Xem mẫu

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NHÓM PHỤ NỮ LÀM NGHỀ
GIÚP VIỆC BỊ BẠO LỰC TẠI HÀ NỘI
Ths. Nguyễn Thị Kim Dung
Bộ môn Công tác xã hội, Đại học Thăng Long
Email: nguyenkimdung101284@gmail.com
Tóm tắt: Năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Sự phát triển của kinh tế dẫn đến những thay đổi lớn
mạnh của xã hội, một trong những chứng của thay đổi xã hội đó là làn song di cư từ nông
thôn ra thành thị. Người dân di cư từ nông thôn ra thành thị làm đủ các nghề khác nhau để
kiểm sống, trong đó có một số lượng lớn phụ nữ di cư làm nghề giúp việc gia đình. Nghề giúp
việc gia đình, thực chất đã có từ rất lâu trong xã hội Việt Nam, tuy nhiên những năm gần đây,
giúp việc gia đình đang ngày trở thành nhu cầu cần thiết đối với rất nhiều gia đình ở thành
thị. Giúp việc gia đình tạo ra giá trị kinh tế cho xã hội, tuy nhiên nghề này vẫn chưa thực sự
được coi trọng và một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đó là vấn đề bạo lực đối với phụ nữ làm
nghề giúp việc vẫn chưa được quan tâm kịp thời. Bài viết này, vì thế tập trung vào vấn đề bạo
lực đối với phụ nữ di cư làm nghề giúp việc và vai trò của công tác xã hội với vấn đề này.
Từ khóa: di cư, bạo lực, phụ nữ, giúp việc gia đình, vai trò của công tác xã hội.
Sau 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới cả về kinh tế, chính trị và xã
hội. Sự kiện mở cửa năm 1986 đã tạo ra môt bước ngoặt lớn trong sự phát triển của đất nước
nói chung và các tỉnh thành nói riêng của cả nước. Cùng với sự tăng trưởng của kinh tế, sự
phát triển ổn định xã hội, chất lượng cuộc sống của người dân đã được nâng cao hơn nâng cao
và có nhiều thay đổi. Một trong những bằng chứng của sự thay đổi phát triển này là làn sóng
di cư trong nước, đặc biệt là di cư từ nông thôn ra thành thị, trong đó số lượng người di cư
nhiều nhất là các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng và Hồ Chí Minh (Đào Bích Hà,2011).
Trong khi nhiều vùng nông thôn đang dư thừa lao động, thì khu vực thành thị lại rất cần
nguồn lao động này. 88% số phụ nữ di cư cho rằng việc dễ tìm việc làm tại nơi đến là một
trong những lực hút để họ di cư (Action Aid 2010). Theo kết quả nghiên cứu cho thấy trong
số những người di cư từ nông thôn ra thành thị, tỉ lệ phụ nữ chiếm cao hơn nam giới. Người di
cư từ nông thôn ra thành thị làm đủ các ngành nghề khác nhau, chủ yếu là lao động chân tay
đểtăng thu nhập cho gia đình như bán hàng rong, phụ hồ, nhặt ve chai, công nhân…..Trong số
đó giúp việc gia đình là một lựa chọn của rất nhiều phụ nữ là người di cư từ nông thôn ra
thành thị.Có thể thấy, lao động di cư nói chung và giúp việc gia đình đã tạo ra giá trị kinh tế
và đóng góp cho sự phát triển xã hội tuy nhiên người di cư cũng gặp rất nhiều khó khăn thử
thách tại nơi họ làm việc, trong đó có hiện tượng bị bạo lực trên cơ sở giới do tính dễ bị tổn
thương. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng vấn đề bạo lực đối với phụ nữ làm nghề giúp việc vẫn chưa
thực sự nhận được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt từ góc độ công tác xã hội.Bài viết này vì thế
sẽ tập trung vào vấn đề lao động nữ di cư bị bạo lực trên cơ sở giới, trong đó tập trung vào
những người di cư làm nghề giúp việc gia đình dưới góc nhìn của công tác xã hội. Bài viết sử
dụng và phân tích tài liệu thứ cấp qua các báo cáo và nghiên cứu. Trước khi bàn về vấn đề sự
cần thiết của công tác xã hội đối với phụ nữ làm nghề giúp việc bị bạo lực, bài viết trình bày
tóm tắt một vài vấn đề liên quan đến tình hình giúp việc gia đình ở Việt Nam, sau đó là vấn đề
về tình hình bạo lực đối với phụ nữ làm nghề giúp việc, tiếp theo sẽ làphần phân tích về tính
dễ tổn thương của phụ nữ làm nghề giúp việc.
Trư ng Đ i h c Thăng Long

