Xem mẫu

  1. Phạm Thị Minh Trang Lớp : BBA5LT CHUYỆN VỀ CUỘC SỐNG GIẢN DỊ, TIẾT KIỆM CỦA BÁC HỒ Chuyện về những bữa cơm của Bác Hồ. Phong cách sinh hoạt giản dị, thanh cao, ghét thói xa hoa, lãng phí c ủa Ch ủ t ịch Hồ Chí Minh được nhân dân Việt nam và nhân dân th ế gi ới ng ưỡng m ộ. M ột tác giả nước ngoài đã viết rằng: Cuộc sống giản dị của Ch ủ t ịch H ồ Chí Minh và sự gần gũi với nhân dân là đặc trưng cho tình yêu đ ối v ới đ ất n ước c ủa m ột Con Người đã trở thành huyền thoại ngay trong cả cuộc s ống đ ời th ường c ủa mình. Một trong những yếu tố góp phần làm nên huyền tho ại ấy b ắt đầu t ừ điều vô cùng bình thường nhất, đó là những bữa ăn của vị Chủ tịch nước. Ngày mới giành chính quyền năm 1945, Bác làm vi ệc tại Bắc B ộ Ph ủ trong căn phòng nhỏ trên gác hai. Bác được cấp mỗi tháng 200đ cho việc ăn uống. T ới gi ờ ăn, Bác đ ến ăn tại bếp tập thể cùng anh em. Bữa ăn của Bác đạm bạc, thường chỉ có một miếng cá nhỏ, một bát canh, vài quả cà, mấy cọng dưa, dăm lát ớt và miệng bát cơm. Ngày 10/4/1946, giữa lúc đất nước bộn bề công việc, Bác về thăm Ninh Bình để dàn xếp vấn đề đối nội, đặc biệt là tôn giáo,. Kho ảng 8h, khi xe Bác đ ến th ị xã, nhân dân ùa đến, vẫy cờ, hô khẩu hiệu đón Bác. Anh em trong Uỷ ban khẩn kho ản m ời Bác ở l ại nghỉ cho đỡ mệt và ăn tối, nhưng Bác nói: “Hàng ngàn đ ồng bào ch ờ Bác ngoài kia, Bác không thể nghỉ ở đây để ăn cơm vì 9h tối Bác đã có vi ệc ở Ch ủ t ịch ph ủ. Bây gi ờ các chú giúp Bác: một chú ra tập hợp đồng bào vào m ột ngã t ư r ộng g ần đây đ ể Bác ra nói chuyện với đồng bào mươi phút; một chú ra cửa hàng bánh mua cho Bác m ột c ặp bánh giò. Còn các chú đi với Bác thì tranh thủ ăn c ơm trước. Nói chuyện xong, Bác v ề Hà Nội ngay cho kịp hẹn. Trong xe, Bác sẽ ăn bánh vừa đỡ tốn kém, v ừa ti ết ki ệm thời gian cho Bác”. Sau đó Bác ra nói chuyện với đồng bào. Khá mu ộn, Bác v ẫy tay chào đồng bào rồi lên xe về Hà Nội. Xe đi được m ột quãng, Bác m ới b ắt đ ầu dùng bữa ăn tối của mình. Kháng chiến bùng nổ, Bác cùng các c ơ quan Trung ương và Chính ph ủ tr ở l ại Vi ệt Bắc. Những năm đầu, đời sống kháng chiến vô cùng kham khổ, Bác v ẫn ăn chung v ới anh em, bát ăn chỉ là ống bương cưa ra, thức ăn chủ yếu là măng, rau, cao c ấp nhất là thịt chim, sóc săn bắn hoặc đánh bẫy được đem kho mặn với muối để Bác ăn dần, thi thoảng tìm được con gà bồi dưỡng riêng cho Bác thì Người nói l ộc b ất khả t ận hưởng, rồi đem chia đều cho mọi người. Món ăn chủ lực của Bác và anh em vẫn là món thịt Việt Minh gồm: 1kg thịt + 1kg muối + 1 nửa kg ớt xào lên cho vào ống, đi đến đâu dùng cũng tiện. Khi tăng gia, chăn nuôi được nhiều, anh em xin ý ki ến, Bác đ ồng ý cho bỏ món thịt Việt Minh. Có lần, đoàn công tác c ủa Bác đi qua huyện Yên S ơn theo kế hoạch ghé vào một cơ sở để ăn trưa. Nhưng khi đến n ơi, thì nghe có ti ếng máy bay địch nên Bác bảo anh em đưa cơm ra bãi cỏ ở bìa rừng ngồi ăn thu ận ti ện h ơn. Hai
  2. đồng chí bảo vệ vào xóm bưng cơm lại mượn thêm chiếc chiếu của gia đình đồng bào ra ngồi. Lúc đặt mâm cơm xuống, Bác thấy có con gà luộc, đĩa cá và hai bát canh. Thấy thế, Bác không vui: “Các chú không nên mượn chiếu c ủa bà con làm phi ền đến dân”, ngừng một lát, Bác nói tiếp: “Trong khi nhân dân đang thắt l ưng bu ộc b ụng kháng chiến, mình ăn cơm thế này là ăn cơm “quan” đấy”. Nói rồi, Bác v ừa chia đôi tất cả các món ăn trên mâm. Bác bảo anh em đem m ột phần đã chia đ ưa vào bi ếu các gia đình nghèo trong xóm. Phần còn lại Bác lại chia làm đôi: Ch ỉ ăn m ột n ửa, còn m ột nửa gói dành cho bữa sau. Một lần khác đi công tác, m ấy Bác cháu đ ược b ố trí ăn c ơm ở nhà một cơ sở. Dạo đó thiếu thốn nên nồi cơm phải độn nhiều sắn, khoai. Vì thương Bác nên gia đình đã nấu thêm nồi c ơm gạo tr ắng và s ắp m ột mâm riêng. Khi vào bữa, Bác bưng bát cơm trắng, gắp thêm máy miếng thức ăn ngon đ ể m ời c ụ c ố đang ngồi bên bếp lửa gian trong, Bác nói rành rọt: “Cơm này là để dành cho người già nhất ăn”, rồi Bác lấy bát xới cho mình một bát cơm độn và cùng ăn với cả nhà. Trong rừng chiến khu đôi khi vẫn thiếu rau nhưng có nhiều mít, th ế là Bác bày cách cho ch ị cấp dưỡng làm món nhút ăn cho đỡ xót ruột. Bác còn chú ý c ả hình th ức trình bày đ ể bữa ăn tuy đơn giản nhưng ngon miệng. Một lần đi công tác, Bác cháu dừng bên b ờ suối nấu ăn, Bác bảo anh em nấu cơm để Người làm trứng rán. Bác làm rất thành thạo, khi trứng rán xong cơm chưa chín, Người lấy que sắt nung trên than hồng rồi đặt lên khoanh trứng tạo thành hình quả trám rất đẹp, thấy anh em trâm trồ, Bác nói: “Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn thì ta cứ làm chứ các chú!”