Xem mẫu
- Chuyện quỷ nhập tràng
Câu chuyện này tôi nghe bà ngoại kể từ khi còn nhỏ xíu. Gần ba mươi năm qua rồi,
nhưng chi tiết trong câu chuyện vẫn cứ như in trong đầu tôi, có lẻ hồi đó nó đã để lại
một dấu ấn ghê gớm trong trí óc non nớt của một đứa trẻ là tôi.
Quê của bà ngoại ở Ninh Bình (một tỉnh nhỏ thuộc miền Bắc). Bà ngoại tôi quen người
có họ là Nhieu Trinh, năm đó cũng bãy mươi ba tuổi rồi. Ở nhà quê hồi đó người ta
khắng khít đùm boc nhau lắm, nhất là bà Nhieu Trinh lại là một tấm gương đáng để
mọi người phụ nử noi theo. Cả cuộc đời bà từ tấm bé tới khi nhắm mắt lìa đời, luôn
sống vì mọi người, bà không nề hà bất cứ việc gì có thể giúp đở được cho người khác.
Hầu như tất cả những người phụ nử cũa làng bà và kể cả những làng lân cận mọi khi
tới ngày sinh đều phải nhờ tới tay bà. Bà là bà mụ mát tay nổi tiếng khắp vùng. Ðiều
đặc biệt là bà làm vậy thôi chứ không lấy tiền công, người nhà quê nghèo lắm, họ đối
với nhau bằng tình nghĩa hơn là vật chất. Chính vì vậy họ hàng và làng xóm ai cũng kính
yêu bà, tới trẻ con người lớn trong làng ai cũng gọi bà là bà ngoại. Người ta thường
mang quà biếu bà mổi khi có chút quà mọn dù là cũ khoai lang hay mo trầu không. Cha
mẹ bà mất sớm, nên bà phảinuôi một đàn em thơ dại nên mãi tới năm ba mươi tuổi bà
mới lấy chồng. Bà làm lẻ cho ông Nhieu Trinh ( một chức sắc trong làng ). Gia đình
chồng hiếm hoi, từ đời ông cố tới đời chồng của bà đều cũng chỉ có duy nhất một
người con trai. Ông lấy ba bà vợ trước đó nhưng không bà nào sinh cho ông được một
mụn con, vậy mà khi bà về làm bạn với ông thì một năm sau lại sinh ra cho ông một đứa
con nối giỏi. Ông cưng cậu con trai quý như trứng mơng, chính vì thế bà cũng được
thơm lây. Tiếng là ông có nhiều vợ nhưng các bà luôn thuận hoà vói nhau, trên kính
dưới nhường. Cả bốn bà chung nhau một ông chồng và một thằng con trai theo đúng
nghĩa, các bà đều quý mến cưng chiều thằng nhỏ, nó muốn gì là cho nấy. Thời gian trôi
qua, ba bà vợ trước và ông Nhieu Trinh lần lượt qua đời. Bà lại một mình cheo chồng
nuôi con, thay chồng gánh vác mọi việc hiếu hỉ của làng xóm cũng như họ hàng.
Khi anh Trúc lấy vợ, bà mừng lắm, bà mong có con dâu ngoan hiền của bà sẽ chóng sinh
cho bà một bầy cháu nội, để cho vui nhà vui cửa . Nhưng rồi cũng vẫn như một lời
nguyền dai dẳng, anh Trúc lấy vợ cũng phải tới mười sáu năm sau mới có được một
thằng con trai. Khi thằng cháu ra đời, bà coi như những tâm nguyện của mình đã đạt
được một phần nào, tuy nhien bà vẫn mong muốn là anh Trúc sẽ cho bà thêm vài đứa
cháu nửa. Thằng Vinh cháu bà năm đó mới có ba tuổi, Bà thương cháu lắm. Ngày ngày
chính bà là người tắm rửa và chăm nôm đứa bé. Khi tuổi già sức yếu, người mà bà lo
lắng nhất vẫn là đứa cháu đích tôn. Mổi khi nhìn cháu là bà lại chảy nước mắt vì bà
cũng đoán được cái ngày mà bà cháu bắt buộc phãi xa lìa nhau cũng gần tới nơi rồi. Bà
thường nhường nhịn từng miếng quà tấm bánh mà bà con họ hàng mang tới thăm để cho
cháu.
