Xem mẫu

  1. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Năm 1986 là một năm đánh dấu sự chuyển biến lớn trong tư duy kinh tế của Việt Nam, từ nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường - mở cửa hội nhập với xu thế chung của thế giới. Đi song song với vấn đề hội nhập là sự gia tăng các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế đa dạng trong đó thương mại quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Qua hơn hai thập kỷ mở cửa phát triển, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên 120 quốc gia trên thế giới, ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và Thoả thuận về Quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đặc biệt phải kể tới Mỹ. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một bước ngoặc lớn mở ra mối quan hệ thương mại sâu rộng giữa hai nước. Thực chất mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã được “hàn gắn” từ năm 1995 khi hai nước thiết lập mối quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, những người có tư tưởng tiến bộ và tầm nhìn chiến lược trong bộ máy lãnh đạo của cả hai nước đều nhận thức ra rằng bao nhiêu đó là chưa đủ cho mối quan hệ kinh tế và chính trị một cách lâu dài và chưa xứng đáng với tiềm năng thương mại giữa hai nước khi không có một khuôn khổ mang tính chất pháp lý nào ràng buộc mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chính vì lý do đó mà Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã ra đời bất chấp sự phản đối của một số cá nhân trong nội bộ lãnh đạo của cả hai nước. Trải qua vô vàng những khó khăn và thời gian đàm phán kéo dài lên đến 4 năm với 11 vòng đàm phán cuối cùng Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ cũng đã ra đời đáp ứng sự kỳ vọng về mối quan hệ thương mại của các cá nhân có tầm nhìn chiến lược của cả Việt Nam và Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết (hoàn tất vào ngày 13/7/2000) đã mở ra nhiều triển vọng cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ - một thị trường tiêu thụ khổng lồ với nhiều phân đoạn thị trường chưa được khai thác. Bên cạnh những thuận lợi mà thị trường Mỹ mở ra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, hàng hoá của ta còn gặp phải rất nhiều thách thức khi tiếp cận thị trường này. Chính vì vậy việc tìm ra những tác động cũng như những cơ hội, thách thức và những biện pháp hiệu quả giúp cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận và trụ vững ở thị trường Mỹ là một việc làm vô cùng cần thiết. Đây SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 1
  2. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến cũng là lý do khách quan khiến tôi chọn đề tài: “ Phân tích tác động của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ” để có một cái nhìn sâu rộng hơn về hiệu quả của hiệp định thương mại mang tính chất song phương này. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung Tìm hiểu chung về Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (Hiệp định BTA), phân tích những tác động tích cực và tiêu cực do Hiệp định BTA mang lại cho quá trình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ, từ đó đưa ra những giải pháp thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ một cách hiệu quả hơn. 2.2. Mục tiêu cụ thể Tìm hiểu chung về Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Phân tích những tác động của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Giải pháp thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có tác động sâu rộng đến nhiều mặc hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên đề tài này sẽ đi sâu phân tích tác động của Hiệp định trên đến các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hoa Kỳ như hàng dệt may, các sản phẩm từ thủy hải sản, giầy dép cũng như những mặt hàng xuất khẩu tiềm năng khác. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài dựa trên số liệu thứ cấp trong giai đoạn trước và sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết, được thu thập qua sách, báo, đài, tạp chí, internet... Đề tài sử dụng phương pháp thống kê – mô tả để phản ánh về tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ qua các giai đoạn trước và sau khi Hiệp Định BTA được ký kết. Phương pháp phân tích – tổng hợp để thấy được những tác động của Hiệp định BTA. Phương pháp suy luận logic và học hỏi kinh nghiệm của các nước khác để đưa ra những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 2