. Cũng có d ịp đặc biệt như cuối năm 1953, quân và dân miền Nam thắng trận U Minh, Đồng Tháp Mười, Tây Nguyên, Bác quyết định mở tiệc khao quân với các món: Thịt gà lu ộc (đ ược ch ặt làm 20 miếng đều nhau vừa đủ số người trong cơ quan ), canh c ải xanh, rau mu ống xào tỏi, xôi nếp, cơm tẻ đều là sản phẩm cơ quan tăng gia. B ữa ti ệc xong, Bác b ỗng nói, giọng trầm xuống: “Hôm nay Bác cháu mình ngồi ở chiến khu Vi ệt B ắc ăn xôi với thịt gà mừng chiến thắng, thì quân và dân miền Nam đã 9 năm r ồi, k ể t ừ ngày 23/9/1945 không lúc nào ngơi tay súng chiến đấu với quân thù để bảo v ệ nên đ ộc l ập Tổ quốc, biết bao chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh anh dũng…”. M ọi người cùng l ặng đi khi thấy hai giọt nước mắt Bác lăn trên đôi má gầy sạm… Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bác trở về thủ đô Hà N ội ở t ạm trong ngôi nhà của người thợ điện, gọi là nhà 54. Bữa ăn hàng ngày c ủa Người v ẫn không c ầu kỳ, không cao lượng mỹ vị. 7h, bữa điểm tâm c ủa Bác thường là xôi ru ốc th ịt ho ặc bánh cuốn, bánh mỳ. Đến khoảng 9h. Bác uống m ột c ốc cà phê. 11h, Bác ăn c ơm tr ưa, trên mâm cơm của Người thường có bát canh nước trong, m ột món xào ho ặc th ịt lu ộc, cá quả hoặc cá bống kho gừng và không thiếu hương vị mi ền quê cà kho t ương ho ặc dầm đường ớt… bữa nào Bác cũng ăn đúng hai bát. Mỗi khi xong bữa, Người lại t ự tay xếp bát đĩa gọn ghẽ để bớt phần công vi ệc cho các đ ồng chí ph ục v ụ. Kho ảng 14h, Bác uống một cốc sữa. 17h30, Bác dùng cơm tối. 21h, Bác u ống m ột c ốc cà phê sữa cho tỉnh táo khi làm việc khuya. Có lần, đồng chí phục vụ đưa lên đĩa cá anh vũ - một loại cá quý thường chỉ có ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì). Bác bảo: “Cá ngon quá, thế mà chú Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) lại đi vắng ! Thôi, các chú đ ể đ ến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức”. Thấy Bác khen, anh em gửi ti ếp cá đ ến, nhưng thấy món cá hôm trước lại xuất hiện, Bác không hài lòng: “Bác có ph ải là vua đâu và phải cung với tiến?” rồi kiên quyết bắt mang đi, không ăn n ữa. Năm 1957, Bác thăm một số nước Đông Âu. Sau buổi tiệc do Đại sứ quán Vi ệt nam t ổ ch ức ti ết ki ệm
  3. và trang trọng, các món ăn không thừa, không thiếu, Người nói: “Ăn uống lãng phí, Bác xót xa lắm, vì đây là tiền bạc của nhà nước , của nhân dân. Bà con ta ở trong n ước làm đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mới có miếng mà ăn. Vì vậy để lãng phí, xa hoa là có tội với nhân dân”. Có lần ở Liên Xô, bạn chiêu đãi toàn những đặc sản, nhưng Bác lại ch ỉ nh ớ món cá bống kho lá gừng. Không để bạn phật ý, đồng chí th ư ký phải tr ổ tài tháo vát bằng cách giới thiệu với bạn một món cổ truyền Việt nam để nồi cá bống đ ược có mặt trong bữa ăn. Từ tháng 5/1958, Bác chuyển sang ở nhà sàn, nhưng hàng ngày, đúng gi ờ quy đ ịnh, Người trở về dùng bữa tại nhà ăn phía bên kia bờ ao, c ơm n ước xong, Người l ại đi b ộ trở về nhà sàn, dù thời tiết mưa to, gió lớn cũng vẫn vậy. Các đ ồng chí ph ục v ụ nhìn Bác xắn quần lội qua quãng đường ngập nước mà thương Bác vô cùng. M ột hôm, s ắp hết giờ làm việc buổi sáng, trời đổ mưa to. Thấy cơ hội thuận tiện, đồng chí giúp việc xin phép được mang cơm sang nhà sàn, Bác dừng tay làm vi ệc, trầm ngâm nhìn trời mưa, hỏi đồng chí phục vụ “Thế mang cơm cho Bác c ần m ấy chú?”, “Dạ, thưa Bác, một đồng chí bê cơm, một đồng chí bê thức ăn và hai đồng chí đi kèm che m ưa”, “Thế chú muốn một mình Bác vất vả hay muốn để nhiều người vất và vì m ột mình Bác?”. Hết giờ làm việc, mưa vẫn tầm tã, Bác xắn cao quân, tay c ầm ô, tay ch ống gậy, lần từng bước qua con đường vòng ao cá nước ch ảy xi ết sang nhà ăn. Nh ững l ần đi công tác các địa phương, Bác đều nhắc anh em mang cơm đi theo, khi thì c ơm n ắm, khi thì bánh mỳ với thức ăn nguội, chỉ có món canh cho vào phích để đến bữa Bác dùng cho nóng. Trên đường đi, cứ đến bữa là Bác chọn n ơi vắng, mát, sạch cho d ừng xe, Bác cháu bày cơm ra ăn đơn giản, không phiền ai cả. Một lần về thăm Thái Bình, Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân cố nài Bác ở lại ăn cơm, Người nói: “Đi thăm t ỉnh l ụt còn ăn uống nỗi gì?”, nhưng vì thương cán bộ đã chót bày mâm, Bác lấy gói cơm nắm và thức ăn mặn rồi bảo đồng chí cảnh vệ: “Chú mời đồng chí Bí thư và Chủ tịch đ ến ăn c ơm với Bác. Còn chú và chú bác sĩ sang mâm kia ăn v ới cán b ộ t ỉnh”. Khi ph ải công tác ở địa phương nào lâu, Bác dặn cán bộ tỉnh chỉ làm c ơm cho m ấy người và ăn những món nào, dù cán bộ tỉnh bày cỗ ra Bác vẫn chỉ gắp vào bát của anh em và bát c ủa mình m ỗi người một miếng gọi là nếm thử, rồi xếp ngay ngắn đĩa th ức ăn ấy, đ ể ra ngoài mâm, Bác vói với anh em: “Người ta dọn ra một bữa sang. Bác cháu mình có khi ch ẳng ăn và chẳng ăn hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng: đấy Bác Hồ đến thăm cũng làm c ơm th ế này, thế nọ, cũng điều động người làm mất thời gian. Thế là tự mình, Bác l ại bao che cho cái chuyện xôi thịt…”. Hai lần Bác về thăm quê, tỉnh nhà đ ều làm c ơm chiêu đãi Bác. Năm 1957, Bác mời mọi người cùng ngồi chung mâm có đĩa cà mu ối quê h ương. Năm 1961, Bác cũng ngồi vào bàn ăn nhưng lại chiêu đãi m ọi ng ười món c ơm đã chuẩn bị sẵn, mang từ Hà Nội vào: đó là những gói c ơm n ắm đ ộn b ắp, g ạo tr ắng và ngô nhỏ mịn gói lại vuông vức. Bữa cơm ấy thật ngon, nhi ều ý nghĩa và c ảm đ ộng. Năm 1965, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đang ác liệt, nhân dân ta bắt đầu phải ăn cơm độn sắn, ngô, Bác dặn anh em: “Các chú thổi c ơm đ ộn cho Bác. Nhân dân, cán b ộ ta ăn độn bao nhiều phân trăm, độn cho Bác từng ấy”. Khi đó Bác đã b ước vào tu ổi 75, nhìn Bác ăn độn mà anh em xót quá, mới thưa lai có quy định các c ụ già trên 70 tu ổi không phải ăn cơm độn, nhưng Bác bảo: “Bác cũng nhi ều tu ổi, nh ưng Bác còn kho ẻ. Thế thì Bác theo cán bộ. Cán bộ thế nào thì Bác thế ấy. C ứ th ổi ti ếp đi cho Bác ăn”. Anh em xay ngô thật nhỏ, độn gọi là, nhưng Bác biết, người nhắc: “50% cơ mà!”.
  4. Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người được vinh dự dùng c ơm với Bác nhi ều l ần nh ất, Thủ tướng kể lại rằng bữa ăn nào Bác cũng ăn tiết kiệm, vừa đủ không b ỏ món th ừa, không vương vãi một hột cơm. Bác rất thích ăn những món dân dã nh ư vó bò, cà d ầm tương, mắm, canh cua với rau chuối thái ghém hoặc dọc mùng. Những hôm m ời khách ăn cơm, bao giờ Bác cũng báo trước cho đồng chí c ấp d ưỡng bi ết đ ể chu ẩn b ị và s ố tiền đãi khách đó được trừ vào tiền lương của Bác, không bao giờ người dùng vào ti ền công quỹ. Bác thường mời cơm thân mặt một số đồng chí trong B ộ Chính tr ị, đôi khi cả gia đình một số đồng chí trong Trung ương, cán bộ, các anh hùng dũng sĩ mi ền Nam ra báo cáo công tác hoặc chữa bệnh. Những lần ti ếp khách nh ư v ậy bao gi ờ Ng ười cũng nhắc các đồng chí phục vụ nấu những món ăn phù hợp khẩu vị của khách để anh em ngon miệng. Chiều ngày 01/8/1969, vị khách cuối cùng đ ược Bác m ời c ơm là đ ồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung ương c ục mi ền nam ra báo cáo tình hình v ới Người. Phong cách sinh hoạt đời thường của Bác Hồ là biểu hiện c ủa tình th ương yêu con người, là đạo đức cần - kiệm - liêm - chính, tạo nên nét thanh cao và sự vĩ đại của một nhà hiền triết, một bậc thánh nhân thế kỷ XX, bởi vậy: “ Cu ộc đ ời c ủa H ồ Ch ủ t ịch trong như ánh sáng. Đó là tấm gương tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên c ường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu m ến nhân dân thắm thi ết. T ư t ưởng và đ ạo đức và đạo đức cao cả của Người mãi mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn chúng ta”. Bài học về sự tiết kiệm Trước kia, Thông tấn xã Việt Nam hàng ngày đều đưa bản tin lên cho Bác xem. Khi in một mặt, Bác phê bình là lãng phí giấy. Sau đấy Thông tấn xã in hai m ặt b ằng rônêô, nhoè nhoẹt khó đọc hơn nhưng Bác vẫn đọc. Sang năm 1969, s ức kho ẻ Bác y ếu và mắt giảm thị lực, Thông tấn xã lại gửi bản tin in m ột mặt để Bác đ ọc cho ti ện. Khi xem xong, những tin cần thiết Bác giữ lại, còn Người chuyển b ản tin cho Văn phòng Phủ Chủ tịch cắt làm phong bì tiết kiệm hoặc dùng làm gi ấy vi ết. Ngày 10-5-1969, Bác đã viết lại toàn bộ đoạn mở đầu bản Di chúc lịch sử bằng m ực xanh vào m ặt sau tờ tin Tham khảo đặc biệt ra ngày 3-5-1969. Từ giữa năm 1969, sức khoẻ Bác yếu đi nhiều nên Bộ Chính trị đề nghị: Khi bàn những việc quan trọng c ủa Đảng, Nhà n ước thì Bác mới chủ trì, còn những việc khác thì cứ bàn rồi báo cáo lại sau, Bác cũng đ ồng ý như vậy. Tháng 7, Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về vi ệc t ổ ch ức 4 ngày l ễ l ớn c ủa năm: ngày thành lập Đảng, ngày Quốc khánh, ngày sinh Lênin và ngày sinh c ủa Bác. Sau khi báo Nhân Dân đăng tin nghị quyết này, Bác đọc xong liền cho mời m ọi người đến để góp ý kiến: “Bác chỉ đồng ý 3/4 nghị quyết. Bác không đồng ý đưa ngày 19-5 là ngày kỷ niệm lớn trong năm sau. Hiện nay, các cháu thanh thiếu niên đã sắp bước vào năm học mới, giấy mực, tiền bạc dùng để tuyên truyền về ngày sinh nhật c ủa Bác thì các chú nên dành để in sách giáo khoa và mua dụng c ụ h ọc t ập cho các cháu, kh ỏi lãng phí”. Việc chi tiêu của Bác Hồ
  5. Các đồng chí ở gần Bác đều cho biết Bác rất ti ết ki ệm. Có đôi t ất rách đã vá đi, vá l ại mấy lần Bác cũng không dùng tất mới. Bác nói: - Cái gì còn dùng được nên dùng. Bỏ đi không nên... Khi tất rách chưa kịp vá, anh em đưa đôi mới để Bác dùng, Bác xoay ch ỗ rách vào bên trong rồi cười xí xóa: - Đấy, có trông thấy rách nữa đâu... Có quả chuối hơi nẫu, anh cán bộ chê không ăn, Bác lấy dao gọt ph ần n ẫu đi, bóc ăn ngon lành, rồi nói: - Ở chiến khu có được quả chuối này cũng đã quý... Câu nói và việc làm của Bác làm đồng chí cán bộ hối hận mãi. Dù cho đã làm đến Chủ tịch nước, suốt trong những năm ở Vi ệt B ắc, ở Hà N ội, Bác chưa bao giờ “có tiền” (như anh em cán bộ, chiến sĩ, công tác quanh Bác thường nh ận xét). Thực tế lịch sử cho thấy rằng: suốt thời gian hoạt động c ủa Bác ở n ước ngoài, Bác gặp rất nhiều khó khăn về tài chính do những nguyên nhân khác nhau. Đ ược đ ồng nào, chủ yếu do lao động tự thân mà có, Bác dành cho công tác cách mạng. Bác chi tiêu r ất dè sẻn, cân nhắc từng xu. Liên hoan m ừng thành l ập Đ ảng cũng ch ỉ có bát c ơm, món xào, tô canh, đĩa cá. Chiêu đãi đồng chí Lý B ội Quần, người Trung Qu ốc, ng ười đã mua chiếc máy chữ từ Hải Phòng về tặng Người (năm 1939), Bác cũng ch ỉ “khao m ột món canh và 2 đĩa thức ăn, thêm hai lạng rượu, tổng cộng chưa hết một đồng bạc”. Tự thết đãi mình “khi nghe tin Hồng quân bắt sống 33 vạn quân Hít le ở Xtalingrát năm 1943”, tại nhà tù, trong túi chỉ còn vẻn vẹn một đồng bạc, Bác đã “nh ờ người lính gác mua giùm cho ít kẹo và dầu chả quẩy”. Sau khi phấn khởi hô mấy khẩu hiệu hoan nghênh thắng lợi của Liên Xô, Bác “ngồi một mình, chén tạc, chén thù r ất đàng hoàng vui vẻ”... Năm 1957, Bác về thăm Nghệ Tĩnh, khi ăn cơm chung với đồng chí Nguyễn Sĩ Qu ế, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Diệm, Bác đã để bớt ra ngoài mâm m ấy món ăn, r ồi nói: “Ăn hết lấy thêm, không ăn hết để người khác ăn, đ ừng đ ể người ta ăn th ừa c ủa mình”. Có thể dẫn ra nhiều nữa những ví dụ về cách chi tiêu sử d ụng ti ền b ạc, c ơ s ở v ật chất của Bác, rất “mâu thuẫn thống nhất”: chắt chiu, tằn ti ện nhưng vẫn r ộng rãi, không hoang phí mà cũng không keo kiệt, “ki bo”. Thế giới, loài người tự hào về Bác. Là người Việt Nam, đồng h ương c ủa Bác, chúng ta càng tự hào biết bao! Cách ứng xử của Bác với ti ền tài, với cái ăn, cái m ặc, v ới c ơ sở vật chất nói chung đâu có phải là cao quá mà chúng ta không học tập đ ược, đâu có phải là một tòa thánh cấm uy nghiêm mà chúng ta không đặt chân lên đ ược th ềm b ậc, dù là bậc thềm thứ nhất? Thời gian quý báu lắm
  6. Sinh thời, Bác Hồ của chúng ta yêu cái gì nhất, ghét cái gì nhất? K ể cũng h ơi khó tr ả lời cho thật chính xác, bởi ở ta không có thói quen “t ự bạch” và kín đáo, ý nh ị v ốn là một đặc điểm của lối ứng xử phương Đông. Tuy nhiên, theo dõi qua tác phẩm, hoạt động và sinh ho ạt đời th ường, đi ều ta có th ể thấy rõ cái mà Người ghét nhất, “ghét cay, ghét đắng, ghét vào t ận tâm” là các thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân dân. Ở một mức độ khác, thấp hơn, những người có điều kiện ti ếp xúc và làm việc v ới Bác Hồ, điều thấy rõ nhất là Bác rất khó chịu khi thấy cán bộ làm vi ệc không đúng giờ. Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 gi ờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm vi ệc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”. Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí c ấp tướng đ ến làm vi ệc v ới Bác sai h ẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo: - Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội c ủa chú sẽ hi ệp đ ồng sai đi bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã không giành được chủ động. Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đ ầu cu ộc họp. Bác hỏi: - Chú đến chậm mấy phút? - Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ! - Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây. Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian c ủa người khác b ấy nhiêu, vì vậy thường không bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình. Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí th ức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đ ến làm náo n ức c ả l ớp h ọc, mọi người hồi hộp chờ đợi. Bỗng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi m ột c ơn m ưa dồn d ập, xối xả, tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc r ẻ: m ưa th ế này, Bác đến sao được nữa, trời hại quá. Giữa lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì t ừ ngoài hiên l ớp h ọc có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ: - Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi! Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần xắn đến quá đầu gối, đầu đội nón, Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người. Về sau, anh em được biết: giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đ ổ m ưa to. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác...
  7. Nhưng Bác không đồng ý: “Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng gi ờ, đ ợi tr ời t ạnh thì biết đến khi nào? Thà chỉ một mình Bác và m ột vài chú n ữa ch ịu ướt còn h ơn đ ể cho cả lớp học phải chờ uổng công!”. Ba năm sau, giữa Thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm m ột đo ạn m ới. Vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng l ớp nhân dân th ủ đô tập trung tại Ủy ban Hành chính thành phố để lên chúc tết Bác Hồ. Sắp đến gi ờ lên đường trời bỗng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác khỏi phải chờ lâu thì b ỗng xịch, m ột chi ếc xe đ ậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần l ượt bắt tay, chúc t ết m ỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu. Thì ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn c ủa ban tổ ch ức và không mu ốn các đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại ch ỗ chúc t ết các đ ại bi ểu trước. Thật đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đ ến nhân dân, cho đến tận phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời gi ờ và tiền b ạc c ủa nhân dân”. Bác có phải là vua đâu? Có một số người có ngôi cao, chức cả, sống trong sự trọng vọng, chi ều chu ộng c ủa mọi người, thường xuyên được hưởng sự ưu đãi đặc biệt, lâu dần cũng quen đi mà không hề biết rằng mình đã nhiễm phải thói đặc quyền, đặc lợi. Suốt đời tâm niệm là người công bộc của nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên h ạ, Bác Hồ của chúng ta luôn luôn hòa mình vào cuộc sống chung c ủa đ ồng bào, đ ồng chí, không nhận bất cứ một sự ưu tiên nào người khác dành cho mình. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhiều nhân sĩ, trí thức cao tu ổi theo Bác lên Vi ệt B ắc, đi kháng chiến, đèo cao suối sâu, đường bùn lầy, nhiều vị phải nằm cáng. Anh em phục vụ lo Bác mệt cũng đề nghị Bác lên cáng, Bác gạt đi: Bác còn kh ỏe, còn đi đ ược, các chú có nhiệm vụ đưa Bác đi như thế này là tốt rồi. Cuối năm 1961, Bác về thăm xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, m ột xã có phong trào trồng cây tốt. Tại một ngọn đồi thấp, Bác đứng nói chuyện với nhân dân trong xã. Trời đã gần trưa, tuy đã sang đông mà nắng còn gay gắt. Nhìn Bác đ ứng gi ữa nắng trưa, ai cũng băn khoăn. Đồng chí Chủ tịch huyện cho tìm m ượn đ ược chi ếc ô, định giương lên che nắng cho Bác, thì Bác quay lại hỏi: - Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào không? Thôi, cất đi, Bác có phải là vua đâu? Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác m ột đĩa cá anh vũ, m ột lo ại cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc sông Hồng đoạn Bạch Hạc - Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo: - Cá ngon quá, thế mà chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đ ồng) l ại đi vắng. Thôi, các chú để đến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức.