Người ta trong đời ai rồi cũng có sinh ly tử biệt, dù là người tốt hay người xấu thì cũng
tới lúc phải nhắm mắt xuôi tay từ giả cuộc đời . Bà cũng vậy, rồi cũng tới ngày mà bà
không còn gắng gượng được nửa, bà không ăn được cũng đã gân mười ngày rồi, bà chỉ
có thể thắm môi vài giọt nước thôi. Ðêm trước hôm bà chết có con chim heo cứ đậu ử
đầu hiên nhà kêu liên hồi,. người nhà quê tin là nếu chim heo bay tới đậu lên mái nhà
nào và cất tiếng kêu thì y như nhà đó có người chết. Hôm bà chết trời mưa tầm tả, sấm
chớp liên hồi, giữa trưa mà chẳng thấy được một tia nắng. Ðúng giờ Ngo thì bà trút hơi
thở cuối cùng trong sự thương tiếc của mọi người. Vì chết vì bệnh già và lại cũng
không ăn uống gì đã cả chục ngày nên bà đã gầy nay lại càng khẵng khiu hơn. Bà con
xóm giềng xúm vào mọi người một tay lo cho hậu sự của bà. Người thi lo chặt cây
- chuối để trước hòm áo quan, người thì lo luộc trứng vớt dừa. Bà chết nhằm ngày xấu
và cả mấy ngày sau cũng vậy, nhưng không thể để cái áo quan quá lâu được nên mọi
người bàn với nhau chắc là bà cả đời nhân đức nên cũng không sao. Người ta dự định sẽ
chôn bà vào ngày thứ ba. Ðêm đều trôi qua bình thường. Ðêm cuối cũng tự nhiên có rất
nhiều điều kỳ lạ xảy ra. Tiếng chim heo kêu không dứt mặc dù trong nhà đã có người
chết. Mèo gào suốt đêm và chó thì sũa ầm ỉ cả làng. Không ai bảo ai nhưng mọi người
mơ hồ cảm thấy lo lắng về một điều gì đó sắp xảy ra.
Có tới hơn chục người thức đêm trông quan tài của bà. Ðám thanh niên ngồi túm lại một
góc kể chuyện ma. Mấy người già cũng nhóm lại với nhau để nói chuyện mùa màng
làng nước. Cách đó vài chục bước chân là quan tài cũa bà Nhieu Trinh. Khoãng ba giờ
sáng bổng có tiếng động nhẹ. Mới đầu không ai để ý nhưng rồi sau đó tiếng động càng
lúc càng rõ ràng hơn. Mọi người thi nhau phỏng đoán xem là tiếng động đó được phát ra
từ đâu. Người thì nói là chuột chạy kẻ thì kêu là chó phá. Chẳng ai dám thừa nhận tiếng
động đó là từ phía quan tài phát ra bởi vì ai cũng cố không tin vào điều đó. Bổng thằng
Vinh đang ngũ bật ngồi dậy gọi bà nội. Nó nói là vừa nghe thấy bà nó gọi nó và nó cứ
chăm chăm nhìn vào chiếc hòm nơi mà bà nó đang nằm trong đó. Mọi người không ai
dám nói một tiếng nào nửa. Chó cũng ngừng sủa và mèo cũng chẳng còn kêu gào. Trong
không khí ngột ngạt và im lặng như trước một cơn giông ấy thì tiếng bà Nhieu Trinh từ
trong áo quan yếu ớt vang lên “cho tôi ra, cho tôi ra, tôi vẩn còn sống đây”. Hồn vía lên
mây, chẳng ai rủ ai mà tất cả cũng nhao nhao chạy trốn ra khõi căn nhà của anh Trúc.
Tính tò mò bao giờ cũng mang lại cho người ta rất nhiều phiền phức và có khi những lổi
lầm đó còn có thể dẩn tới tai họa. Sau khi ra khõi nhà anh Trúc một quãng, mọi người
dừng lại và đứng tụm lại một chổ để nghe động tỉnh. Một lúc lâu sau không thấy có gì
xãy ra, mấy anh thanh niên thách đố nhau quay trở lại ngôi nhà xem có gì xãy ra không.
Vợ chồng anh Trúc lúc chạy vội vàng quá tới nổi quên cả thằng Vinh. Người này cứ
tưỡng người kia cơng thằng bé đi rồi, giờ nhìn lại thì mới biết là cả hai vợ chồng lo
chạy quá mà quên mất con. Hai vợ chồng bàn nhau quay trở lại nhà để đưa thằng Vinh
ra. Lạ một điều là trước tới giờ thằng nhỏ chẳng bao giờ chịu ở đâu một mình, lúc nào
cũng phải có người ở bên cạnh, thế mà từ nảy tới giờ chẳng thấy nó khóc lóc gì. Anh
Trúc dẫn đầu cả đám thanh niên quay trở lại. Người nào cũng cố tỏ ra không sợ hãi, cứ
bụng bão dạ là làm gì có ma mà sợ. Thực ra thì trong ngực anh nào cũng đánh thùm thụp
cả. Tới đầu hè thì nghe thấy tiếng thằng Vinh bi bo nói chuyện, cứ một câu bà hai câu
cháu. Thế là cả đám lại ù té chạy ra cách đó một quãng. Mẹ thằng Vinh sợ quá đứng run
cằm cặp. Anh Trúc lúc này bổng nhiên thấy hết sợ, tình cha con là hơn hết, anh một
mình bước rón rén lại căn nhà. Trong nhà vẫn chẳng có tiếng động nào khác ngoài tiếng
của thằng Vinh. Thu hết can đãm anh bước vội vào nhà và bê thằng con chạy ra ngoài.