245

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

Lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam
Liên quan đến định nghĩa về người làm nghề giúp việc gia đình, theo Khoản 1 Điều
179 của Bộ luật Lao động 2012 của Việt Nam nêu rõ “lao động là ngườigiúp việc gia đình là
người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đìnhcủa một hoặc nhiều hộ gia
đình”. Điều 1(a) Công ước số 189 của ILO cũng nêu rõ giúp việc gia đìnhnghĩa là công việc
được thực hiện trong hoặc cho một hộ gia đình hoặc các hộgia đình. Có thể thấy, nghề giúp
việc gia đình ở Việt Nam không phải đến những năm gần đây mới phổ biến, mà thực tế giúp
việc gia đình đã có từ rất lâu, trước những năm 1945. Thời đó những người giúp việc gia đình
thường được gọi là con Sen, thằng Mới. Họ bị xã hội coi thường và bị đối xử phân biệt ví dụ
như họ sẽ không được ăn cùng mâm, quần áo mặc lại đồ thừa từ gia chủ (2010, GFCD). Gia
chủ của họ thường là những người rất giàu có và có địa vị nhất định trong xã hội. Nhưng
những năm gần đây, khi điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, chất lượng đời sống ngày càng
được nâng cao, cùng với áp lực công việc, rất nhiều gia đình ở thành phố đã có nhu cầu cần
người giúp việc trong nhà. Theo Trung tâm Dự báo và Thông tin thị trường lao động Quốc gia
dự đoán, số lượng việc làm liên quan tới GVGĐ sẽ tăng từ 157.000 người năm 2008 lên tới
246.000 người vào năm 2015. Nghề giúp việc gia đình mang đặc trưng về giới với quan niệm
của xã hội những công việc chăm sóc, dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng, giặt giũ là công việc của
phụ nữ. Theo nghiên cứu có đến 98,7% NGV là phụ nữ(ILO & GFCD). Tác giả Ngô Thị
Ngọc Anh trong cuốn “Một số loại hình GVGĐ ở Hà Nội hiện nay và các giải pháp quản
lý”(2009) cho biết những phụ nữ làm nghề này có hoàn cảnh khó khăn ví dụ như cha mẹ già
yếu, bệnh tật, nghề nghiệp không ổn định, trình độ học vấn thấp; một số phụ nữ lớn tuổi
không có chồng, góa, ly thân, ly hôn (chiếm tới 20,7%). Họ quyết định di cư lên thành phố
làm nghề này với mong muốn tạo thêm thu nhập cho bản thân và gia đình.
Bên cạnh đó, môt trong những thách thức lớn nhất đó là đến nay ở Việt Nam Lao động
giúp việc gia đình ở Việt Nam (LĐGVGĐ) không được xem là một nghề thực sự. Trong danh
mục các nghề, LĐGVGD vẫn chưa được đưa vào văn bản. Cho đến nay, xã hội vẫn có quan
niệm cho rằng GVGD là một công việc không có kỹ năng, không cần và đòi hỏi trình độ và
những công việc này là môt phần trách nhiệm của phụ nữ. Đây là công việc vốn thuộc về
người vợ, người mẹ từ trước đến nay không được trả công, không được coi trọng, ghi nhận và
đặc biệt không thuộc về nền kinh tế sản xuất. Điều này dẫn đến việc không coi LĐGVGĐ là
một công việc chính thức thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động (Ngô Thị Ngọc
Anh).
Bạo lực đối với phụ nữ làm nghề giúp việc
Vấn đề bạo lực và cưỡng bức lao động đối với người giúp việc đang là một vấn đề gây
chú ý quan tâm của toàn dư luận trong những năm gần đây; đặc biệt là qua các phương tiện
truyền thông đại chúng như báo chí, internet, những vụ việc về người giúp việc bị bạo lực đã
được cập nhật và thông tin đến dư luận. Có những vụ việc đặc biệt mang tính chất nghiêm
trọng.Một trong những vụ việc điển hình là trường hợp bạo lực của bà Trần Thị Tuyết Minh
(Trú tại Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội) đối với người giúp việc bà Phạm Thị Phương đã khiến dư
luận bàng hoàng và phẫn nộ. Người giúp việc (NGV) ở trong trường hợp này đã bị ngược đãi
và hành hạ bằng những hành vi thiếu nhân tính, vi phạm nhân quyền: dội nước sôi vào người,
phải ăn sống 20 quả ớt….cùng những đe dọa về mặt tinh thần. Đây chỉ là một trong những
trường hợp bao lực đã được báo chí đưa tin, chắc chắn rằng trên thực tế số lượng phụ nữ làm