  8. Miếng ngon không bao giờ Bác chịu ăn một mình. Chia sẻ ngọt bùi là th ế, t ưởng chuyện cũng sẽ qua đi. Nhưng đến bữa sau, trong mâm c ơm lại có món cá hôm tr ước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ra không bằng lòng. - Bác có phải là vua đâu mà phải cung với tiến! Rồi Người kiên quyết bắt mang đi không ăn n ữa. Như Bác đã t ừng nói, ở đ ời ai ch ẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đ ổi b ằng s ự m ệt nh ọc, phiền hà của người khác thì Bác đâu có chấp nhận. Những anh em công tác trong Phủ Chủ tịch hàng ngày vẫn thường đi lại bằng xe đ ạp, thỉnh thoảng có gặp Bác đi bộ. Nhìn thấy Bác, m ọi người đ ều xu ống d ắt xe ch ờ Bác đi qua rồi mới lên xe đi tiếp. Thấy vậy, Bác thường khoát tay ra hiệu bảo anh em cứ đi tiếp, không cần xuống xe. Nhưng ai có thể cho phép mình ngồi trên xe khi Bác đi b ộ. Một lần, Bác gọi đồng chí vừa xuống dắt xe lại gần và bảo: - Các chú có công việc của mình nên cứ tiếp tục đạp xe mà đi. Bác đâu có ph ải là cái đền có biển “hạ mã” ở trước để ai đi qua cũng phải xuống xe, xuống ngựa? Lão Tử có nói: “Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì không sống cho mình nên m ới đ ược trường sinh. Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà lại lên tr ước, đặt thân mình ở ngoài mà lại còn”. Bác Hồ sống quên mình, không nghĩ đến mình mà lại tr ở thành sống mãi. Lời Lão Tử thật sâu sắc lắm thay! Từ đôi dép đến chiếc xe ôtô. Đôi dép của Bác “ra đời” vào năm 1947, được “chế tạo” từ một chiếc l ốp ôtô quân s ự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác. Trên đường công tác, Bác nói vui với anh em cán bộ đi cùng: - Đây là đôi hài vạn dặm trong chuyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài th ần đ ất, đi đến đâu mà chẳng được. Chẳng những khi “hành quân” mà cả mùa đông, Bác đi thêm đôi tất cho ấm chân, ti ếp khách trong nước, khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy. Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang v ụ gặt, Bác l ại x ắn qu ần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép... Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các đồng chí cảnh vệ cũng đã đôi ba l ần “xin” Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được”. Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì anh em lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một đôi giày mới... Máy bay hạ cánh xuống Niu Đêli. Bác tìm dép. Anh em thưa: - Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác...
  9. Bác ôn tồn nói: - Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn ch ưa đ ược đ ộc l ập hoàn toàn. Nhân dân ta còn khó khăn. Bác đi dép cao su nh ưng bên trong l ại có đôi t ất m ới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự... Thế là các ông “tham mưu con” phải trả lại dép để Bác đi vì d ưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi... Trong suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay phim, ch ụp ảnh l ại r ất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ n ắn quai dép, thi nhau bấm máy t ừ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm anh em cảnh v ệ lại ph ải m ột phen xem ch ừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy. Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Vi ệt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên ấy”, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi c ủa đơn vị. Cán b ộ và chi ến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên đ ể đ ược gần Bác, Bác vui c ười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại: - Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi... Nghe Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên: - Thưa Bác, cháu, để cháu sửa... - Thưa Bác, cháu, cháu có “rút dép” đây... Nhao nhác, ầm ĩ như thế, nhưng đồng chí c ảnh v ệ ch ỉ đ ứng c ười vì bi ết đôi dép c ủa Bác đã phải đóng đinh rồi; có “rút” cũng vô ích... Bác cười nói: - Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, m ột chân co lên tháo dép ra, “thách thức”: - Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác... Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên c ạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến... Bác phải giục: - Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chi ến sĩ lúc nãy ch ạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh: - Tôi, để tôi sửa dép... Mọi người giãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn: - Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ... Bác nhìn các chiến sĩ nói: - Các cháu nói đúng... nhưng chỉ có đúng một phần... Đôi dép của Bác cũ nh ưng nó ch ỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì còn “thọ” lắm! Mua đôi
  10. dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa c ần thi ết cũng ch ưa nên... Ta ph ải ti ết kiệm vì đất nước ta còn nghèo... Đôi dép cá nhân đã vậy, còn “đôi dép” ôtô của Bác cũng thế! Chiếc xe “Pa-bê-đa” sản xuất tại Liên Xô Bác vẫn đi, đã cũ, Văn phòng xin “đ ổi” xe khác, “đời mới” hơn, tốt hơn, nhưng Bác không chịu: - Xe của Bác hỏng rồi à? Anh em thưa rằng chưa hỏng, nhưng muốn thay xe để Bác đi nhanh hơn, êm hơn. Bác nói: - Ai thích nhanh, thích êm thì đổi... Hôm sau đến giờ đi làm, không biết là xe hỏng thật hay “ai” xui mà Bác đứng đ ợi bên xe mà xe cứ “ì” ra. Bác cười bảo đồng chí lái xe: - Máy móc có trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa. Sửa xong Bác cháu ta đi cũng kịp... Vài phút sau, xe nổ máy... Bác lại cười nói với đồng chí lái xe, cảnh vệ: - Thế là xe vẫn còn tốt! Đạo đức người ăn cơm Một chiến sĩ bảo vệ Bác - sau này được phong quân hàm cấp tướng - có lần nói rằng: “Bác thường dạy quân dân ta “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô t ư”, Bác d ạy ph ải làm gương trước. Bác dạy phải nêu cao đạo đức cách mạng. Có cán bộ nghĩ rằng “đạo đức” cách mạng là để áp dụng trong công tác thôi. Bản thân tôi, đ ược gần Bác thấy ngay trong khi ăn cơm, Bác cũng đã dạy cho chúng tôi thế nào là “đạo đức”. Thứ nhất, Bác không bao giờ đòi hỏi là Chủ tịch n ước phải được ăn th ứ này, th ứ kia. Kháng chiến gian khổ đã đành là Bác sống như một người bình th ường, khi hòa bình lập lại có điều kiện Bác cũng không muốn coi mình là “vua” có gì ngon, l ạ là “c ống, hiến”. Thứ hai, món ăn của Bác rất giản dị, toàn các món dân tộc, t ương cà, cá kho..., th ường là chỉ 3 món trong đó có bát canh, khá hơn là 4 - 5 món thôi... Thứ ba, Bác thường bảo chúng tôi, ăn món gì cho hết món ấy, không đ ụng đũa vào các món khác. Gắp thức ăn phải cho có ý. Cắt miếng bơ cũng phải cho vuông v ức. Nh ớ lần đi khu IV, đồng chí Bí thư và Chủ tịch Quảng Bình ăn c ơm v ới Bác, trong mâm có một bát mắm Nghệ hơi nhiều. Bác dùng bữa xong trước, ngồi bên mâm cơm. Hai cán bộ tỉnh ăn tiếp rồi buông đũa. Bác nhìn bát mắm nói: - Hai chú xẻ bát mắm ra, cho cơm thêm vào ăn cho hết. Hai “quan đầu tỉnh” đành phải ăn tiếp vừa no, vừa mặn... Chi ều hôm đó, hai đ ồng chí đưa Bác đi thăm bờ biển, trời nắng, ăn mặn nên khát nước quá.