Cả đám nhao nhao hỏi chuyện thằng bé. Ai cũng chung một thắc mắc " thằng Vinh nói
chuyện với ai?". Thằng bé lên ba cứ từng câu từng câu nói ra một cách rành mạch. Nó
kể là bà nội nó chưa chết, bà nội nó chỉ bị mệt rồi ngủ quên, bà đang nằm trong hòm
chờ bố Trúc vào mở cho bà ra. Anh Truc nghe tới đây thì thấy hết sợ hẳn, anh chỉ thấy
thương mẹ nằm trong hòm suốt hai ngày một đêm. Anh vội vàng chạy vào để đưa mẹ
ra ngoài.
Vào tới nơi, anh Trúc nghe thấy tiếng bà Nhieu Trinh gọi thì thào "Trúc ơi, cho mẹ ra,
nằm mõi quá rồi, đứa nào nó bó tao mà chật thế?". Nghe thấy vậy, anh lại càng tin là
mẹ còn sống . Thế là anh nhào lại mở nấp hòm để đưa bà ra. Lúc này mọi người đã
quay trở về đông đũ, ai cũng thấy mừng vì bà còn sống nhưng vẫn không hết hồi hộp.
Mấy người thanh niên xúm vào khiêng bà ra khõi hòm. Lạ một điều là lúc trước bà nhẹ
- như đứa trẽ thì bây giờ thấy có vẽ nặng hơn nhiều. Ông Bách là người hôm trước tự
tay khâm liệm bà, giờ lại cũng tự tay tháo đi những lớp vãi bó đi, vừa làm ông cứ vừa
luôn miệng trách mình tại sao lại bất cẩn tới nổi bà còn sống mà cũng không biết
Từng lớp vãi được tháo dần ra, mọi người vì quá vui nên chẳng chú ý một điều là bà
Nhiêu Trinh bây giờ nói nhiều và cộc cằn khác hẳn tính điềm đạm trước đây. Miệng vãi
liệm cuối cùng được tháo ra, bà lừ mắt nhìn mọi người và gằn giọng "thế chúng mày
mong bà chết lắm hay sao mà bà mới ngũ quên một chút mà đã vội vàng làm đám ma cho
bà?". Mọi người ngồi nán lại để nói chuyện với bà nhưng bà cụ luôn miệng trách móc
và đòi ăn. Anh Trúc thấy mẹ biết đói thì mừng lắm, từ lúc thấy mẹ chồng tỉnh lại, mẹ
thằng Vinh đã chạy vội ra sau bếp đặt nồi cháo, định là để cho bà húp chút nước lấy lại
sức. Cháo chưa chín nhừ nhưng bà Nhieu đói quá nên chị cũng đánh liều múc một bát lên
mời mẹ. Nhìn thấy bát cháo, mắt bà Nhiêu sáng rực, bà nhào lại giật lấy từ tay con dâu
húp luôn một hơi. Cháo mới nấu còn nóng, vậy mà bà dường như chẳng có cãm giác gì
cả. Chắc là cả mười ngày nhịn đói trước đó và hai ngày nằm không một giọt nước trong
hòm làm bà trở nên như vậy. Bà giục con dâu chạy xuống bếp lấy nửa. Chị Trúc lật đật
chạy xuống bưng nguyên nồi cháo lên cho bà. Trong lúc chờ con dâu, bà thấy nải chuối
để đầu hòm, bà sai một người đứng gần đó mang lại cho bà. Chuối mới chặt là chuối
còn xanh, thế mà bà cứ từng quả từng quả ăn ngon lành. Có lẻ cách ăn cũa bà bây giờ
phải gọi là nuốt vội vì bà khộng có răng thì làm sao mà nhai? Ngối với bà một lúc lâu
rồi mọi người bắt đầu bảo nhau về cho bà nghĩ. Bà chẳng muốn thế vì bà còn đang
thích nói chuyện. Sau khi người cuối cùng rời khõi nhà, bà vẫn còn đang thao thao. Tới
sáu giờ sáng bà mới ngáp dài rồi kêu là buồn ngũ, anh Trúc dìu mẹ vào giường và giục
vợ phụ anh dọn dẹp những thứ trước đây dùng cho đám ma. Cái hòm thì để lại góc nhà
(ở nhà quê ngày trước người ta có thói quen tích trử áo quan trong nhà khi gia đình có
người già cả).