  3. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến 5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Ngoài phần giới thiệu, nội dung của đề tài gồm những phần chính sau: Chương I: Các vấn đề chung về Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ Chương II :Tác động của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ Chương III: Các giải pháp thúc đẩy xuất khảu hàng hóa Việt Nam sang Hoa Kỳ. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 3
  4. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ 1.1. BỐI CẢNH CUỘC ĐÀM PHÁN THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ 1.1.1. Bối cảnh của cuộc đàm phán Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nếu muốn nền kinh tế quốc dân của mình tồn tại và phát triển. Trong ba giai đoạn phát triển của quá trình toàn cầu hóa thì ở giai đoạn thứ ba (bắt đầu từ năm 1980 đến nay) quá trình này diễn ra một cách mạnh mẽ và tác động đến nhiều nền kinh tế trên thế giới dẫn đến việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Thương mại toàn cầu phát triển mạnh mẽ. Đồng thời quá trình phân công, chuyên môn hoá sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các quan hệ sản xuất, thương mại có tính toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền tệ, dòng vốn, dịch vụ...vận động trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động này thêm náo động và nhanh nhậy. Cơ cấu kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ do có sự bùng nổ tự do hoá thương mại toàn cầu. Trước sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế và toàn cầu hóa đã dẫn đến sự xung đột với các thể chế quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đã và đang làm cho những cánh cửa cũng như những hàng rào mậu dịch cũng như phi mậu dịch của một số quốc gia bị lung lay. Việc tự do hoá thương mại, huỷ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, xoá bỏ mọi phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế đã đánh dấu sự hoà nhập các nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi vào một hệ thống đa phương. Như vậy là thời đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa ở một số thị trường lớn, của một số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho các nước kém phát triển đã chấm dứt. Buôn bán quốc tế chuyển sang một thời đại mới đó là mở rộng tự do buôn bán được đánh dấu bằng sự ra đời của WTO và những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác cùng có lợi . SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 4
  5. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến 1.1.2. Việt Nam trước yêu cầu phải hội nhập Việt Nam muốn phát triển thì phải hội nhập cùng xu thế chung của thế giới. Việc hội nhập mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để khai thông thị trường trong nước và quốc tế. Hơn nữa trong bối cảnh lúc bấy giờ Việt Nam đang trên con đường thực hiện đường lối “công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa tiến bộ nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, cải thiện đời sống người dân. Muốn vậy Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất đó là hội nhập. Quá trình hội nhập của Việt Nam đánh dấu từ việc chuyển đổi tư duy kinh tế đất nước từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường phát huy sức mạnh tổng lực từ trong nước và quốc tế mang lại. Hội nhập khu vực và thế giới là một quá trình tất yếu để tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi kinh tế mạnh hơn sang cơ chế thị trường với định hướng hướng mạnh vào xuất khẩu. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, một khu vực phát triển năng động và đạt được độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Các trung tâm kinh tế trên thế giới, các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế, chính trị vào khu vực này và xem đây là nơi chứa đựng nhiều yếu tố quyết định sự phát triển của mình. Việt Nam được các nước lớn ngày càng coi trọng và dần trở thành một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu hoá. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam không muốn tụt hậu thì cần phải thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là với Mỹ - một siêu cường chi phối mạnh mẽ nền kinh tế toàn cầu. 1.2. NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Sở hữu trí tuệ và Quan hệ đầu tư. Do Mỹ đã tuân thủ tất cả các luật lệ của WTO và là một trong những nước tự do hoá thương mại nhất trên thế giới nên hầu như tất cả các điều khoản trong Hiệp định, Mỹ đều thực hiện ngay. Còn Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định các SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 5
  6. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến lộ trình thực hiện cho phù hợp với Việt Nam . Chương 1: Thương mại hàng hoá gồm 9 điều. Chương 2: Quyền Sở hữu trí tuệ gồm 18 điều. Chương 3: Thương mại dịch vụ gồm 11 điều. Chương 4: Phát triển Quan hệ đầu tư gồm 15 điều. Chương 5: Những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình thường. Chương 6: Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng cáo. Chương 7: Những điều khoản chung. Sau đây chúng ta sẽ xem xét những nội dung chủ yếu của Hiệp định. 1.2.1. Thương mại hàng hoá Những quyền về thương mại: Cả hai bên cam kết thực hiện những quyền thương mại theo chuẩn mực quốc tế và WTO. Tuy nhiên, đây là lần đầu Việt Nam đồng ý thực hiện quyền về xuất nhập khẩu một cách cởi mở, tuân theo những quy định chặt chẽ của WTO. Do vậy, những quyền đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các công ty do Mỹ đầu tư, và tất cả các cá nhân và công ty Mỹ hoạt động tại Việt Nam theo Hiệp định này sẽ được tiến hành trong từng giai đoạn từ 3- 6 năm (được áp dụng dài hơn đối với một số mặt hàng nhạy cảm). Quy chế tối huệ quốc: Việt Nam và Mỹ cam kết thực hiện đối xử thuế quan tối huệ quốc đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào mỗi nước (mức thuế quan này là 50% đối với các quốc gia không nhận được MFN). Cắt giảm thuế quan: Việt Nam đồng ý cắt giảm thuế quan (mức cắt giảm điển hình là từ 1/3 đến 1/2 ) đối với một loạt các sản phẩm được các nhà xuất khẩu Mỹ quan tâm như các sản phẩm vệ sinh, phim, máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, xe gắn máy, điện thoại di động, video games, thịt cừu, bơ, khoai tây, cà chua, hành, tỏi, các loại rau xanh khác, nho, táo và các loại hoa quả tươi khác, bột mỳ, đậu tương, dầu thực vật, thịt và cá đã được chế biến, các loại nước hoa quả...Việc cắt giảm thuế quan các mặt hàng này được áp dụng dần dần trong giai đoạn 3 năm. Phía Mỹ thực hiện cắt giảm ngay theo quy định của Hiệp định song phương. Những biện pháp phi quan thuế: Phía Mỹ, theo quy định của WTO sẽ không có những rào cản phi quan thuế (trừ hạn ngạch đối với hàng dệt may); trong khi đó, Việt Nam đồng ý loại bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với một loạt các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp (các linh kiện lắp ráp, thịt bò, các SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 6
  7. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến sản phẩm cam quýt...) trong giai đoạn từ 3 -7 năm, phụ thuộc vào từng mặt hàng. Cấp giấy phép nhập khẩu: Việt Nam sẽ loại bỏ tất cả các thủ tục cấp giấy phép một cách tuỳ ý, và sẽ tuân thủ theo các quy định của Hiệp định WTO. Về việc định giá trị đánh thuế hải quan và các khoản phí hải quan, Việt Nam cần tuân thủ các luật lệ của WTO đối với việc định giá các giao dịch và định giá thuế hải quan, cũng như hạn chế các khoản phí hải quan đánh vào các dịch vụ được thanh toán trong vòng 2 năm.Về phía Mỹ, theo Luật Thương mại Mỹ, các công ty của Việt Nam và các nước khác đều sẽ được cấp giấy phép hoạt động khi có yêu cầu. Những thước đo về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm: Hai bên cam kết tuân thủ theo các tiêu chuẩn của WTO; các quy định về kỹ thuật, và những thước đo về vệ sinh an toàn thực phẩm phải được áp dụng trên cơ sở đối xử quốc gia, và chỉ được áp dụng trong chừng mực cần thiết để giải quyết những mục đích chính đáng (bảo vệ con người, bảo vệ cuộc sống của động vật, sinh vật). Mậu dịch quốc doanh: Cần phải được thực thi theo các quy định của WTO (ví dụ, các doanh nghiệp quốc doanh Việt Nam trước kia chỉ tiến hành các cuộc giao dịch theo những mối quan tâm về thương mại và còn ít quan tâm tới các quy định của WTO). 