  11. Lần khác, một cán bộ ngoại giao cao cấp người Hà Tĩnh được ăn cơm với Bác, đã gắp mấy cọng rau muống cuối cùng vào bát tương ăn hết. Tưởng là đã “hoàn thành nhi ệm vụ” nào ngờ Bác lại nói: - Tương Nghệ đồng bào cho Bác, ngon lắm. Cháu cho thêm ít c ơm vào bát “qu ẹt” cho hết... Thứ tư, có món gì ngon không bao giờ Bác ăn m ột mình, Bác xẻ cho người này, ng ười kia rồi sau cùng mới đến phần mình, thường là phần ít nhất. Ăn xong thu xếp bát đũa gọn gàng, để đỡ vất vả cho người phục vụ. Thứ năm, tôi có cảm giác là đôi khi ăn cơm có những giây phút Bác c ầm đôi đũa, nâng bát cơm, Bác như tư lự về điều gì đó. Tưởng như Bác nghĩ đến đ ồng bào, c ụ già, em bé đói rách ở đâu đấy. Tưởng như Bác nhớ lại những ngày lao động ở xứ người ki ếm từng mẩu bánh để ăn, để uống, để làm cách mạng... Hay là Bác lại nghĩ đến nh ững lần tù đày không có gì ăn. Thật khó hiểu mà càng khó hi ểu, tôi lại càng th ương Bác quá, thương quá. Bây giờ vào những bữa tiệc cao lương, m ỹ vị, rượu bia th ức ăn bày la liệt, quái lạ tôi lại nhớ đến Bác rồi... có ăn cũng chẳng thấy ngon như khi xưa ngồi vào mâm cơm đạm bạc với Bác”. Bác Hồ thích món ăn gì nhất Nhiều người quan tâm đến sinh hoạt đời thường của Bác Hồ đã có lúc đ ặt ra câu h ỏi ấy. Mới xem qua, dường như nó chẳng có ý nghĩa gì mấy, bởi nó quá riêng tư, m ỗi người đều có sở thích của mình, thị hiếu là vấn đề không thể bàn cãi! Đúng như vậy. Nhưng tìm hiểu sở thích của m ột người cũng là m ột h ướng ti ếp c ận tính cách của con người đó, càng cần thiết hơn khi đó lại là một vĩ nhân. Cũng như mọi người, có món ăn Bác Hồ rất thích, nhi ều món ăn đ ược, có món không thích, ví dụ qua bữa cơm bà Thanh được kể lại, ta bi ết cậu Thành từ nh ỏ không ăn được tỏi. Nét nổi bật là vị Chủ tịch nước đầu tiên của chúng ta lại rất thích các món ăn dân dã như mắm, cà dầm tương, canh cua ăn với rau chuối thái ghém... Có lần, trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Chủ tịch Liên khu IV Lê Vi ết Lượng có gửi lên Việt Bắc biếu Bác một lọ cà dầm mắm. Bác rất thích ăn. Ngày đó, Bác v ẫn thường ăn chung với các nhân viên phục vụ của mình. Có bữa bận phải ăn sau, Bác dặn: các cô chú cứ ăn thịt cá, để phần Bác món cà dầm mắm. Ở rừng, thỉnh thoảng vẫn thiếu rau. Bác bảo: - Ta thi ếu rau nhưng nhi ều mít, cô Mai (vợ bác sĩ Chánh) làm món nhút ăn cho đỡ xót ru ột. Ch ị Mai thú th ực không bi ết làm. Bác lại bày cho cách làm nhút từ quả mít xanh. Có lẽ trong các món mang hương vị quê hương, Bác thích nhất món cá bống kho lá gừng. Hôm nào, đ ồng chí C ần - c ấp d ưỡng của Bác, làm món ăn đó, Người thường ăn hết, để món thịt lại. Có lần, Bác được mời đi nghỉ tại Liên Xô. Bạn cho ăn toàn những món đặc s ản vào loại tuyệt hảo. Bỗng một hôm Bác bảo: “Mình nhớ món cá bống kho lá gừng quá!”. Một chuyện thật đơn giản, nhưng trong hoàn cảnh đó thực hi ện lại không dễ. Vì ở nhà nghỉ thì không ổn, hơn nữa bạn lại rất sợ mùi nước mắm. Kho ở sứ quán rồi mang
  12. vào, lại sợ bạn biết sẽ phật ý. Cuối cùng, nhờ sự trổ tài khéo léo của đồng chí Vũ Kỳ trong việc giới thiệu các món ăn cổ truyền của dân tộc, món cá bống kho gừng đã được thực hiện. Ở Việt Bắc, hôm nào có điều kiện ăn tươi, Bác lại bảo: ra gọi cô Cúc (v ợ đ ồng chí Phạm Văn Đồng) và cô Mai vào trổ tài cho Bác cháu mình th ưởng th ức. Ch ị Mai làm món gà rút xương, thịt băm trộn nấm hương nhồi đùi gà, đem hấp. Ch ị Cúc làm món bít-tết. Bác khen ngon, vì làm rất công phu. Bác nhận xét: - Gia vị đối với món ăn Việt Nam rất quan trọng. Thiếu gia v ị, món ăn s ẽ gi ảm h ương vị đi rất nhiều. Coi trọng nội dung, Bác cũng nhắc nhở cần chú ý đến c ả hình th ức trình bày. H ồi ở Việt Bắc, có lần đi công tác, buổi trưa, Bác cháu dừng lại bên b ờ su ối n ấu ăn. Bác bảo: các chú nấu cơm, để Bác rán trứng cho. Bác làm rất thạo. Tr ứng rán xong mà cơm chưa chín. Bác lấy que sắt nung trên than hồng r ồi đ ặt lên khoanh tr ứng thành những hình quả trám rất đẹp. Anh em cười thán phục. Bác bảo: - Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn thì ta cứ làm chứ các chú! Ngày 16-6-1957, Bác đi thăm Đồng Hới (Quảng Bình). Trong bữa c ơm tr ưa có đ ủ các món đặc sản của Đồng Hới: Mắm tôm chua, rau muống chẻ, cá thu kho... Bác cháu vừa ăn vừa trò chuyện. Bác chỉ tay sang bác sĩ Nhữ Thế Bảo nói đùa: - Bác sĩ khuyên mọi người ăn chín, uống sôi, còn b ản thân bác sĩ thì l ại ăn rau mu ống sống hơi quá nhiều đấy! Mọi người cười vang. Bữa ăn ngon lành càng thêm vui vẻ. Theo cuốn: Bác Hồ - con người và phong cách Ăn no rồi hãy đến làm việc Anh em, bạn bè, họ hàng lâu ngày gặp nhau, cùng uống m ột chén r ượu, ăn v ới nhau một bữa cơm cũng là việc thường tình. Cái chính là ở tấm lòng trung th ực, tình nghĩa, kính trọng, yêu thương nhau chứ không nên “khách một khứa mười” tranh thủ chi tiêu “tiền chùa” xả láng. Khách không nên vì cương vị “gợi ý” khéo để chủ nhà “nghênh tiếp”. Anh em ở gần Bác cho biết, dù trong kháng chi ến ở Vi ệt Bắc, hay khi đã v ề Hà N ội, kể cả trong những năm chống Mỹ, cứu nước, hễ đi công tác xa, gần, là nhất đ ịnh Bác “bắt” mang cơm đi theo. Khi cơm nắm, độn cả ngô, mì. Khi là bánh mì v ới th ức ăn nguội. Chỉ có canh là cho vào phích để đến bữa, Bác dùng cho nóng. Nhớ lần về thăm tỉnh Thái Bình, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân c ố nài Bác ở l ại ăn c ơm. Bác nói: “Đi thăm tỉnh lụt còn ăn uống n ỗi gì”. Nói xong, Bác lại th ương cán b ộ vì đã có cơm sẵn. Bác gọi đồng chí cảnh vệ đưa c ơm n ắm th ức ăn m ặn c ủa Bác đ ến và bảo: - Mời đồng chí bí thư và chủ tịch đến ăn cơm với Bác. Còn chú và bác sĩ sang mâm kia ăn cơm với cán bộ tỉnh.