Cả ngày bà Nhieu Trinh ngũ li bì, mấy lần anh Trúc tới mời mẹ dậy ăn cơm mà cũng
chẳng thấy bà nhúc nhích , anh Trúc thỉnh thoảng lại phải sờ tay mẹ xem mẹ có còn
sống hay không. Bà nằm đó, cũng giống như thời gian trước đây, yếu ớt và hơi thở thì
thỉnh thoãng lại đứt quãng, khác hẳn với sự linh hoạt cũa đêm hôm qua. Thằng Vinh cứ
khóc đòi bà nội bế nhưng bà chẳng hé mở mắt suốt từ lúc ngũ tới sầm tối. Chừng sáu
giờ chiều thì bà cựa mình thức dậy, câu đầu tiên là kêu đói và sau đó là mắng thằng
Vinh không để yên cho bà ngũ. Chị Trúc có nấu sẳn nồi cháo, bèn đưa lên mời mẹ. Cũng
lại như đêm trước, bà chẳng cần chờ nguội mà cứ húp luôn một hơi. Hết bát này tới bát
khác, làm cho cuối cùng chị Trúc phải bưng nguyên nồi lên. Chị định nấu nồi cháo đó
cho mẹ ăn tới tối vậy mà chỉ trong một lúc là bà ăn hết sạch trơn. Thằng cháu đứng
cạnh đó cứ ngẫn cả người vì thèm quá, trước đây, chẳng bao giờ bà không nhường cho
nó.
…Ăn xong, bà lấy một cái nón lá đội lên đầu rồi đi ra khõi nhà. Dáng đi cũa bà thoăn
thoát không giống như là một người già và nhất là cũa một người vừa qua cơn thập tử
nhất sinh. Anh Trúc hơi băn khoăn khi thấy mẹ đội nón vì trời không còn có nhiều nắng
nhưng anh cũng không hỏi gì bỡi vì anh cho là mẹ vừa chết đi sống lại thì thế nào cũng
có những việc khác với thói quen lúc trước. Bà Nhieu Trinh đi ra tới đầu ngõ là đã gặp
bà con lối xóm, người nào cũng vồn vã hỏi han và mừng cho bà thoát qua cơn hiểm
nguy, nhưng đáp lại sự chân tình cũa mọi người là thái độ khinh khinh cũa bà. Chẳng nói
chẳng rằng, bà cụ rườm rườm nhìn lại, làm cho người bắt chuyện cãm thấy ngạc nhiên
và còn pha một chút sợ hãi. Qua tới cửa nhà ông Bách, thấy bà Bách và đứa cháu nội
đang thơ thẩn chờ ngoài ngõ, bà xắn ngay lại nhiếc móc chuyện ông Bách bõ vãi bà chật
- quá. Bà Bách cứ luôn miệng xin lổi và mời bà vào trong nhà uống nước. Thằng cháu
nhỏ cũa bà Bách có cũ khoai đang cầm trên tay, chẳng nói chẳng rằng, bà Nhieu giành
lấy nuốt vội, thằng bé khóc ré lên, bà nội nó chẳng hiểu có chuyện gì mà thằng nhỏ lại
trở chứng như vậy. Trời xầm tối nên gà nhà bà Bách lục tục kéo nhau lên chuồng, nhìn
thấy mấy con gà mẹ với đám gà con, mắt bà Nhieu Trinh sáng rực lên. Ngồi nói chuyện
được một chút thì bà lại quay qua ra đi. Ði ngang qua chuồng gà, bà liếc mắt nhìn có vẽ
toan tính điều gì đó. Anh Trúc ở nhà chờ cơm mẹ mà chẳng thấy bà đâu, sốt ruột quá,
anh chạy ra tận ngoài đường để ngóng. Trời đã tối hẳn, anh thấy thấp thoáng đằng
trước có bóng người đang tiến lại thật nhanh về hướng nhà mình, trong chốc lát, người
đó đã đi tới gần ngay trước mặt anh, đó chính là bà Nhieu Trinh. Lúc này bà đã không
còn đội nón nữa, bà nhìn anh với cặp mắt lồng sòng sọc nhưng vẽ mặt lại tươi tắn hơn
trước lúc đi rất nhiều. Ngồi vào mâm cơm, bà ăn liền mấy bát, bà cứ chọn những thứ
ngon nhất để ăn cho thoả thích. Thằng Vinh cứ hết nhìn vào mâm cơm lại nhìn bà nội,
chắc là nó đang thắc mắc lắm. Anh chị Trúc rửa tay xong lên chuẩn bị ăn cơm thì thấy
chỉ còn có vài miếng cơm cháy dưới đáy nồi. Thức ăn cũng gần hết chỉ còn loe ngoe
mấy cọng rau. Trong lúc đó bà Nhieu Trinh ngồi uống nước chè xanh ở đầu giường, bà
cho cã hai chân lên giường rồi ngửa mặt sục ngụm nước on gong trong miệng. Thấy
mẹ khác lạ quá , anh Trúc hơi sợ sợ nhưng chẳng dám nói ra. Ở nhà quê người ta đi ngũ
sớm lắm, thường thì ăn cơm xong là chuẩn bị đi ngũ rồi. Gia đình bà Nhieu Trinh cũng
vậy. Vợ chồng con cái anh Trúc đã đi nằm, nằm được một lúc rất lâu mà vẩn còn thấy
bà Nhieu ngồi xỏm trên giường uống nước và nói chuyện một mình. Nhưng câu chuyện
mà bà nói chẳng đâu vào đâu, nhưng bà nói liên tục không ngơi miệng. Hai vợ chồng cứ
hỏi nhau là có chuyện gì xảy ra với mẹ nhưng cả hai cũng đành chịu vì chẳng biết trả
lời ra làm sao. Thức quá thì cũng mệt, anh chị Trúc ngũ lúc nào không biết...