Trư ng Đ i h c Thăng Long

246

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

nghề giúp việc bị bạo lực nhiều hơn nhưng vì có nhiều lí do nên những vụ việc đó chưa được
công chúng biết đến.
Tổ chức lao động quốc tế ILO đã đưa ra 11 chỉ số về cưỡng bức lao động, trong đó có
những chỉ số cho thấy người lao động bị bạo lực trên cơ sở giới:Bị cô lập; Bạo lực thân thể và
lạm dụng tình dục, dọa nạt, đe dọa, Giữ giấy tờ tùy thân,Giữ tiền lương; Lệ thuộc vì nợ; Điều
kiện sống và làm việc bị lạm dụng;Làm thêm giờ quá quy định. Cũng theo nghiên cứu của
ILO, NGV phải đối mặt với nhiều rủi ro, trong đó:
- 20,2% NGV bị mắng chửi;
- 2,4% NGV bị đánh đập/tát, đẩy ngã;
- 0,8% NGV bị đe dọa/đập phá đồ dung cá nhân;
- 7,8% NGV bị giữ giấy tờ tùy thân;
- 4% NGV bị cấm tiếp xúc;
- 1,8 NGV bị giữ lương;
- 2% NGV không được cho về thăm nhà;
- 16% NGV gặp nguy cơ bị lạm dụng tình dục
(Theo nghiên cứu của ILO, 2011 tại Hà Nội và tp. Hồ Chí Minh
Từ nghiên cứu trên có thể thấy NGV phải chịu đựng cả 4 loại hình bạo lực điển hình.
Đó là bạo lực thể xác, bạo lực kinh tế, bạo lực tinh thần và bạo lực tình dục. Trong đó có
những vụ việc người giúp việc phải chịu ít nhất một loại bạo lực, nhiều người chịu đựng cùng
một lúc nhiều loại bạo lực khác nhau, thông thường thì các loại bạo lực thường đi cùng với
nhau. Ví dụ bạo lực thể xác đi kèm với bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục đi kèm với bạo lực
thể xác và bạo lực tinh thần.
Liên quan đến trường hợp người giúp việc bị bạo lực, theo nghiên cứu của ILO và một
số tổ chức khác (2011) điều đáng nói là ở Việt Nam, một số trường hợp lao động giúp việc
gia đình (LĐGVGĐ) bị đánh đập, ngược đãi suốt một thời gian dài nhưng các cơ quan chức
năng không hề hay biết để có các biện pháp can thiệp cho đến khi báo chí đưa tin. Qua các
nghiên cứu và báo cáo có thể cho thấy tình trạng người giúp việc là nữ bị bạo lực và đối xử
phân biệt tại các gia đình là một vấn đề đáng chú ý và cần có những can thiệp sớm của chính
quyền và pháp luật. Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra đâu là những nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng NGV nữ bị bạo lực và phân biệt đối xử?
Tính dễ tổn thương của người làm nghề giúp việc
Trong cuốn “Luật quốc tế về quyền của nhóm người dễ tổn thương” (2011) đã nêu
định nghĩa về nhóm dễ bị tổn thương, đó là “Nhóm người có vị thế yếu về chính trị, kinh tế
hoặc xã hội thấp hơn đa số, khiến họ có nguy cơ cao bị bỏ quên hoặc vi phạm quyền”. Cũng
theo luật này, một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương bao gồm “phụ nữ, trẻ em,
người khuyết tật, người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người
không quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo”. Như
vậy có thể thấy, trong trường hợp người giúp việc, họ vừa là phụ nữ, lại vừa là những người
phụ nữ di cư. Theo lý thuyết về tính giao thoa trong xã hội (intersectionity), điều này có nghĩa
phải đặt họ trong mối quan hệ giao thoa giữa các hình thức bị phân biệt đối xử, là phụ nữ, phụ
nữ di cư, phụ nữ có trình độ học vấn thấp để thấy hết được tính dễ bị tổn thương và cũng dễ bị
áp bức của họ. .