  13. Thường là đi công tác, đến bữa, Bác cho dừng xe, ch ọn n ơi v ắng, mát, s ạch, Bác, cháu mang cơm ra ăn. Làm việc xong, Bác chọn giờ ra về để kịp ăn c ơm “ở nhà”. Nếu không, lại có cơm nấu bữa thứ hai mang theo. Chỉ khi nào ở đâu, công tác lâu Bác m ới chịu “ăn” cơm ở địa phương. Bao giờ Bác cũng dặn “chủ nhà”: - Đoàn Bác đi có từng này người. Nếu được, chỉ ăn từng này, từng này... Dù không nghe lời Bác, chủ nhà dọn “cỗ” ra, Bác cũng có cách riêng c ủa Bác. Bác nói với anh em: - Bác cháu ta chỉ ăn hết món này, món này thôi. Còn món này để nguyên. Nhà chủ thiết tha mời Bác dùng thử món “cây nhà lá vườn”, Bác cũng ch ỉ gắp vào bát anh em và bát mình mỗi người một miếng rồi lại xếp ngay ngắn đĩa th ức ăn ấy, kiên quyết để ra ngoài mâm, người ngoài nhìn vào thấy đĩa thức ăn vẫn như nguyên v ẹn. Bác nói với cán bộ: - Người ta dọn ra một bữa sang, Bác cháu mình có khi cũng chẳng ăn đâu ho ặc ăn chẳng hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng: đấy, Bác Hồ đến thăm cũng làm c ơm th ế này, thế nọ, cũng điều động người này, người n ọ từ giao tế sang, mất th ời gian. Th ế là, tự mình, Bác lại bao che cho cái chuyện xôi, thịt... Cứ ăn no rồi đến làm việc. Theo: Nguyễn Việt Hồng Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác H ồ th ường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất. Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét m ướt ở rừng núi hay b ưng bi ền, Bác đem t ấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy ti ền mua áo ấm gửi cho các chiến sĩ. Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chi ến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!”. Mùa hè năm ấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, th ần kinh tu ổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt đầm, có ngày phải thay mấy l ần qu ần áo, có khi hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác không cho dùng máy đi ều hòa nhi ệt đ ộ. Bác bảo: mùi nó hôi lắm, Bác không chịu được! (Bác không dùng nên nói v ậy thôi, ch ứ máy đã có nút xả thơm). Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ: - Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên nóc hội tr ường Ba Đình thì chịu sao được? Các chú ấy có đủ nước uống không? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết. Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có m ột tổ súng máy 14 ly 5. Ụ cát s ơ sài, n ếu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm. Trời nắng chói, đứng một lúc mà hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi: - Các đồng chí có nước ngọt uống không? - Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!
  14. Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng: - Sao các chú không lo đủ nước uống cho các chi ến sĩ tr ực phòng không? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay đ ể đ ảm bảo an toàn cho chiến sĩ trong chiến đấu! Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ ti ết ki ệm c ủa Bác, xem ti ền ti ết ki ệm c ủa Bác còn bao nhiêu. Tại sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng ch ỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái chổi lông gà, đều ghi vào lương cả. Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi đến bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có ti ền ti ết ki ệm. Đ ến d ịp Tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các c ơ quan chung quanh Bác, mua l ợn để đón xuân. Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo: - Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là m ột món ti ền r ất l ớn, t ương đương với khoảng 60 lạng vàng). Bác bảo: - Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham m ưu và nói: đó là quà c ủa Bác t ặng để mua nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng không u ống, không ph ải ch ỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, mà cho tất cả các chi ến sĩ đang tr ực chi ến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó không đủ thì yêu cầu địa phương nào có bộ đội phòng không trực chiến góp sức vào cùng lo! Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: số tiền của Bác đủ mua nước uống cho bộ đội phòng không, không quân đ ược một tuần! Theo: Trần Đức Hiếu (ghi lời kể của đồng chí Vũ Kỳ) Để Bác quạt Năm ấy, Bác đến thăm trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội. Tin Bác đến nhanh chóng lan ra khắp trại. Anh ch ị em th ương binh ai cũng mu ốn len vào gần Bác, quên cả nạng phải dùng để đi. Đang lúc Bác thăm hỏi sức khỏe thương binh bỗng m ột đồng chí h ỏng m ắt nh ờ m ột y tá dẫn đến xin đứng bên Bác. Đồng chí Ninh đi với Bác định b ước l ại đ ỡ đ ồng chí ấy, nhưng Bác đã đi tới, giơ hai tay ra đón. Đồng chí th ương binh ôm ch ầm l ấy Bác ngh ẹn ngào “Bác ơi!” Bác lặng đi giây lát rồi mới tiếp tục câu chuyện thăm hỏi. Bác đến từng giường anh chị em thương binh nặng hỏi thăm bệnh tật đã đ ỡ ch ưa, m ỗi bữa ăn được bao nhiêu bát cơm. Hôm ấy, trời nóng bức, Bác lấy cái quạt giấy vẫn dùng, quạt cho các thương binh. Có người định làm thay, Bác nói:
  15. - Để Bác quạt. Hôm ấy, lúc ra về Bác không vui. Và có lẽ vì thế mà khi cơ quan định lắp máy điều hòa nhi ệt độ n ơi Bác ở, Bác bảo đem ra cho các đồng chí thương binh. Theo: Nguyên Dung Bữa cơm trên tàu với Bác Cuối tháng 3-1959, lần đầu Bác Hồ cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đ ồng chí ở Trung ương về thăm quân chủng Hải quân đi thăm biển, các đảo thuộc vùng biển tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Nhiệm vụ đưa đón Bác và các đ ồng chí đ ại bi ểu, cấp trên tin tưởng giao cho cán bộ, chiến sĩ tàu 524. Lúc đó, không riêng gì tôi (Tr ần Bạch) mà tất cả cán bộ, chiến sĩ tàu 524 đều cảm thấy vinh dự và tự hào. Hôm Bác đi thăm đảo Tuần Châu xong, Bác trở về tàu 524, đồng chí Tư Tường bàn với anh em trên tàu là sẽ mời Bác, đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí cùng đi ở lại ăn cơm với cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Sau khi anh Tư Tường báo cáo nguyện vọng của anh em với Bác, Bác vui vẻ nhận lời và bảo: để Bác xem các chú n ấu ăn có giỏi không? Hôm đó tàu cử đồng chí Hiên là người khéo tay nhất làm bếp và trực ti ếp nấu n ướng. Tôi và các đồng chí cùng tham gia mỗi người một việc, từ vo gạo, nh ặt rau… Ai n ấy đều rất vui và chăm chú làm việc như muốn góp phần công sức của mình vào b ữa ăn “chiêu đãi Bác”. Trong lúc anh em đang loay hoay n ấu nướng thì Bác xu ống b ếp. Nhìn quanh một lượt, Bác khen bếp sạch, ngăn nắp. Bác đang xem ngăn để gia vị, hành t ỏi, chợt quay lại bảo với Hiên: - Chú nấu cơm khê rồi! Anh Tư Tường cũng quay lại. Hiên v ội b ớt l ửa, r ồi m ở vung nồi ra kiểm tra. Khi đó anh em mới ngửi thấy mùi c ơm khê. Anh T ư T ường và anh em trên tàu rất áy náy về việc nồi cơm bị khê. Tất cả không ai nói m ột l ời và c ảm th ấy như mình có lỗi với Bác. Trong lúc mọi người chưa bi ết xử lý th ế nào thì Bác b ảo: Chắc các chú đói rồi, cơm hơi khê, không việc gì, ta ăn thôi. Bác nói với giọng dịu dàng, khoan dung, làm xua tan đi nỗi băn khoăn, lo lắng c ủa m ọi người. Nghe theo lời Bác, mọi người vui vẻ cùng ngồi vào bàn ăn. Lúc đó tôi không nghĩ mình được vinh dự ngồi ăn c ơm v ới Bác. Khi nghe anh T ư Tường bảo: “Bạch lên cùng ăn cơm với Bác”, tôi xúc động không nói nên lời. Ngoài tôi ra còn có Trung sĩ Bùi Văn Đào là lính tín hiệu. Hôm ấy danh nghĩa là tàu mời cơm Bác nhưng cũng chỉ có món th ịt gà lu ộc, lòng gà xào miến và nước luộc gà nấu miến làm canh. Còn bàn ăn thì kê ngay ở mạn phải đuôi tàu. Bác ngồi ở phía ngoài, sát với cọc lan can. Nhìn Bác vui v ẻ ăn, chúng tôi m ới đ ỡ
