Xem mẫu

  1. KHOA HỌC XÃ HỘI CON NGƯỜI ÁI KỈ VÀ NHÂN VẬT BI KỊCH TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Trường Đại học Hùng Vương TÓM TẮT Khi ý thức về con người cá nhân bùng phát, cũng là lúc ái kỉ trở thành một trạng thái phổ biến. Trạng thái này gắn với nhiều kiểu nhân vật, có nhiều biểu hiện phong phú trong truyện ngắn. Nhân vật bi kịch là một kiểu nhân vật điển hình thể hiện rõ nhất trạng thái thiếu lòng tin, dị biệt trong hành vi tự thỏa mãn - một biểu hiện điển hình của ái kỉ. Từ khóa: con người cá nhân, ái kỉ, truyện ngắn 1. Đặt vấn đề một cách vô điều kiện các ước vọng; Tận dụng những Con người ái kỉ là một khái niệm phức tạp. Theo từ mối quan hệ để phục vụ các mục tiêu bản thân; Thiếu điển Tâm lí học, ái kỉ là một “loại bệnh xuất hiện do sự sự đồng cảm, không nhận thức và chia sẻ tình cảm, đam mê tình dục (libido) hướng vào cái Tôi (nói cách nguyện vọng của người khác; Luôn đố kỵ với người khác là yêu chính bản thân mình)”. S. Freud khẳng khác và tin rằng người khác cũng sẽ đố kỵ mình; Có định: căn bệnh này có liên quan đến chứng hoang thái độ, hành vi kiêu căng… tưởng bộ phận (Paraphrenia và paranoia). “Những Nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của trạng thái này dấu hiệu đặc trưng của bệnh này là hoang tưởng cao không giống nhau. Trong thời kỳ hiện đại, do những và mất đi sự hứng thú đối với thế giới, với mọi người và tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, những thay với sự vật”; “đa nghi, hoang tưởng trong các mối quan đổi chóng mặt của đời sống hiện đại, sự giao lưu các hệ, quan niệm cố định, xét đoán nghiêm khắc, thích nền văn hóa đông tây, thậm chí xuất phát từ bi kịch cá sự diễn giải hoang tưởng” [3; 10]. Ái kỉ (Narcissism) nhân, con người cũng dễ rơi vào ái kỉ, từ mức độ nhẹ - trong tiếng Anh là sự vị kỷ, hợm hĩnh, tự phụ, ích cho tới bất thường. kỷ.Từ narcissism cũng có nguồn gốc từ thần thoại Hy lạp. Chuyện kể về chàng trai trẻ Narcissus, con trai 2. Nhân vật bi kịch trong truyện ngắn Việt Nam sau của thần sông Cephisus và nữ thần Lyriope do quá 1975 và trạng thái thiếu lòng tin; dị biệt trong hành vi say đắm chính mình nên đã lao xuống sông tự tử. Cái tự thỏa mãn tên Narcissus sau này đã được dùng để chỉ hội chứng 2.1. Nhân vật bi kịch Narcissism - Hội chứng tự yêu thái quá. Freud nhấn Nhân vật bi kịch xuất hiện từ rất sớm trong những mạnh: Trong bất kỳ người nào cũng có một lượng bi kịch Hi Lạp cổ đại, từ khoảng thế kỉ V trước công narcissism nhất định, tuy nhiên có một ngưỡng giới nguyên, khi bi kịch là một thể loại sân khấu thịnh hạn. Vượt qua ngưỡng đó, ta có rối loạn nhân cách tự hành. Theo lịch sử văn học, bi kịch đã không ngừng yêu mình (narcissistic personality disorder). biến đổi về nội dung và hình thức để đáp ứng nhu cầu Như vậy, con người ái kỉ được hiểu là con người “tự thẩm mĩ của công chúng trong các thời đại. Vào thế yêu mình”. Con người