giống như quần của nữ, chỉ khác là dưới gấy chân quần của nam không thêu ch ỉ như nữ. màu Bộ trang phục truyền thống của người Dao Đỏ ở Quảng Bạ có nhiều nét khác biệt với người Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì đặc biệt là về trang phục của nữ gi ới. Áo dài của phụ nữ Dao Đỏ Quản Bạ cũng màu chàm hoặc đen nh ưng tay áo gồm nhiều khoanh vải khác nhau mà chủ yếu là vải hoa được can lại với nhau giống như tay áo của phụ nữ Hmông. trên áo của ph ụ nữ Dao Đỏ ở đây còn thêm cái tạp dề giống như tạp dề của người Hmông. Cái giống duy nh ất và làm cho người ta nhận ra người Dao Đỏ ở đây chính là nẹp ngực áo được trang trí giống như nẹp ngực áo của người Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì. Áo con của phụ nữ Dao Đỏ ở đây cũng khác, chỉ bằng một nửa áo con của ph ụ nữ Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì. Nó cũng không được thêu hoạ ti ết gì mà đ ược ghép bằng nhiều dải vải nhỏ khác màu. Trên cổ áo và trên băng vải ở giữa áo được đính nhiều mảnh bạc hình sao. Trang phục của nam giới người Dao Đỏ thường không thống nhất và khác xa với trang phục nam giới người Dao Đỏ ở Hoàng Su phì, chỉ giống ở chiếc mũ đội đầu nhưng cách đội của những nam giới ở đây cũng khác hẳn. Trang phục cảu người Dao Tiền
  13. Ảnh: tusachcongdong.com Trang phục thường ngày của thiếu nữ Dao đỏ. Ảnh: daidoanket.vn
  14. Trang phục của thiếu nữ Dao Tiền. Ảnh: chudu24.com Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Duy nhất trong cộng đồng ng ười Dao ch ỉ có người Dao Tiền là mặc váy (váy của người Dao Tiền phía b ắc dài h ơn váy c ủa người Dao Tiền phía nam). Áo của người Dao Tiền gồm hai thân tr ước, n ẹp và một xỏ tà. Thường trên đó họ dùng họa tiết hình gấu, chó. Đây cũng là ý niệm xa xưa gián tiếp nhớ về thủy tổ của dân tộc Dao. Ở đó có hình Bàn V ương, con chó ngũ sắc - đã có công giết giặc được vua gả công chúa cho sinh con đẻ cái,
  15. trở thành dân tộc Dao ngày nay, áo thường có bộ khuy quý bằng bạc hình tròn chạm khắc tinh vi. Cổ áo của người phụ nữ Dao được trang trí b ằng núm bông hoa đỏ như nắm tay nổi bật trên nền áo chàm xanh đằm th ắm. Y ếm c ủa ng ười Dao khá đơn giản, chỉ là một vuông lụa trắng đính một mi ếng vải hình tam giác làm cổ yếm. Xà cạp có hình hoa văn móc câu hay răng cưa hình chim. Để bộ trang phục thêm hoàn mỹ, họ thường dùng nhiều loại khăn vấn đầu (có 3 loại khăn: khăn vuông, khăn chữ nhật và khăn dài). Trong đám hát ví, h ọ th ường dùng khăn thêu trắng dài chừng 12m, rộng 30-40cm, hai đầu g ồm hai m ảng hoa văn hình vuông tạo thành cảm giác mềm mại. Ngoài trang phục chính, ng ười phụ nữ Dao còn ưa dùng đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng: vòng cổ, nhẫn, túi ăn trầu, các đồ trang sức bằng bạc hình bán c ầu, hình sao 8 cánh. Có những cô gái Dao đeo 10 chiếc vòng cổ, 12 chiếc nhẫn, cùng những chiếc khuy bạc đường kính 6-7cm, nổi bật trên màu áo chàm. Trang phục cưới của người Dao Đỏ. Ảnh: chudu24.com Vào dịp lễ hội, người phụ nữ Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong cho mái tóc nuột nà, uốn lượn. Đây cũng là một bí quyết giúp mái tóc của những cô gái Dao khỏe về sức sống, đẹp trong con mắt mọi người. Trong không khí t ưng bừng của ngày Tết, lễ hội, người ta dùng điệu hát lời ca làm cuộc s ống thêm thăng hoa. Đáng chú ý là bộ trang phục của cô dâu, phải mất 3 năm cô gái Dao mới hoàn thành bộ trang phục cho mình. Trang phục chú rể kín đáo, ít phô bày, thường được may bằng các loại vải màu sậm phần nào thể hiện nam tính. Riêng trang phục của ông thầy cúng có khác đôi chút, mũ đ ược làm b ằng bìa
  16. cứng, gồm nhiều bức tranh ghép lại cắt dán theo hình quả núi dài kho ảng 25cm. Áo màu đen được thêu hoa văn màu đỏ. Trang phục của người Dao Thanh Y. Ảnh: baovanhoa.vn Đối với một dân tộc, một quốc gia bản sắc văn hóa là một giá trị có ý nghĩa tâm linh truyền thống cao quý thiêng liêng. Khi tìm hiểu về th ời trang và cách làm đẹp của người Dao Tiền, chúng ta càng thêm tự hào về bề dày truy ền th ống văn hóa. Ở đó trang phục người phụ nữ Dao chiếm một vị trí đặc biệt, góp ph ần điểm xuyết thêm cho bức tranh 54 dân tộc anh em thêm rực rỡ, trọn v ẹn c ủa tổng thể hài hòa 'bản sắc văn hóa Việt'. ĐỘC ĐÁO LỄ HỘI "TRẦU SUN" CỦA DÂN TỘC DAO ĐỎ Hàng năm cứ vào ngày Hợi tháng giêng (mồng 5 T ết), dân t ộc Dao Đ ỏ ở Làng Chành, xã Xuân Giao (Bảo Thắng - Lào Cai) l ại r ộn ràng m ở h ội “Trầu Sun”.
  17. Đây là hội chơi xuân truyền thống của đồng bào Dao Đỏ, mục đích của hội là thực hiện các nghi lễ cúng báo thần làng, đất trời phù h ộ cho m ột năm m ới, m ở đầu chu kỳ sản xuất mới mưa thuận, gió hoà mùa màng t ốt t ươi, ng ười yên v ật thịnh, trâu bò đầy chuồng, gà vịt đầy sân… Từ sáng sớm, thầy cúng chính cùng đại diện các hộ gia đình chuẩn bị đầy đủ các mâm lễ cúng thần trời đất, thần làng … Sau khi đoàn đội l ễ đ ến t ại khu đ ất rộng đầu làng (nơi diễn ra hội làng), thầy cúng thay mặt dân làng th ắp h ương khấn báo thần làng, trời đất phù hộ cho dân làng mở hội cầu mùa, cầu phúc, cầu tài cầu cho con trai làng trên, congái làng dưới, thuận duyên, bén lứa nên v ợ, nên chồng, nhà nhà ấm no hạnh phúc… Sau khi kết thúc phần lễ, diễn ra cuộc thi văn hoá – văn ngh ệ, thi đấu các môn thể thao truyền thống, như đẩy gậy, kéo co, bắn nỏ, đánh quay. Đội văn ngh ệ các xã tổ chức thi múa, hát, trích đoạn nghi lễ cấp sắc người Dao… Các trò chơi, trò diễn càng sôi nổi hấp dẫn bởi sự góp mặt của cộng đồng các dân tộc ở 7 xã, thị trấn cùng đông đảo đồng bào các dân tộc từ khắp các địa phương lân cận đến xem và cổ vũ cho các tiết mục biểu diễn văn nghệ và thi đấu thể thao. Xem chi tiết tại: http://www.xaluan.com TỤC THỜ CÚNG VÍA LÚA CỦA NGƯỜI DAO (YÊN BÁI) Từ xa xưa, trong quan niệm của người Dao cũng như nhiều dân t ộc khác ở Việt Nam thì vạn vật từ con người, cỏ cây, muông thú, đ ến đ ồ v ật đ ều có hồn vía. Tuy nhiên, sự coi trọng hồn vía của vạn vật có l ẽ đ ược th ể hi ện rõ nhất trong cộng đồng người Dao qua tín ngưỡng và nghi lễ thờ cúng.