Trư ng Đ i h c Thăng Long

247

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

Phần viết này sẽ tập trung vào phân tích tính dễ tổn thương của người làm nghề giúp
việc dưới hai yếu tố tác động chính: yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong. Đây chính là những
yếu tố dẫn đến nguy cơ NGV bị bạo lực và bị đối xử phân biệt trong môi trường làm việc.
Liên quan đến tác động bên ngoài, có thể thấy môi trường làm việc của người giúp
việc là một trong những yêu tố đáng lưu ý đối với vấn đề phân biệt đối xử và bạo lực với
người giúp việc. Những người này hầu hết đều làm tại các gia đình, không gian làm việc của
họ bị giới hạntrong phạm vi gia đình nhà chủ. Thời gian của họ hầu hết ở trong không gian
gia đình, họ không có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với môi trường bên ngoài.Họ hầu như không
có các mối quan hệ xã hội. Đối với những người giúp việc có quê xa, việc giữ thông tin liên
lạc giao tiếp với người thân ở quê cũng không được duy trì thường xuyên. Bên cạnh đó, sự
khác biệt về lối sống, văn hóa và cách thức sinh hoạt với môi trường đô thị cũng là một yếu tố
khiến những người giúp việc gần như bị cô lập trong không gian hỏ hẹp của gia đình nhà chủ.
Vì thế “nguy cơ gặp phải những rủi ro như bị bạo lực, ngược đãi, quấy rối tình dục của NGV
không nhỏ, đang ở tình trạng báo động“ (GFCD 2013)
Bên cạnh tác động bên ngoài là môi trường, yếu tố bên trong bao gồm tâm lý và trình
độ nhận thức của người giúp việc cũng là một yếu tố đáng xem xét khi phân tích tính dễ bị tổn
thương của phụ nữ làm nghề giúp việc. Theo nghiên cứu hầu hết những người giúp việc đều
có tâm lý tự ti, mặc cảm về nghề của mình nên họ thường dấu giếm và không muốn chính
quyền địa phương cũng như chính quyền nơi họ làm biết được công việc của mình. Tâm lý
này một phần là do những tác động và kỳ vọng của xã hội về nghề nghiệp. Từ xưa, nghề đi
làm thuê, làm mướn, ăn đậu ở nhờ vốn đã không được coi trọng và ghi nhận. Những người đi
làm thuê thường có tâm lý mặc cảm và tự ti về nghề nghiệp của mình, và xã hội thường không
coi trọng những người như vậy. Ngày nay, xã hội đã có cái nhìn khác về nghề giúp việc,
nhưng rất nhiều người đi làm nghề giúp việc vẫn có tâm lý mặc cảm tự ti bên trong. Điều
đáng nói là, bên cạnh những trở ngịa về tâm lý, còn có những trở ngại về pháp lý. Hầu hết
người lao động giúp việc thiếu sự hiểu biết về những pháp luật liên quan đến công việc củ họ.
Theo như điều tra của trung tâm GFCD 2013, có đến 70% NGV chưa biết đến những quy
định của pháp luật liên quan đến LĐGVGĐ. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng
trên chính là do trình độ học vấn và nhận thức của NGV còn nhiều hạn chế. Chính vì điều này
mà họ cũng không biết được những quyền cơ bản của mình, không biết yêu cầu gia chủ đảm
bảo những quyền lợi cho bản thân mình. Đây cũng là lí do mà quyền của người giúp việc bị vi
phạm nhưng họ không biết để bảo vệ quyền của mình.
Vai trò của công tác xã hội với phụ nữ làm nghề giúp việc
Công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay đang có xu hướng phát triển nhanh, mạnh và
theo xu hướng ngày càng chuyên nghiệp để “thúc đẩy sự thay đổi của xã hội, giải quyết vấn
đề trong các mối quan hệ con người, tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cuộc
sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu….Nhân quyền và công bằng là các nguyên tắc căn
bản của nghề nghiệp công tác xã hội” (IFSW, 2000). Công tác xã hội có 4 chức năng cơ bản:
chức năng trị liệu, chức năng phòng ngừa, chức năng phục hồi và chức năng phát triển.
Trong khuôn khổ bài viết này, vai trò của chức năng phòng ngừa và chức năng phát
triển sẽ được phân tích trong việc hỗ trợ nhóm phụ nữ làm nghề giúp việc bị bạo lực gia đình.
Theo tác giả Lê Hải Thanh (2011), chức năng phòng ngừa trong công tác xã hội được thông
qua việc cung cấp các dịch vụ, tiến hành những hoạt động ngăn ngừa…có thể xảy ra đối với
cá nhân hay nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Trong trường hợp cụ thể đối với nhóm phụ nữ di
Trư ng Đ i h c Thăng Long