ấy luôn luôn tự đề cao bản thân, kỉ XVI, XVII, bi kịch phát triển khá thịnh hành ở các ngưỡng mộ mình (tới mức thái quá). Khát vọng thỏa nước châu Âu. Các nhân vật bi kịch thời kỳ này đã để mãn khiến họ dễ đố kị, ganh ghét hoặc dễ trở nên kiêu lại dấu ấn sâu đậm về một thời trung cổ trì trệ, tù túng, căng, tự phụ. Với những ẩn ức không được người xung khủng hoảng dữ dội. quanh thỏa mãn, họ mất niềm tin, thiếu sự cảm thông, Ở Việt Nam, không có bi kịch như một thể loại văn đồng cảm. Người ái kỉ nhiều khi tự thỏa mãn chính học - sân khấu theo quan niệm cổ điển. Tuy nhiên, mình trong “cơ chế” tự yêu. ngay trong hệ thống truyện cổ (Trọng Thủy - Mị Châu; Biểu hiện của ái kỉ khá phức tạp: Tự cao tự đại về Trương Chi; Hòn Vọng Phu) cũng đã xuất hiện nhân tầm quan trọng của mình; Ảo tưởng về sự thành đạt, vật với yếu tố bi kịch. Về sau, Truyện Kiều, Chinh phụ quyền lực; Tin tưởng rằng mình là người đặc biệt và ngâm, Cung oán ngâm khúc cũng ít nhiều chứa đựng duy nhất; Thèm muốn mãnh liệt được ngưỡng mộ; yếu tố bi và nhân vật mang hình dáng bi kịch. Nửa đầu Nghĩ phải được phục vụ một cách đặc biệt và thỏa mãn thế kỉ XX, thấp thoáng một vài tác phẩm biểu hiện Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015 63
  2. KHOA HỌC XÃ HỘI yếu tố bi (Tố Tâm - Hoàng Ngọc Phách; Lão Hạc, Chí bình dị không thực hiện được. Cô gầy mòn vì “khao Phèo - Nam Cao; Kép Tư Bền, Người ngựa ngựa người khát một sự xáo đổi, một tiếng động vang lên trong - Nguyễn Công Hoan…). Những tác phẩm này đã xây căn buồng lạnh lẽo trống trải”. Có lúc Mai Hiên nghi dựng được các nhân vật có ý thức sâu sắc về nỗi đau hoặc lẽ sống và bi kịch của chính mình: “Lẽ nào tôi của mình. Không ít nhân vật trong số họ đã phải tìm không ở trong quy luật của muôn vàn sinh linh cây đến cái chết thương tâm để giải thoát khỏi nỗi khổ. cỏ?”. Cô từng tỉnh táo để biết “mình ao ước có bên Văn học giai đoạn 1945 - 1975, gần như vắng bóng cạnh một người đàn ông vững vàng… che chở cho cái bi trong sáng tác mặc dù chiến tranh luôn đi liền mình”. Nhưng chị không thể vượt qua cảm giác bị “sỉ với những mất mát, đau đớn nặng nề cả về vật chất nhục” khi một người đàn ông tầm thường yêu. Cũng lẫn tinh thần. Tuy nhiên, chữ Bi như một thứ kiêng kị chính cái sự cứng nhắc này đã khiến chị ngã vào vòng (mà nguyên nhân sâu xa chính là nằm trong ý thức, tư tay Thi Phát - một người đàn ông mà chị cho là tầm tưởng của người sáng tác gắn với yêu cầu thời đại và thường nhất. Để rồi sau cái đêm định mệnh ấy, người nguyên tắc thẩm mĩ của phương pháp sáng tác hiện đàn bà tìm đến cái chết, kết thúc tấn bi kịch cô độc, thực xã hội chủ nghĩa). Nhân vật bi kịch vì vậy không rũ bỏ “vết nhơ” trong cuộc đời mình. Do quá duy lý có cơ hội để xuất hiện. Sau 1975, trong hoàn cảnh lịch trong quan niệm về cái “thánh thiện”, Mai Hiên đã rơi sử mới với quan điểm phát triển văn hóa mới, cái bi vào bi kịch thảm thương đau đớn