  18. Trên hoa văn của trang phục, tranh cúng, trang trí kiến trúc…của người Dao cũng có rất nhiều hình vẽ tả thực hay cách điệu các loại cỏ cây, động vật, đồ vật như: răng lợn rừng, vuốt hổ, dao nhọn, thân cây, m ặt trời... Không ch ỉ mang ý nghĩ làm đẹp mà nó còn thể hiện sự mong muốn c ủa con người đ ược h ồn vía của vạn vật hộ mệnh cho khoẻ mạnh, làm ăn phát triển, tránh được hạn ách hay sự tấn công của thú dữ. Đặc biệt, trong tín ngưỡng dân gian này thì t ục th ờ vía lúa-loại cây giúp con người duy trì sự sống đã được người Dao rất chú ý quan tâm. Trước đây, người Dao cũng như nhiều dân tộc khác chỉ làm một vụ lúa mùa, lúa nương. Sau khi thu hoạch, người ta chọn nh ững bông to nh ất, ch ắc h ạt nh ất đ ể cất đi làm giống. Lúa giống được vò tách hạt phơi khô cất vào bồ hoặc để cả bông bó lại (cum lúa) treo lên gác nhà tránh ẩm mốc. Tuy vậy, có những ngành Dao như ngành Dao đỏ ở xã Nậm Lành (huyện Văn Chấn) thì mỗi nhà l ại ch ọn vài bông thóc giống buộc vào ngọn của cây măng sặt để nguyên cả cành lá cho vía lúa trú ngụ. Cành cây buộc những bông lúa này bà con gọi là “hảu pắt” được buộc dựng ở vị trí bên trong vách chái nhà, phía bên trái từ trong nhìn ra. Đến vụ gieo cấy, bà con vò những hạt thóc trên cây “hảu pắt”, đặt lên mâm cúng vía lúa. Nh ững ngành Dao khác thì lấy cum lúa xuống vò, hoặc lấy ít thóc gi ống trong b ồ đem đ ặt lên mâm cúng. Quan niệm của đồng bào cho rằng, sau khi gặt mang v ề nhà, lúa giống sẽ được nghỉ ngơi trong một thời gian dài. Vì vậy, vía lúa sẽ bỏ đi chơi lang thang khắp đó đây nên khi gieo cấy nếu không g ọi vía lúa tr ở v ề thì lúa giống sẽ bị yếu, gieo hạt xuống lúa sẽ không mọc hoặc có mọc thì cũng không hy vọng mùa màng tươi tốt. Lễ cúng vía lúa đơn giản gồm: xôi nếp, gà luộc, vàng mã và m ời th ầy cúng đ ến làm lễ. Thầy cúng sẽ gọi vía lúa về nhập vào những h ạt thóc trên mâm cúng, cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cầu tổ tiên phù h ộ và bày t ỏ ước mu ốn c ủa gia chủ về một mùa tới sẽ được bội thu. Cúng xong, thầy cúng chuyển những h ạt thóc giống trên mâm cúng để gia chủ trộn lẫn vào những bồ thóc gi ống đ ể ở phía dưới và trộn đều lên chờ ngày mang đi gieo mạ hoặc trồng trên nương. Hiện nay, tục cúng vía lúa vẫn được cộng đồng người Dao duy trì mỗi khi vào vụ gieo cấy. Tục này được coi là một nét đẹp trong tín ng ưỡng dân gian c ủa người Dao, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam.
  19. Người Dao được chia thành 4 ngành là: Dao đỏ, Dao quần chẹt, Dao quần trắng và Dao tuyển. Cũng như các dân tộc khác, sau một năm lao động, sản xuất, họ cũng tổ chức ăn tết để mừng những thành quả đã đạt được trong năm qua. Đây cũng là dịp để anh em họ hàng, làng xóm đến thăm nhà chúc tụng nhau và cũng là dịp để các chàng trai, cô gái giao lưu văn hoá, văn nghệ, trao nhau những lời ca, tiếng hát trữ tình hẹn ước. Sau những ngày vui xuân, nhiều đôi nam thanh, nữ tú đã thương nhau kết duyên thành vợ chồng. Người Dao có tập quán ăn tết rất vui nhộn. Ăn tết là tổng kết quá trình một năm lao động sản xuất nên rất quan trọng đối với họ, gia đình nào cũng tổ chức làm vài mâm cỗ mời anh em hàng xóm đến cùng ăn uống vui vẻ, kể lại chuyện làm ăn và định hướng cách phát triển kinh tế cho năm tới. Đặc biệt là hàng xóm gần nhau không ăn tết trùng ngày để có thời gian đến chơi thăm hỏi động viên nhau. Tùy theo hoàn cảnh, gia đình khá giả hay bình thường, mỗi gia đình tự làm mâm cỗ cho phù hợp với điều