  16. lo. Lúc đang ăn, Bác gọi xuống bếp: Thức ăn của ta đã n ấu xong ch ưa h ả chú? Đ ồng chí phục vụ trả lời: Thưa Bác xong rồi ạ! Mang lên đây góp cùng ăn v ới H ải quân. Đồng chí phục vụ Bác bê lên một đĩa bốn con cá rô phi rán. Nhìn đĩa cá, Bác bảo: ở giữa biển, Bác mời các chú ăn cá. Sau này chúng tôi được biết bốn con cá rô phi là của đ ồng chí Bí th ư T ỉnh ủy Qu ảng Ninh biếu Bác, Bác dành cho bữa ăn với anh em ở tàu. Suy ngẫm v ề câu nói c ủa Bác mới hay, phải chăng Bác muốn nhắc nhở sống ở khu vực có biển phải bi ết giăng l ưới, thả câu bắt cá để cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với anh em trên tàu về bữa ăn hôm đó là khi sẻ thức ăn cho từng người, Bác bảo: Các chú ăn c ơm với Bác hoặc ăn cơm phải ăn hết thức ăn, không được đ ể th ừa, th ừa đ ổ đi thì lãng phí, để người khác ăn thừa của mình thì không được. Nếu còn sử dụng được thì cố mà tận dụng Năm 1960, Bác ra thăm đảo Hòn Rêu ở Quảng Ninh. Tr ời tr ở l ạnh, Bác l ấy t ất ra đi. Mấy chị bên Khu Hội phụ nữ thấy tất Bác không còn m ới li ền đem lại m ột đôi t ất mới để Bác thay. Ngay lúc ấy Bác không nói gì. Bác cúi xuống xoay chỗ tất sờn rách vào phía d ưới lòng bàn chân và nói: Các cô chú xem tất Bác còn rách không? Nước mình còn nghèo, cái gì cũng vậy, nếu còn sử dụng được thì cố mà tận dụng, đừng vội vứt đi! Một lần, khi sang Pháp đàm phán ở Hội nghị Phôngtennơblô trở về, Người ta thấy cụ Chủ tịch nước mặc một bộ quần áo ka ki đã cũ. Có người đề nghị Chủ tịch thay bộ quần áo khác, Chủ tịch đáp: Nhiều đồng bào ta nếu được bộ quần áo như thế này cũng là tốt lắm. Thế thì việc gì tôi phải thay. Ngăn nắp và trật tự Hồi ở Pác Bó, dù sống ở trong hang đá hay trong một lán nh ỏ, Bác Hồ vẫn gi ữ n ếp sống ngăn nắp và trật tự. Đồ đạc, tài liệu Bác sắp xếp theo thứ tự riêng, cái nào ra cái đó, không bao giờ lẫn lộn. Sách, báo, tài li ệu, Bác xếp để trên các b ậc. Ấm chén, bút mực… cũng đều có quy định chỗ để hẳn hoi. Ai động đ ến là Bác bi ết. Bác có m ột chiếc máy chữ mang từ nước ngoài về, thường vẫn dùng để đánh tài li ệu. Cứ sau m ỗi buổi làm việc, Bác xếp máy chữ vào một túi riêng, còn tài li ệu thì b ỏ vào thùng s ắt đậy cẩn thận. Chả thế mà có hôm báo động, chỉ mấy phút sau Bác đã xếp xong các thứ gọn gàng. Còn đồng chí khác thì chạy tới chạy lui, vấp cả vào nhau. Có đ ồng chí, thứ cần thiết thì không mang đi, thứ không cần thì lại lấy. Th ấy th ế, Bác nh ẹ nhàng bảo: - Gọn gàng, ngăn nắp cũng là một cách bảo mật. Khi ho ạt động bí m ật cũng nh ư trong nếp sống hàng ngày của người cán bộ các chú phải thường xuyên chú ý rèn luyện. Sau này, khi về sống ở Hà Nội, Bác vẫn giữ nếp sống gọn gàng, ngăn n ắp ấy. Trên bàn làm việc của Bác dưới nhà sàn, ngày nào cũng vậy, sau giờ buổi sáng, tr ước lúc
  17. sang ăn cơm, Bác đều xếp tài liệu, sách vở ngay ngắn. Bu ổi chi ều h ết gi ờ làm vi ệc, Bác mang tài liệu lên nhà, mỗi thứ để một nơi theo đúng chỗ quy định. Một lần, đang lúc giữa trưa thì còi thành phố báo động có máy bay Mỹ đến. Bác bình tĩnh từ trên nhà đi xuống cầu thang. Nhìn thấy m ột số đồng chí b ảo v ệ t ất t ưởi ch ạy ra hầm, quần, áo, súng, đạn, balô không gọn gàng, Bác bảo: - Các chú là bộ đội, phải bình tĩnh và luôn luôn sẵn sàng chi ến đấu. Lúc có gi ặc cũng như khi không có giặc. Muốn vậy, trong cuộc sống hàng ngày các chú phải sống ngăn nắp, trật tự và gọn gàng. Tục lệ tốt đẹp Bác Hồ giản dị trong cả cách nói, cách viết. Một số người sính ngo ại có những lời văn cầu kỳ khó hiểu, Bác nhắc nhở, phê bình ngay. Có lần Bác đọc bài bình luận về một trận đánh thắng ở chiến trường miền Nam. Bài bình luận viết: Đây là chiến thắng long trời lở đất. Bác cầm bút khoanh tròn trên mấy chữ “long trời lở đất” r ồi phê vào bên: th ế thì Bác cháu ta ở đâu? Ngày 1-2-1969, đồng chí Nguyễn Văn Tạo, Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghi ệp được mời lên gặp Bác để thông qua bài viết về Tết trồng cây. Trong bài có câu: T ết trồng cây đã thành một mỹ tục của toàn dân ta. Bác đồng ý với nội dung, nhưng sửa lại: đã thành một tục lệ tốt đẹp của nhân dân ta. Một lần khác, Bác tới xem triển lãm hàng gốm sứ do trường Cao đẳng M ỹ thu ật công nghiệp trưng bày. Bác khen hàng đẹp và hỏi: Có phải nhập nguyên li ệu c ủa n ước ngoài không? Đồng chí Nguyễn Khang thưa: Thưa Bác, đại bộ phận là ở trong nước ạ. Bác cười bảo: Sao chú không nói là phần lớn nguyên liệu mà lại nói là đại bộ phận? Bác thường căn dặn: Tiếng nói, chữ viết của dân tộc ta rất giàu, rất đ ẹp, n ếu thi ếu thật mới đi mượn của nước ngoài, các chú cần chú ý. Bác Hồ với vấn đề tiết kiệm trong ngành ngoại giao Là một cán bộ ngoại giao lâu năm, tôi vinh dự và may mắn được tiếp xúc với Bác Hồ nhiều lần. Những lần Bác đến thăm sứ quán ta ở nước sở tại, Bác nói nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề tiết kiệm của ngành ngoại giao. Năm 1957, Bác thăm Liên Xô và một số nước Đông Âu. Khi đến thăm cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan, Bác căn dặn chúng tôi phải ra sức tiết kiệm trong chi tiêu, tiết kiệm thời gian, tranh thủ học tập. Bác nếu tấm gương sáng về bảo
  18. đảm giờ giấc. Hôm sứ quán tổ chức để Bác chiêu đãi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước Ba Lan, chúng tôi được giao nhiệm vụ chọn địa điểm, đặt các món ăn sao cho phù hợp với khẩu vị người nước ngoài, vừa thể hiện được món ăn dân tộc. Kết quả chiêu đãi tốt. Bác hài lòng khen: Các chú tổ chức chiêu đãi vừa tiết kiệm, vừa trng trọng. Các món ăn không thừa, không thiếu. Sau đó, Bác kể chuyện có sứ quán do tính toán không kỹ, khi chiêu đãi khách, các món ăn thừa rất nhiều. Bác nói: Ăn uống lãng phí, Bác xót xa lắm, vì đây là tiền bạc của Nhà nước, của nhân dân. Bà con ta ở trong nước làm đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mới có miếng mà ăn. Vì vậy, để lãng phí, xa hoa là có tội với nhân dân. Một lần, khi nói chuyện với cán bộ ngoại giao về nước học tập nghị quyết của Đảng, Bác đến thăm và căn dặn. Nhân dân ta đang gian khổ chiến đấu để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Vì vậy, mỗi cán bộ, mỗi người dân phải tiết kiệm vì sự nghiệp cách mạng. Làm công tác ngoại giao, tuy phải có phần hình thức cho coi dược, song nội dung vẫn là quan trọng hơn. Cái đẹp của hình thức là ở chỗ sạch sẽ, gọn gàng, giản dị, chứ không phải ở chỗ xa hoa, lãng phí. Cần làm sao không tốn kém mà lịch sự. Các cô, các chú đi công tác nước ngoài càng phải chú ý điều này.Vì hoàn cảnh ở nước ngoài thường dễ làm cho mình sinh ra hoang phí, tham ô, hủ hóa, thậm chí có khi sa ngã, mất cả tư cách người cách mạng. Các cô, các chú phải luôn luôn tự kiểm điểm và giúp cán bộ mình cùng kiểm điểm. Cũng tại cuộc gặp với cán bộ ngoại giao, ngày 14-1-1965, Bác căn dặn nhiệm vụ và những điều cần chú ý: Phải tiết kiệm. Dân ta còn nghèo, nước ta cũng còn nghèo, miền Nam đang còn phải đấu tranh, toàn dân ta phải tiết kiệm, ngoại giao cũng phải tiết kiệm. Cán bộ ngoại giao ta ra ngoài có hình thức làm sao cho gọn ghẽ, sạch sẽ, nhưng không được lãng phí, xa hoa. Trường hợp làm tiệc mặn , song nếu ta làm được tiệc trà thay vào là tốt nhất. Ta không phải thể đua với người được. Người giàu có, còn ta thì nghèo. Chính vì vậy, phải hết sức tiết kiệm. Ngoại giao càng phải tiết kiệm. Lời dạy của Bác về vấn đề tiết kiệm trong ngành ngoại giao mãi mãi vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi. Trích từ sách: Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2006, tr.333-334. Sự giản dị của Bác Hồ Ai cũng biết Bác Hồ sống rất giản dị. Giản dị vừa là cung cách làm việc, vừa thể hiện phẩm chất, đạo đức, lối sống của Người. Trong ăn mặc, sinh hoạt thường ngày, Bác Hồ giản dị thế nào ta hằng biết và truyền tụng. Ăn thì vẫn cà pháo, tép đồng kho, rau muống luộc; hạt cơm vô ý rơi vãi thì nhặt bỏ vào mâm... Mặc thì, đại lễ có bộ ka-ki, ngày thường bộ bà ba mầu nâu lụa Hà Ðông, đi guốc gỗ hay dép cao-su. Tiện nghi thì rất ít, đơn sơ: giường gỗ, màn cá