nhất. Người đàn bà có cơ hội phục hưng - đúng với bản chất của nó. Yếu trong Bốn mươi chín cây cơm nguội cũng là một “biến tố bi kịch, những mặt trái vốn có của đời sống xã hội thể” tương tự. Bốn mươi tuổi, trở về từ chiến tranh, chị - con người xuất hiện khá đậm đặc trong văn học. Và mất hết cơ hội làm vợ, làm mẹ. Những người đàn ông thật khác so với những nhân vật trong bi kịch cổ điển, yêu chị, chị yêu đã lần lượt ra đi mãi mãi. Chị “lạc lõng, “thường là những nhân vật anh hùng với ý nghĩa tích vô duyên” giữa những cô gái trẻ. Chị đã từng tưởng cực cao cả”, nhân vật bi kịch trong văn xuôi hiện đại đa tượng ra “một triệu chàng trai đẹp đang lẽo đẽo theo số là con người của đời thường, mang trong mình nỗi sau lưng” mình… cho thỏa cơn khát một mái ấm. Hơn đau, sự thất vọng, nỗi ê chề khó giải thoát. Bi kịch gắn thế, trong lúc cô độc nhất, chị đã tì ngực, áp má vào gốc liền với tính cá thể hóa, giống như kiếp người trong cây cơm nguội, coi đó là bộ ngực vạm vỡ đàn ông, đắm cuộc sống nhiều dạng, vẻ: bi kịch thân phận, bi kịch đuối tìm cảm giác về một nụ hôn “mát rượi và ram ráp” gia đình, bi kịch huyết tộc, dòng họ, bi kịch lầm lẫn. Bi mà chị chưa bao giờ có. Đó là bi kịch đau đớn nhất của kịch không loại trừ một ai và trong mỗi bi kịch, nhân sự “tự yêu” đối với người đàn bà trở về từ chiến tranh, vật bị đẩy tới tận cùng đau khổ. Truyện ngắn cũng một trạng thái đặc biệt của ái kỉ. không là một ngoại lệ khi phản ánh nội dung này. Không phải chỉ những con người trở về từ cuộc 2.2. Nhân vật bi kịch và trạng thái thiếu lòng tin, chiến mới rơi vào bi kịch mất niềm tin, hoài nghi và dị biệt trong hành vi tự thỏa mãn có hành vi “tự yêu” mình một cách dị biệt. Y Ban xoáy Gắn với nhân vật bi kịch, trạng thái ái kỉ khá điển sâu vào bi kịch của người đàn bà đời thường trong khát hình - trạng thái thiếu lòng tin và sự dị biệt trong hành vọng hạnh phúc, khát vọng yêu thương và dâng hiến. vi tự thỏa mãn - được thể hiện tương đối đậm đặc So với những chuẩn mực đạo đức và những mặc định trong nhiều trang viết. Trước hết, xin được nói về bi đặt ra trong xã hội đầy định kiến, họ dễ bị chê trách, kịch người lính thời hậu chiến. Mang theo hào quang phỉ báng và luôn cô đơn (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người chiến thắng và cả những đau thương mất mát, người đàn bà có ma lực, Ai chọn giùm tôi, I am đàn bà, Tự, lính không dễ gì hòa nhập với cuộc sống thời bình đa Cuộc tình Silicon…). Tự phản ánh bi kịch của cặp vợ chiều, phức tạp. Họ dở dang trong niềm tin, hoài nghi chồng trẻ sau biến cố “yêu nhau” trong ngôi nhà chật. các giá trị, cô đơn trong hồi ức và đổ vỡ trước hiện Cả gia đình lớn bé gần mười con người đều tập trung thực tàn nhẫn. Nhiều người trong số họ đã không còn vào diện tích chưa đầy ba mươi mét vuông của căn hộ cơ hội có được cuộc sống gia đình. Nỗi đau mất mát, tập thể, “bốn góc nhỏ có bốn tiểu gia đình”. Đó chính