248

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

cư làm nghề giúp việc, công tác xã hội có thể tác động trực tiếp tới hai nhóm chính: nhóm
những bên liên quan tại địa phương của người giúp việc và nhóm các bên liên quan đến nơi
mà người giúp việc sinh sống. Liên quan đến nhóm thứ hai, công tác xã hội có thể tác động
trực tiếp đến chính quyền khu vực người giúp việc đến làm, hội phụ nữ phường nơi NGV làm
việc và những gia đình có thuê lao động nữ giúp việc.Đối với nhóm chính quyền khu vực,
công tác xã hội có thể cung cấp các chương trình nhằm trang bị những kiến thức về pháp luật
và quy định về quyền lợi của NGV để họ có thể hiểu và can thiệp trực tiếp và kịp thời nếu
quyền của NGV nơi địa bàn họ quản lý bị vi phạm, đặc biệt là khi phát hiện các trường hợp
NGV bị gia chủ đối xử qua các hình thức bạo lực đã đề cập ở phần trên. Những kiến thức liên
quan đến pháp luật và quy định về quyền lợi này của NGV cũng cần được trang bị cho những
gia đình có người lao động giúp việc để họ tôn trọng, thực hiện và không xâm phạm đến
quyền của NGV. Đối với Hội phụ nữ phường nơi NGV làm việc, vai trò của công tác xã hội
có thể được thể hiện qua việc thúc đẩy hội phụ nữ “tổ chức hoặc thiếp lập những đường dây
nóng để cung cấp, chia sẻ kiến thức pháp luật, kỹ năng tự bảo vệ cho NGV cũng như để NGV
trao đổi, chia sẻ thông tin là cần thiết” (GFCD, 2013). Hội phụ nữ nơi người giúp việc sinh
sống đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt và cập nhật tình hình đời
sống của phụ nữ tại địa bàn nói chung cũng như những người phụ nữ làm NGV nói riêng. Hội
phụ nữ có thể tổ chức những hoạt động sinh hoạt định kỳ theo tháng hoặc quý giữa nhóm phụ
nữ gia chủ với nhau, nhóm phụ nữ là NGV và giữa nhóm gia chủ và nhóm phụ nữ là NGV
trong địa bàn của mình để giúp họ chia sẻ, trao đổi, học tập, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, nhu
cầu, quyền lợi cũng như trách nhiệm của các bên. Các buổi sinh hoạt, gặp gỡ này có thể được
diễn ra trong hình thức và không khí thân thiện, cởi mở và an toàn để tất cả đều có cơ hội chia