kiện của mình, nếu nhà nào có đông anh em thì mổ lợn to làm 5 đến 6 mâm, còn gia đình không có điều kiện và ít anh em thì mổ gà và mua ít thịt lợn về làm từ 2 đến 3 mâm đơn giản. Người Dao thường có phong tục mổ lợn cúng tết Lợn cúng cả con bằng thịt sống, còn gà thì mổ xong đem bỏ vào nồi luộc chín mới cúng. Trong những ngày giáp tết từ 28, 29, 30 tháng 12 của năm trước là những ngày vất vả nhất đối với mọi thành viên của các gia đình người Dao. Đàn ông phải lau chùi, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, phụ nữ hái lá dong về gói bánh, giặt hết chăn màn, quần áo của cả nhà không để sót cái nào khi đã dùng qua. Người Dao quan niệm rằng, nếu không giặt sạch hết mồ hôi thì mọi rủi ro, hoạn nạn của năm cũ vẫn còn tồn tại truyền sang năm mới. Tối đến nhà nào nhà nấy quây quần bên bếp lửa hồng với nồi bánh chưng gói theo hình trụ hay hình thoi tùy theo sở thích của từng người, đồng thời nấu một đõ xôi để giã bánh dày. Bên cạnh đó, người Dao còn đun một nồi nước thật to để cả nhà cùng tắm giặt. Trước khi đón giao thừa, bàn thờ của người Dao được dọn sạch. Xung quanh bàn thờ tổ tiên, người Dao cắm từ 5 đến 10 cây mía được chặt nguyên cây để cả lá, trên ngọn những cây mía và những chiếc bánh trưng, bánh dày được đặt lên bàn thờ tổ tiên đều cắm hoa, gắn quả, tiền giấy lên trên đó tạo sự mới mẻ chào đón năm mới và mong tổ tiên phù hộ trong năm tới gia đình luôn được bình an, ăn nên làm ra. Sau đó, đàn ông lấy giấy màu hồng, giấy bản cắt thành từng mảnh dài khoảng 20 cm, rộng 10 cm, một đầu cắt hình chữ V để dán lên bàn thờ tổ tiên, cửa nhà, chuồng gia súc, gia cầm và tất cả các công cụ được sử dụng trong lao động sản xuất của gia đình, thể hiện lòng biết ơn và báo hiệu năm cũ đã trôi qua, năm mới đã đến, tất cả mọi người được hưởng thụ, nghỉ ngơi...
  20. Giữ gìn bản sắc dân tộc Dao. Đêm 30 tết, mọi thành viên trong gia đình đều mặc đẹp, chải tóc gọn gàng, ở nhà đầy đủ để đón năm mới. Nếu có ai trong gia đình đi ra ngoài, người Dao cho rằng người đó sẽ mang hết tài lộc của gia đình ra khỏi nhà. Ngược lại, cũng không cho người lạ vào nhà vì họ cho rằng người ngoài sẽ đem điều rủi ro, bất hạnh đến cho gia đình. Lúc đón giao thừa, cả nhà mỗi người cầm một ném nhang lần lượt từ lớn đến bé cắm lên bàn thờ tự cầu khấn cho bản thân mình, chủ nhà thường khấn: “Hôm nay là ngày cùng tháng tận của năm cũ, con mong các cụ phù hộ cho con sang năm mới có sức khỏe dồi dào, làm ăn phát đạt có nhiều tài lộc…”. Sáng mùng 1 tết cả gia đình dậy rất sớm, đặc biệt là chủ nhà phải mở cửa ra khỏi nhà trước, sau đó người khác trong gia đình mới được đi ra. Người con dâu hay con gái đun một nồi nước nóng và pha vào chậu cho từng người trong nhà rửa mặt (trừ người ít tuổi hơn) để thể hiện lòng kính trọng và lòng hiếu thảo của người con đối với ông bà, cha mẹ, anh chị. Sau khi rửa mặt xong, chủ nhà lấy những mảnh giấy bản đã được cắt sẵn phát cho mỗi người hai đến ba tờ và mỗi người một con dao. Người ta chọn giờ và định sẵn hướng, nhưng nhất thiết phải ra cửa chính và về bằng cửa phụ trong lúc trời chưa sáng hẳn, chủ nhà sách đèn dầu dẫn cả gia đình “xuất hành”. Đi ra cách nhà khoảng 50 đến 100 mét thì dừng lại mỗi người tìm một loại cây chặt một nhát dao vào thân cây xong dắt giấy bản lên chỗ dao chặt, vừa dắt vừa nói: "Hôm nay là ngày mùng một năm mới tôi gửi gắm mọi rủi ro, hoạn nạn của năm cũ cho cây, cầu mong năm mới gặp nhiều may mắn hơn".
nguon tai.lieu . vn