là niềm kiêu hãnh về quá khứ đáng tôn thờ, sự khát thèm nguyên nhân tạo ra biến cố đau đớn cho cặp vợ chồng hạnh phúc đời đàn bà, những hoài nghi hiện thực… trẻ không có không gian để yêu nhau. Ông anh trai đôi khi khiến họ có hành vi khác thường, thậm chí tự giết chết chính mình. Hàng loạt truyện ngắn: Mai người chồng từ đâu xuất hiện giữa lúc đôi lứa thăng Hiên ngông cuồng (Nguyễn Thị Anh Thư); Bốn mươi hoa nhất. Sự tủi hổ, bẽ bàng khiến cho tất cả mọi thứ chín cây cơm nguội (Nguyễn Quang Lập); Nước mắt đỏ đều chấm hết kể từ đó. Anh không còn khả năng mang (Trần Huy Quang); Người còn sót lại của rừng cười (Võ lại hạnh phúc ái ân cho chị. Dù kinh tế khá giả dần. Thị Hảo)… thể hiện rõ điều đó. Mai Hiên (Mai Hiên Dù họ đã ra ở riêng với một căn hộ mới. Dù tình yêu ngông cuồng) là một nữ chiến sĩ trở về từ chiến tranh, vẫn đong đầy. Một ngày anh bỏ đi và mãi mãi chẳng vẫn mang trong mình niềm tự hào về cuộc chiến cùng trở về. Chị cô độc giữa những người đàn ông xắng xở nhiều mất mát và không thể hòa nhập cuộc sống hiện khát thèm. Chị thực sự không muốn trở thành món tại. Ước vọng về một người chồng tốt, một gia đình hàng, bị tận dụng như một sự trao đổi. Chị “thương 64 Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015
  3. KHOA HỌC XÃ HỘI thân mình cháy ruột” và cũng muốn cao ngạo trong ông đều được xâu vào chuỗi “thành tích” của người những ánh mắt khát thèm kia. Chị có thể tự đem lại đàn ông không còn tin vào chữ tình này. Ông quyến rũ cảm giác sung sướng cho chính bản thân mình mà họ rồi nhanh chóng bỏ rơi họ. Kể cả người đàn bà yêu không cần đối tác - những người đàn ông chỉ biết sống ông một cách đau đớn, bỏ cả lòng tự trọng vì ông như bằng cái vỏ hào nhoáng. “Công nghệ máy móc” thời Sương cũng không làm cõi lòng kia hồi lại chút con hiện đại, những “cái chim giả” sẽ giúp chị. Chị định “tự người. Út Vũ đã nhìn Sương bằng con mắt của con sói lực” giải quyết “vấn đề”. Cái chính là cái sự “tự” ấy sẽ được trả thù. Sương cũng chỉ là một phần hóa thân của giúp chị ngẩng cao đầu, “bảo toàn được những sự tốt người vợ phản bội. Song “Càng gieo rắc càng đau. Vết đẹp cho những người đàn ông dân tộc”. Từ chỗ mong thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có muốn tự mình khỏa lấp những ẩn ức nhục dục, từ chỗ thể lấp đầy”. Sự trả thù và nỗi lòng hả hê đầy nước mắt không thể tìm thấy sự tin tưởng và tình yêu đối với ấy chính là một biểu hiện của ái kỉ - một “căn bệnh” một người đàn ông khác, chị đã rơi vào ái kỉ. Tự giải thật sự khó chữa khi người ta trượt dài trong trạng quyết những xung lực dục tình dồn nén để không cần thái hận - thù - ghét - bỏ - hoang hoải - chán chường. tìm đến bất kỳ một người đàn ông vụ lợi nào khác, chị Nó cũng là kết quả của sự mất lòng tin vào tình yêu bước đầu thỏa mãn. Nhưng sâu thẳm, nỗi đau của đời con người. đàn bà thật không dễ gì thấu được. Nhân vật nữ trong Người đàn bà đứng trước