Xem mẫu

  1. Đặc điểm sinh thái và nguồn gốc của ngành mang râu 1. Sinh học và sinh thái Là nhóm động vật phát triển phong phú trong môi trường xa lạ với nhiều nhóm sinh vật khác (nhiều chất độc như H2S, CH4, ở đáy sâu đại dương thiếu ánh sáng và chịu áp suất lớn…). Việc phát hiện được động vật Mang râu
  2. thuộc phân lớp Vestimentifera có sinh khối lớn, phát triển mạnh nhờ vào vi khuẩn hoá tổng hợp sống cộng sinh đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho việc nghiên cứu dinh dưỡng của động vật. Các động vật mang râu đã gặp ở vùng quần đảo Galapagôt thuộc Thái Bình Dương, nơi đáy biển sâu 2.500m, có nhiều giếng phun nước nóng, nhiệt độ vào khoảng 10 – 150C, ở Đại Tây Dương trong vịnh Mexicô với độ sâu 300 – 6.000m, nhiệt độ nước khoảng 2 – 40C, kể cả nơi có xác cá voi đang thối rữa. Tất cả những nơi này đều giàu H2S, CH4.
  3. Động vật mang râu phát tán nhờ ấu trùng trochophora. Tốc độ sinh trưởng vỏ của chúng dao động từ 30cm/năm đến 85cm/năm. 2. Phát sinh chủng loại của mang râu Có nhiều ý kiến khác nhau về vị trị phân loại của mang râu: Căn cứ vào kiểu phát triển lõm ruột của cách hình thành lá phôi giữa, đôi túi thể xoang thứ nhất có một bên hình thành xoang bao tim và bên kia có ống dẫn thể xoang đổ ra ngoài, tuyến sinh dục trong đôi túi thể xoang thứ 3 có ống dẫn sinh dục… nên một số người vẫn xem Mang râu là động vật Có miệng thứ sinh (Deuterostomia) và theo quan điểm này thì mặt lưng là phía thần kinh (adneura).
  4. Một số quan điểm khác cho rằng dựa vào hiện tượng phân đốt của phần đuôi, đặc điểm hình thái của ấu trùng trochophora, đặc điểm của tơ… mà xếp Mang râu vào là một nhóm của Giun định cư thuộc ngành Giun đốt. Theo quan điểm này thì phía thần kinh là phía bụng. Các dẫn liệu mới đây về vị trí tương đối của ruột tạm thời ở ấu trùng của loài Riftia pachyptila(Jones, Gardiner, 1988), về cấu trúc phân tử của huyết sắc tố ngoại bào EHb (F. Zal và cộng sự, 1997, 1999), của rARN 18S (Cavalier, Smith, 1996; Aguildo và Lake, 1998) đã xác minh quan hệ gần gũi của Mang râu với giun đốt. Chính vì vậy Zal
  5. (1999) đã xếp Mang râu vào là một lớp của ngành Giun đốt - lớp Đuôi tơ (Opissthochaeta). Một quan điểm khác căn cứ vào sơ đồ 4 đốt, coi mang râu là nhóm động vật trung gian giữa động vật Có miệng nguyên sinh (Protostomia) và động vật Có miệng thứ sinh (Deuterostomia) sớm hình thành từ khi xuất hiện 2 hướng tiến hoá trên. Hương Thảo (thao giáo trình ĐVKXS)
nguon tai.lieu . vn