sẻ. Liên quan đến nhóm thứ nhất, công tác xã hội cũng cần có những tác động tương tự, phù
hợp đến chính quyền địa phương của người di cư giúp việc, đến hội phụ nữ và chính bản thân
những phụ nữ di cư làm nghề giúp việc tương tư như nhóm thứ 2.
Chức năng phát triển của công tác xã hội là “nhằm phát huy tiềm năng, tăng cường
năng lực vượt khó, nâng cao chất lượng sống và tăng cường trách nhiệm xã hội cho các nhóm
thân chủ, hướng họ tới cuộc sống an sinh với các giá trị nhân phẩm đẩy đù” (Lê Hải Thanh,
2011). Với chức năng phát triển của công tác xã hội đối với nhóm phụ nữ di cư làm nghề giúp
việc, việc xây dựng các chương trình liên quan đến việc trang bị kiến thức và kỹ năng sống,
kỹ năng làm nghề giúp việc cho phụ nữ di cư tại địa phương đóng một vai trò vô cùngquan
trọng. Có thể thấy, NGV hầu hết đến từ các vùng quê, chính vì vậy, thời gian đầu họ sẽ gặp
rất nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với môi trường mới, đặc biệt là môi trường thành thị.
Họ gặp khó khăn trong sự khác biệt về văn hóa, lối sống giao tiếp và cách thức sinh hoạt.
Chính vì vậy, việc trang bị những kiến thức cơ bản liên quan đến những vấn đề nêu trên rất
quan trọng để giúp đỡ và hỗ trợ NGV hòa nhập nhanh hơn với môi trường mới và phát huy tối
đa được khả năng của mình; hạn chế việc NGV cảm thấy biệt lập, cô đơn điều mà ảnh hưởng
đến tâm lý cũng như chất lượng và hiệu quả công việc. Bên cạnh đó, những khóa tập huấn
liên quan đến quyền và kiến thức về những quy định cho người làm nghề giúp việc gia đình
cũng cần được phổ biến cho phụ nữ, để từ đó họ hiểu được quyền lợi, trách nhiệm cũng như
kỹ năng tự bảo vệ khi quyết định đi di cư làm nghề giúp việc gia đình.
Như vậy, thông qua việc phân tích một số chức năng cụ thể của công tác xã hội có thể
thấy được vai trò của công tác xã hội đối với nhóm phụ nữ di cư làm nghề giúp việc qua các
khía cạnh các khác nhau, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc bảo vệ quyền lợi của nhóm.
Hiện nay, trên thực tế, việc hỗ trợ can thiệp của nhân viên công tác xã hội đối với nhóm phụ
Trư ng Đ i h c Thăng Long

249

nguon tai.lieu . vn