Sáng sớm hôm sau, anh Trúc dậy để đi ra đồng thì lại thấy mẹ đang nằm thiêm thiếp
trên giường, hơi thỏ bà yếu lắm. Anh Trúc đinh ninh là đêm qua vì mẹ thức quá khuya
nên hôm nay mới vậy. Dặn dò vợ lo cho mẹ cẩn thận, anh quay người lấy cày cuốc để
đi làm công việc nhà nông. Cũng như ngày hôm qua, bà cứ nằm lã trên giường, một chút
nước cũng không thể nhấp môi được. Ở làng này từ trước tới nay chẳng hề xảy ra
chuyện trộm cắp, người làng chẳng bao giờ phải lo lắng chuyện mất mát này nọ. Thế
mà hôm nay, nhà bà Bách lại mất một con gà mái, bà đi tìm nó loanh quanh luôn quận mà
chẳng thấy đâu. Ðàn gà con không có mẹ cứ ngơ ngác rất là tội nghiệp, cũng may là nhà
bà có mấy con gà mái khác cũng đang nuôi con nên bà đành để cho chúng nó nhập chung
đàn.
Chiều tối anh Trúc về vào thăm mẹ thì chẳng thấy bà đâu, hỏi vợ thì chị nói bà vừa ăn
xong nồi sắn luộc và đội nón đi rồi. Chị còn nói cho chồng nghe là hôm nay bà nội mang
thằng Vinh ra đầu hè lấy chổi đập túi bụi vì cái tội nó cứ đòi bà bế, chị xót con lắm
nhưng chẳng dám nói sợ mẹ không vui.
Từ đó trở đi, ban ngày thì bà nằm thiêm thiếp như con cá được mang lên cạn, còn mổi
khi mặt trời chuẩn bị khuất bóng là bà lại cắp nón đi ra khõi nhà. Hàng xóm láng giềng
thấy tính tình của bà ngày càng thay đổi, nhất là mấy đứa trẻ con mổi lần nhìn thấy cặp
mắt long sòng sọc của bà là lại lẩn trốn ra đàng sau lưng người lớn. Mới đầu người ta
vẫn còn cho là bà bị thay đổi tính tình sau lần chết hụt nhưng dần dần về sau ai cũng sợ
bà, không những trẽ con mà cả người lớn cũng rất ngại gặp bà. Mỗi khi nhìn thấy bà từ
xa là người ta đã tìm cách lẩn ngay sang chổ khác nhưng thường là không thành công vì
bà đi nhanh lắm, chỉ thoáng một chốc là đã tới ngay bên cạnh họ rồi. Mỗi khi gặp ai, bà
thường gầm gừ những gì không rõ, thỉng thoảng có câu nào nghe được thì toàn là nuốt
và bóp chết, cặp mắt cũa bà ngày càng sáng rực, giống y hệt cặp mắt mèo bật ánh sáng
- trong đêm. Trong làng liên tục xảy ra các vụ mất trộm gà, người ta cho là gần đây có
cáo. Mọi nhà ra sức buộc cửa chuồng gà mổi khi trời tối rất kỷ càng nhưng tình trạng
đó vẫn liên tục tiếp diễn, ngày ít thì một con, ngày nhiều có khi là hai hay ba con. Lạ
một điều là mấy con gà mái nuôi thường kêu rất lớn mổi khi bị chạm vào người, đằng
này, chẳng bao giờ có tiếng động gì để chủ nhà biết mà chạy ra xem. Mổi sáng thấy
đám lông gà ở ngay góc tre đầu nhà nào là y như răng nhà dó đêm qua vừa bị mất trộm.
Dân làng hoang mang lắm, quyết rình bắt bằng được con cáo tinh ranh.