gương cũng rơi vào bi kịch tự 3. Kết luận “khoái” vì những khát vọng được sống cho riêng mình. Thiếu lòng tin, dị biệt trong hành vi tự thỏa mãn Nàng thường dùng tấm gương mờ ảo để thưởng thức chính là một trong những biểu hiện đầu tiên của chứng hình thể. Nàng “yêu” mình qua tấm gương mờ, tự mãn ái kỉ. Biểu hiện này đa số xuất hiện khi con người rơi sâu sắc vì “sắc đẹp” và “tài năng”. vào bi kịch. Suy cho cùng, đó cũng là cách bày tỏ phản ứng đối với thế giới trong khi con người thiếu lòng tin Khi phản ánh bi kịch của con người tha hóa nhân hoặc rơi vào nỗi đau. Sự tự thỏa mãn xúc cảm, nhục cách, tự đánh mất mình, truyện ngắn sau 1975 cũng dục bằng mọi cách gắn với trạng thái tự tôn, tuy nhiên chỉ ra nguyên nhân của nó chính là trạng thái mất đó là những biểu hiện có nhiều chiều hướng tiêu cực. niềm tin, hoài nghi vào tình yêu, hạnh phúc. Trạng Mặc dầu vậy, không thể phủ nhận, sự xuất hiện thái này được khắc họa khá nổi bật trong Cánh đồng của con người ái kỉ trong văn học giai đoạn mới đã bất tận, Gió lẻ (Nguyễn Ngọc Tư), Tôi, anh, thằng bé và góp phần thể hiện sự “phục sinh” của ý thức cá nhân con rắn (Y Ban), Chọn chồng (Ma Văn Kháng), Bóng một cách mạnh mẽ trong văn học giai đoạn sau 1975. đè, Dòng sông hủi (Đỗ Hoàng Diệu)… Tiêu biểu là Út Với ý thức sáng tạo tự giác và cái nhìn nhân bản, văn Vũ trong Cánh đồng bất tận. Nỗi đau mất vợ đã biến học đã thực hiện được chức năng ưu việt của nó khi thành sự hận thù khôn nguôi đối với đồng loại. Hai khai thác và tiếp cận với con người trong tính đa chiều, chữ trả thù khiến ông rơi vào bi kịch không đáy hoang biện chứng. hoải của người đàn ông không còn lòng tin trên “cánh đồng bất tận”. Trong sâu thẳm, người đàn ông cô đơn. Tài liệu tham khảo Nỗi cô đơn này thật khủng khiếp khi nó biến thành [1] Phạm Tuấn Anh(2009), Sự đa dạng thẩm mĩ của văn sự lạnh lùng tàn độc. “Con sói” cô độc đó đã trả thù. xuôi Việt Nam sau 1975, Luận án TS Ngữ văn, Đại học Sư Quan trọng hơn, “nó” tự ve vuốt nỗi cô đơn và nỗi đau phạm Hà Nội của chính mình mỗi khi “tiêu diệt” được một “con [2] Nguyễn Minh Châu (5/12/1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa, Báo Văn nghệ (49-50). mồi”. Tất cả những người đàn bà Út Vũ dày công chinh [3] Vũ Dũng (Cb) (2008), Từ điển Tâm lí học, NXB Từ điển phục lẫn những người đàn bà hiến thân lặng lẽ cho Bách khoa. SUMMARY NARCISSISM AND TRAGIC CHARACTER IN POST-1975 VIETNAMESE SHORT STORIES Nguyen Thi Thuy Hang Faculty of Social Sciences and Humanity When the concept of an individual human being arises, it is the right time for narcissism to grow popular. This state is manifested in many types of characters especially the tragic one who losses their belief in life with their self- satisfactions - a form of narcrissism. Keywords: individual human being, narcissism, short stories. Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015 65
nguon tai.lieu . vn