  19. nhân, chiếc quạt nan, ở trong ngôi nhà gỗ cất khiêm nhường tại một góc vườn. Trên bàn làm việc, Bác không bày biện nhiều đồ, chỉ là tiện nghi tối thiểu để đọc, viết. Kể sao hết những chuyện như thế trong đời sống phong phú nhưng rất giản dị của Bác. Mỗi lần được nghe, được thấy những chuyện, những cảnh ấy, lòng chúng ta xiết bao cảm động, bởi rất tự nhiên, ta so sánh, tự vấn với cuộc sống trong xã hội, trong đó có bản thân ta. Khi Bác nói về đường lối, chính sách, chủ trương với quần chúng cũng hết sức giản dị, dễ hiểu. Ðầu những năm 40 của thế kỷ 20, nước ta mới gây dựng phong trào cách mạng, một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới chưa có tiền lệ ở Ðông - Nam Á, nên bao khó khăn, phải có cách đi từ đầu, Bác nói ra đường lối, chủ trương cách mạng đó trong bài "Nhóm lửa" (01-8-1942) đoạn đầu như sau: Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa, Biết bao nhiêu là sự khó khăn? Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân, Cũng lo sợ lửa khi tắt mất. Nghi ngút khói, mặc dầu thổi quạt, Che một bên lại tạt một bên; Khi lửa đà chắc chắn bén lên, Thì mưa gió, chi chi cũng cháy. Mưa lún phún, lửa càng nóng nảy. Gió càng cao, ngọn lửa càng cao. Núi rừng đều bén, cháy ào ào, Lửa nung đỏ cả giời sáng tóe. Năm 1954, khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc, có lần nói chuyện với bà con công giáo ở Phát Diệm, Bác nói: “Từ nay, với sự cố gắng của đồng bào, sản xuất sẽ ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui”. Những lời nói của người thể hiện quan điểm tư tưởng rất vững chắc, lập trường chính trị rất rõ 19ung, song vẫn dễ đi vào lòng người, thúc đẩy mọi người hành động. Bác nói được với mọi người, hơn thế, nói được với mỗi người, bởi đó là tiếng nói chân thực, giản dị; giản dị vì trước hết là tiếng của một tấm lòng. Một lần đến thăm Indonesia, thời Tổng thống Sukarno, Chính phủ bạn dành phòng đại lễ để Bác gặp kiều bào ta. Nhưng thật bất ngờ, phòng trở nên chật vì già, trẻ, gái, trai. Việt kiều đến quá đông. Không chút do dự, Bác bước ra bãi cỏ rộng phía trước, rút dép cao-su, ngồi bệt xuống, kiều bào ta xung quần quanh Bác. Một nhà thơ Indonesia chứng kiến cảnh đó đã viết bài thơ có tựa đề (dịch) “Vẻ đẹp bên trong của viên ngọc”, trong đó có những câu: Người không thích ngồi ghế danh dự, suy tôn Ngồi vào đó, với Người, không có nghĩa. Về lĩnh vực văn nghệ, Bác rất giản dị ở sự nhìn nhận, đánh giá bản thân. “Ngâm thơ ta vốn không ham”, ấy là lời Bác nói rõ rằng mình không lấy 19ung tác văn chương làm lẽ sống, mặc dầu chúng ta biết Bác rất yêu quý nghệ thuật, quý trọng người làm nghệ thuật. Người là nhà thơ, nhà văn lớn. Bác chưa một lần nhận mình là nhà thơ, nhà văn. Có thể do Bác khiêm tốn, tự thấy mình chỉ là “người học trò nhỏ
  20. của nhà văn vĩ đại Tolstoi” (lời Bác), chưa xứng đáng danh hiệu cao quý nhà văn, nhà thơ. “Ngục trung nhật ký” gồm những bài thơ chữ Hán sáng tác trong nhà tù Tưởng Giới Thạch từ tháng 8-1942 – 9-1943, Bác viết cho Bác đọc. Ông Vũ Kỳ kể: Ðọc bản dịch thơ Bác cho Bác nghe, Bác không nói gì chỉ tủm tỉm cười. Ðánh bạo hỏi Bác, Bác nói: “Các chú quý thơ, yêu thơ Bác nên dịch thơ Bác. Nhưng dịch thế nào được thơ Bác. Chính Bác cũng không dịch được thơ Bác, giây phút đó qua rồi. Thôi thì các chú cùng Bác 20ung tác vậy”. Có cái hóm hỉnh, đùa vui nhưng ngẫm kỹ thì vẫn là thái độ, cách nhìn nhận mình và người rất giản dị. Viết thơ, văn, Bác không câu nệ về đề tài, những gì có trong cuộc đời, đến như mất cái gậy, rụng chiếc răng… Người đều đưa vào thơ. Bởi cũng như C.Mác và các bậc hiền triết xưa nay, không có gì liên quan đến con người mà xa lạ với Bác. Bác cũng rất giản dị về việc lựa chọn thể loại, không nhất thiết là truyện, ký, kịch hay thơ…; thơ thì thơ luật hay thơ tự do, làm thơ luật nhưng đâu có bị khuôn vào niêm luật, chung cả văn ngôn lẫn bạch thoại, thơ tứ tuyệt mà vẫn viết quá bốn câu… (tập “Nhật ký trong tù”). Trong truyện, kết hợp nhiều yếu tố, đưa vào cả huyền thoại, viễn tưởng chính trị (“Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, “Con người biết mùi hun khói”…). Có thể nói, Bác viết văn, làm thơ một cách giản dị, làm chủ nghệ thuật như đã làm chủ thời gian, sinh hoạt, tiện nghi, tình thế, lịch sử… Người phá bỏ các quy phạm nghệ thuật gò bó mà chỉ giữ lại quy luật chung nhất của nghệ thuật mà thôi. Giọng điệu văn thơ cũng giản dị, chẳng thấy Bác cao đạo, đại ngôn, khẩu khí “vĩ nhân” bao giờ. Có những bài thơ của Bác ngay cả người giàu trí tuệ, am hiểu văn hóa, văn học, vẫn chưa hiểu hết. Ðể dịch “Ngục trung nhật ký” của Bác, Viện Văn học đã tập trung những nhà Hán học uyên thâm, những nhà thơ xuất sắc do ông Nam Trân đứng đầu, thế mà dù đã cố gắng, nhưng không ít bài dịch vẫn lạc giọng nguyên tác. Không phải là nhà nghiên cứu phê bình, dịch thuật thiếu tài năng, càng không phải thiếu tình với thơ Bác, mà chỉ do thơ Bác giản dị quá, tự nhiên đến mức không ngờ; thơ là, “văn tức là người” là thế. Còn có thể chỉ ra sự giản dị trong thơ, văn Bác ở lời, ở chữ, ở câu và nhiều chỗ khác nữa như sự giản dị có ở muôn nơi trong đời sống phong phú của Bác. Nhưng nói đến cùng giản dị, đơn giản trong cuộc sống, trong văn nghệ … ở Bác là do cội nguồn: giản dị của cách cảm, cách nghĩ. Nghệ sĩ Ưu tú Kim Liên, người vinh dự được nhiều lần gặp Bác, kể lại trong bữa cơm Bác mời ngày 17-7-1969, thấy Bác ăn ít quá, chị cố nài, Bác nói: “Khi Bác ăn được thì không có cái để mà ăn. Khi có cái ăn thì ăn không được”. Có lẽ không cần nói gì 20ung về sự trung thực, giản dị của ý nghĩ, lời nói của Bác. Một đoạn khác, khi theo Bác lên nhà sàn – chị kể: “Tôi không ngờ Bác Hồ, vị Chủ tịch nước kính yêu và vĩ đại của dân tộc, lại ở trong một gian phòng nhỏ, tiện nghi quá giản đơn, của cải chẳng có gì! Như hiểu được ý nghĩ của tôi, Bác nói giọng trầm buồn: - Bác chẳng có gì cho cháu cả! Bác chỉ có cái thước mà lúc còn trẻ bôn ba qua các nước, Bác có nhặt được mảnh gỗ, tự tay đẽo thành một cái thước kẻ để 20ung, nay Bác cho cháu để làm kỷ niệm. Tôi cầm cái thước mà rơm rớm nước mắt vì không ngờ Bác lại sống giản dị đến thế. Tôi phát hiện trên cái thước có ghi ba chữ cái: S – N – K (Suy nghĩ kỹ). Ðến uyên thâm
nguon tai.lieu . vn