Trong lúc ấy ở nhà anh Trúc cũng liên tiếp xãy ra nhiều sự lạ. Bà Nhiêu Trinh ngày càng
hồng hào và trẻ ra trông thấy. Bà đã bắt đầu mọc lại răng và tóc cũng xanh trở lại. Lúc
này bà không còn nằm lã suốt cả ngày nửa mà mỗi trưa bà đều thức dậy khoẻ mạnh y
như lúc mặt trời khuất bóng, qua giờ Ngọ một chút thì bà lại nằm vắt xuống ngũ li bì.
Thằng Vinh hồi trước được bà cưng chiều chừng nào thì bây giờ bị bà ghét chừng đó,
không thấy nó thì thôi chứ hể thấy là thế nào bà cũng lôi ra đánh. Riết rồi thằng bé sợ
bà cũng giống như những đứa trẽ trong làng sợ bà vậy. Bà ăn ngày càng khoẽ, sức ăn
cũa bà thì hai người thanh niên cũng không lại. Mỗi bữa tối bà có thể ăn hết cả một nồi
cơm hai đấu (một đấu bằng một kg). Ðặc biệt bà thích những thứ còn tươi sống, hôm
trước chị Trúc mua được mớ cá người ta mới tát ao trong làng, chị đem thả vào vạc
nước định đến trưa dọn dẹp xong sẽ làm. Xong xuôi chị trở ra thì chẳng thấy cá đâu,
loang quanh luân quẩn một hồi chị vào lại trong nhà, nhìn thấy mẹ nằm trên giường
chẳng hiểu nghĩ thế nào chị lại gần để xem thì ôi thôi, mép bà còn dính mấy cái vẩy cá.
Chị đem chuyện này kể cho chồng nghe, anh Trúc gắt ngayđi và cho là vợ nói chuyện vớ
vẫn. Thực ra anh nói vậy là để trấn an mẹ thôi chứ chính anh mấy hôm trước nhìn thấy
mẹ bắt con thằn lằn trên tường nuốt sống.
Tháng trôi qua kễ từ khi bà Nhiêu Trinh sống lại, ngôi làng nhỏ bé đó có quá nhiều thay
đổi. Ðiều quan trọng nhất là mọi người đã mất đi tiếng gọi “bà ngoại” thân thương đối
với bà Nhieu. Hôm đó vào giữa trưa, cái quán nước đầu làng cũa chi Thắm có người
khách lạ. Ông khách này trông chừng ngoài sáu mươi, người gầy đét và đen thui, vẽ mặt
khắc khổ, chỉ có mổi đôi mắt là tinh anh. Ông ngồi uống nước mà mắt cứ chăm chăm
nhìn về phía cuối làng, ông hỏi chị Thắm là gần đây trong làng có chuyện gì lạ xãy ra
không. Chị Thắm mang đầu đuôi câu chuyện ra kể cho ông già nghe. Vừa lúc đó bà
Nhiêu Trinh đội nón lá đi thoăn thoắt ngang qua. Chị Thắm chưa kịp lên tiếng thì ông già
lạ đã hõi “người kia có phải là cái bà già mà chị nói là chết đi sống lại hay không?”. Chị
Thắm gật đầu. Ông khách nói tiếp “nếu chị thực tình muốn cứu gia đình người con trai
cũa bà đó thì làm cách nào bảo người nhà cũa họ ra đây gặp tôi càng sớm càng tốt, mà
nhớ là đừng để cho bà cụ biết nhé”. Chị Thắm chẳng hiểu có điều gì xãy ra nhưng nghe
giọng ông cụ có vẽ nghiêm trọng, chị vội vàng để quán lại nhờ ông trông rồi chạy đi
tìm anh Trúc.
Lúc tới nơi, chị không dám lên tiếng mà đứng thập thò ngoài đầu ngõ bỡi vì chị nghe
thấy tiếng bà Nhieu đang chửi bới gì đó ở trong nhà, chị nhìn thấy vợ chồng anh Trúc
đang đứng ngay gần đó. Ðang loay hoay tìm cách để ngoắc chị Trúc ra thì bổng chị
Thắm nghe tiếng ba Nhieu nhắc tới tên mình “con Thắm mà dám ló mặt qua đây thì bà
vặn ngược cổ từ đằng trước ra đằng sau”. Nghe thấy vậy hồn vía lên mây, chị Thắm ba
chân bốn cẳng chạy mất biệt. Về tới quán nước, chị nói cho ông khách lạ nghe câu
chuyện vừa rồi. Ông già chăm chú nghe và cuối cùng thì nói mỗi một câu “thế là nó biết
rồi đây”. Ông trả tiền nước rồi đi, trước đó ông dặn lại chỉ một câu “cô nói với anh
Trúc là sáng sớm ngày mai ra đây gặp tôi, chuyện gắp lắm, nguy hiểm tới tính mạng”.
Chị Thắm không dám quay lại nhà anh Trúc mà phải nhờ một người hàng xóm có thửa
- ruộng ngay cạnh ruộng anh Trúc nhắn anh Trúc ra gặp. Nghe tin, anh Trúc vội vàng bỏ
việc lại đấy để ra xem có chuyện gì mà hồi trưa mẹ mình giận dử thế và giờ thì chị
Thắm nhấn ra gặp. Chị Thắm kể lại cho anh Trúc nghe những lời ông khách hồi trưa
nói với chị và dặn anh phải thật cẩn thận không để bà Nhieu biết.
Tối đó khác hẳn mọi bửa, bà Nhieu không đi ra khõi nhà nửa, bà ngồi xõm trên giường,
luôn miệng chửi bới và hơn nửa bà lại còn giử chặt thằng Vinh không cho nó đi đâu
mặc cho thằng bé khóc khan cả giọng. Anh Trúc thấy tình hình có vẽ không ổn nên sáng
sớm hôm sau khi bà Nhieu vừa nằm xuống ngũ thì anh vội vàng chạy ngay ra đầu làng
gặp ông già lạ. Tới nơi, anh chưa kịp thở thì đã thấy ông già đứng chờ với vẽ mặt hiện
rõ sự sốt ruột. Chờ cho anh Trúc lấy lại hơi, ông bắt đầu hỏi từng chuyện một. Anh
Trúc mang tất cả những chuyện lạ lùng ra nói cho ông nghe. Sau cùng ông già đó mới
nói cho anh Trúc biết hiện giờ người đó không còn là mẹ anh nửa, vì mẹ anh chết vào
giờ linh nên bị quỷ nhập tràng rồi. Hôm qua tôi đi ngang làng này, nhìn thấy phía cuối
làng toàn là âm khí, nhất là khi ngồi uống nước ở đây tôi đã nhìn thấy nó đi nhón gót
ngang qua đây. Hiện giờ nó đã lấy được nhiều sức mạnh. Chuẩn bị tới một trăm ngày
kể từ hôm mẹ anh sống lại, con quỷ đó sẽ không còn bắt trộm gà hay ăn cá sống nữa
mà nó sẽ chuyễn sang thằng bé nhà anh. Anh Trúc nghe tới đây thì tái mặt, mồ hôi tuôn
như mưa, anh van lạy ông già tìm cách cứu gia đình và làng xóm. Ông già đưa cho anh ba
lá bùa màu đỏ và dặn dò cẩn thận. Chẳng hiểu ông nói gì mà anh Trúc cứ vâng dạ luôn
miệng.
Về tới nhà thì đã là giờ trưa, bà Nhieu không còn ngũ nửa mà đã ngồi dậy đòi ăn và ôm
khư khư thằng Vinh. Anh Trúc tìm cách nói là cho thằng bé đi cắt tóc để bà thả nó ra
nhưng nhất khoát bà không nới lơng dù chỉ một ngón tay. Anh Trúc nhìn thấy vậy lộ rõ
vẽ lo lắng trên khuôn mặt. Suốt trưa hôm đó bà không rời khõi nhà, ăn uống xong là tới
giờ bà ngủ, bà vừa ngủ vừa quặp chặt thằng Vinh. Thằng bé khóc suốt từ hôm qua tới
giờ nên cũng không còn sức nữa, nó lã cả người đi rồi. Tới chiều thức dậy bà đổi giọng
không chịu ăn cơm, bà đòi ăn thịt gà, chị Trúc cũng cố làm vừa lòng bà để mong bà thả
thằng bé ra nên chạy qua nhà hàng xóm mua vội con gà về làm lông rồi luộc mang lên.
Thấy con gà luộc, bà lại bắt đầu chửi bới, bà chửi chị Trúc ngu, con gà tươi thế mà lại
giết chết mới mang lên cho bà. Chị Trúc nghe tới đâu dựng tóc gáy tới đó. Cuối cùng thì
bà cũng làm sạch con gà. Mẹ thằng Vinh van lạy bà thả nó ra để cho nó ăn chút cháo, bà
Nhiêu không đồng ý mà bắt chị đưa cháo cho bà đút cho thằng nhỏ ăn. Ngày hôm đó là
ngày thứ chín mươi tám kể từ khi bà sống lại.
Sang tới ngày chín mươi chín thì sức khoẽ cũa bà gần như là tăng vườt trội, bà không
còn ngũ một chút nào nữa, bà thức sáng đêm rồi lại thức nguyên ngày. Nghe lời ông già
dặn, anh Trúc nói vợ vẩn cứ mang gà luộc lên cho bà, mặc dù bà yêu cầu mang gà tươi.
Bà vừa ăn vừa chửi, mắt bà vằn lên những tia đỏ như máu, bà luôn miệng nói và bây giờ
người ta có thể nghe rõ là bà nói gì. Bà nói sẽ ăn thịt uống máu từng đứa trong làng, cho
tới lúc nào không còn một móng mới thôi. Ðêm hôm đó, chị Thắm đã chuyển lời cũa ông
già tới những người cao niên trong làng, các cụ hợp mặt ở đình làng (là nơi linh thiêng
nhất trong làng) để bàn chuyện cơ mật. Sau đó các cụ sai người đi gọi mấy anh thanh
niên to khoẽ nhanh nhẹn nhất làng để bàn giao công việc.
Hôm nay là ngày thứ một trăm. Ngay từ lúc gà mới gáy, bà Nhiêu đã tõ vẻ vui mừng
lắm, bà cười nói ầm ĩ và có vẽ chờ đợi điều gì đó. Càng tới gần trưa thì bà lại càng
hoạt bát và dữ tợn. Trong lúc đó, anh chị Trúc không biết bằng cách nào để mang thằng
- bé ra ngoài bởi vì bà nhất quyết không rời nó ra một chút nào. Nghĩ ngơi một lúc, tự
nhiên chị Trúc nãy ra sáng kiến. Cũng vào lúc đó ở trên nhà bà Nhieu đang la hét đòi ăn.
Thay vì chị mang lên cho bà gà luộc như mấy hôm trước thì lần này chị mang cho bà
một con gà mái to còn sống. Thấy con gà, mắt bà sáng rực lên, bà nhào tới giật lấy nó từ
tay chị Trúc, chỉ chờ có thế anh Trúc đang nấp sẳn nhanh như cắt nhảy tới giật lấy
thằng Vinh rồi chạy ra khõi nhà. Bà Nhieu sững người một chút rồi thét lên đuổi theo.
Lúc này bên ngoài mấy người thanh niên và ông già lạ mặt đã chực sẳn, họ lấy cành dâu
quay liên hồi làm bà không dám nhảy ra phía ngoài cửa, tuy nhiên lúc này bà trở nên
nhanh nhẹn và hung dử khác thuong, bà nhảy tới nhảy lui trong ba gian nhà mà chân
không bén dất. Lúc đó, ông già tiến vào nhà, trên tay ông là một nhánh dương liễu và
một bình nước thiêng. Ở phía bên kia (cửa bếp) anh Trúc cũng tiến vào. Bà nhìn thấy
ông già liền nhãy lui lại về phía cửa bếp. Thấy anh Trúc bà rú lên như nhìn thấy con
mồi. Anh Trúc hoảng hốt toan bỏ chạy, ông già vội la to lên “ném bùa vào nó đi, không
thì nó giết chết bây giờ” anh Trúc quay lại lấy hết tinh thần ném một lá bùa về hướng
bà Nhiêu. Thấy lá bùa, bà Nhiêu khựng lại có vẽ sợ hãi nhưng khi thấy anh Trúc ném
trượt, bà tiếp tục nhào lại phía anh. Anh Trúc ném tiếp lá bùa thứ hai, lại trượt. Lúc này
bà Nhieu chỉ còn cách anh Trúc khoảng hai lần với tay, anh Truc chắc mẫm cái chết ở
gần kề rồi. Nhắm mắt quăng liều lá bùa thứ ba. Ðúng là ở hiền gặp lành, lá bùa thứ ba
trúng ngay vào giữa ngực bà Nhiêu. Lúc này hình dáng bà đã hoàn toàn thay đổi. Không
còn chút nào là dáng vóc cũa bà Nhieu lúc trước. Tóc bà dựng ngược, mắt đỏ lòm như
muốn lồi ra khõi hốc mắt, miệng thì ngoác ra nhìn thấy cà hàm răng trắng nhởn. Khi lá
bùa chạm vào người, bà thét lên một tiếng kinh hoàng rồi ngã vật ra đất. Lúc bấy giờ
mọi người kéo vào chật ních trong nhà. Dưới đất bây giờ là một cái xác thối rữa, không
còn một bộ phận nào nguyên vẹn, ngay cả khuôn mặt cũng không còn nhận dạng ra
được nửa. Thì ra đây mới là thể xác thực cũa bà Nhiêu Trinh vì bà chết đã một trăm
ngày rồi.
Ngay ngày hôm đó, anh Trúc lại đem bà đi chôn trong cái hòm mà cách đây hơn ba tháng
bà đã từng nằm trong đó.
Câu chuyện trên đã gần một thế kỷ rồi, bà ngoại tôi lúc đó mới chỉ mười ba tuổi. Bà tôi
đã qua đời cách đây hai mươi lăm năm và hưỡng thọ tám mươi bãy.
*********************** Hết ***********************
nguon tai.lieu . vn