1.2.2. Thương mại dịch vụ Thương mại dịch vụ được đề cập trong chương 3 của Hiệp định. Chương này áp dụng cho các biện pháp của các bên có ảnh hưởng tới dịch vụ thương mại. Các cam kết chung bao gồm: Các quy định của khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS) bao gồm Tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc gia và Pháp luật quốc gia. Về các lĩnh vực và ngành cụ thể:  Các dịch vụ pháp lý.  Các dịch vụ kế toán, kiểm toán.  Các dịch vụ kiến trúc.  Các dịch vụ kỹ thuật.  Các dịch vụ về vi tính và các dịch vụ liên quan.  Các dịch vụ quảng cáo.  Các dịch vụ tư vấn quản lý. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 7
  8. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến Các dịch vụ viễn thong. Các dịch vụ nghe nhìn. Các dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan. Các dịch vụ phân phối ( bán buôn và bán lẻ). Các dịch vụ giáo dục. Các dịch vụ tài chính. Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan khác. Các dịch vụ y tế. Các dịch vụ du lịch và dịch vụ lữ hành liên quan. 1.2.3. Quan hệ đầu tư Các cam kết chung bao gồm: Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều được nước đối tác cam kết bảo hộ, Việt Nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty Mỹ không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam. Các chuyển khoản tài chính: Cho phép đối tác Mỹ được đem về nước các khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sở đãi ngộ quốc gia. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Phía Mỹ cam kết thực hiện ngay từ đầu, Việt Nam sẽ huỷ bỏ dần các TRIMs không phù hợp với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm như những quy định về tỷ lệ số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước. Đối xử quốc gia: Việt Nam cam kết thực hiện chế độ Đối xử quốc gia với một số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được dần huỷ bỏ hoàn toàn đối với hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2, 6 hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào loại khu vực đầu tư, ví dụ, đầu tư trong các Khu Công nghiệp hay trong khu vực sản xuất), tuy nhiên Việt Nam duy trì quyền áp dụng thẩm tra giám sát trong những khu vực ngoại lệ nhất định. Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện nay đối với phần góp vốn phía Mỹ trong các công ty liên doanh ít nhất phải 30% vốn pháp định; loại bỏ những quy định bán cổ phần phía Mỹ trong liên doanh cho đối tác Việt Nam. Phía Mỹ chưa được thành lập công ty cổ phần và chưa được phát hành cổ phiếu ra công chúng, chưa được mua quá 30% vốn của một công ty cổ phần. Những ràng buộc này sẽ duy trì trong vòng 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 8
  9. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số thành viên nhất định người Việt Nam trong Ban giám đốc; giới hạn mạnh mẽ các vấn đề trong đó “sự nhất trí” của ban giám đốc phải đạt được (ví dụ, trong vấn đề đó các thành viên Việt Nam có quyền phủ quyết); cho phép các nhà đầu tư Mỹ được phép tuyển chọn nhân sự quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch. 1.2.4. Quyền Sở hữu trí tuệ Quyền Sở hữu trí tuệ được đề cập trong chương 2 của Hiệp định. Việt Nam nhất trí tuân thủ hoàn toàn các quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) trong tất cả các lĩnh vực trong một khuôn khổ thời gian ngắn bao gồm: Việc bảo hộ bản quyền và nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 12 tháng; bảo hộ các bí mật thương mại và bản quyền trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 18 tháng. Việt Nam đồng ý thực hiện những biện pháp bảo hộ mạnh mẽ hơn trong một số lĩnh vực khác như tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bảo hộ bản quyền đối với các động vật và thực vật, bảo hộ những dữ liệu kiểm tra bí mật được trình cho các Chính phủ. Đối với trường hợp bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hoá, sẽ được thực hiện theo giai đoạn là 30 tháng. Hiệp định cũng quy định trường hợp có xung đột giữa các quy định của Hiệp định này và Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ về quyền tác giả, ký tại Hà Nội ngày 27/6/1997 thì các quy định của Hiệp định này được ưu tiên áp dụng trong phạm vi xung đột. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 9
  10. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến CHƯƠNG 2 TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ ĐẾN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ 2.1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG HOA KỲ TRƯỚC KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ ĐƯỢC KÝ KẾT 2.1.1. Giai đoạn từ tháng 5 – 1964 đến 1994 Chiến tranh Mỹ - Việt Nam chính thức kết thúc từ thời điểm 23 tháng 9 năm 1973 khi Mỹ làm lễ rút quân khỏi miền Nam nước ta, đánh dấu sự thất bại của Mỹ trên đất nước Việt Nam nhỏ bé. Tuy nhiên câu nói của ông Kissinger rằng: “Người Mỹ không giành chiến thắng trong chiến tranh thì sẽ giành chiến thắng trong thời bình” hay nói cách khác hơn là họ sẽ giành chiến thắng trên “chiến trường kinh tế” đã được minh chứng cụ thể khi Mỹ trong giai đoạn này với nhiều thủ đoạn ra sức cấm vận nền kinh tế Việt Nam còn non trẻ. Thực chất lệnh cấm vận đã được ban bố vào tháng 2 năm 1964 kể từ sau khi Mỹ đơn phương dựng nên sự kiện Vịnh Bắc Bộ (1963). Tuy nhiên sự cấm vận càng được siết chặc hơn khi Việt Nam là đồng minh thân cận của Liên Xô – một đối thủ lớn của Mỹ trên lĩnh vực kinh tế lẫn quân sự và trong khoảng thời gian từ năm 1986 – 1989, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Hoa Kỳ gần như bằng không. Trong khoảng thời gian từ năm 1990 khi “trật tự hai cực I-an-ta” của thế giới tan rã kèm theo đó là sự sụp đỗ của Liên bang Xô Viết thì đường lối đối ngoại của Mỹ cũng như giao thương có nhiều thay đổi và thông thoáng hơn rất nhiều khi Hoa Kỳ xem các nước Châu Á trong đó có Việt Nam là những đối tác chiến lược trong hiện tại và tương lai. Chính vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam có cơ hội xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Năm 1990 trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt khoảng 5.000USD, năm 1991 tăng lên 9.000USD, năm 1992 tăng lên 11.000USD và năm 1993 là 58.000USD. Đây là những dấu hiệu lạc quan cho mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tạo những điều kiện mang tính chất “bản lề” cho việc hàng hóa Việt Nam có mặt tại thị trường Hoa Kỳ và hơn hết là tạo mối quan hệ hòa hảo giữa hai phái đoàn đàm phán Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 10
  11. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến 2.1.2. Giai đoạn 1994 – 2000 Gạt bỏ quá khứ, tiến đến hợp tác cùng nhau phát triển là mục tiêu mà Tổng thống Mỹ Bill Clinton đề ra trong mối quan hệ ban giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Tổng thống Bill Clinton chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Đây có thể nói là một hành động mang tính chất bản lề cho mối quan hệ giữa hai nước, mở ra một triển vọng mới cho sự phát triển thương mại song phương và việc Bộ Thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cuba) sang nhóm Y – nhóm ít hạn chế về thương mại (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam, một số nước Đông Âu và Liên Xô cũ) là một minh chứng cụ thể. Bộ vận tải và Thương mại Mỹ cũng bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam được nhập cảnh từ Mỹ. Cũng trong năm này, Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ lượng hàng hoá trị giá 50,5 triệu USD (trong đó hàng nông nghiệp chiếm 38,3 triệu USD tức 76% giá trị xuất khẩu sang hoa kỳ) và hàng phi nông nghiệp chiếm 12,15 triệu USD (24%). Kim ngạch xuất khẩu 900 827.4 800 KNXK (triệu USD) 700 601.9 600 519.5 500 372 400 306 300 200 200 100 50.5 0 1994 1994 1994 1994 1994 1994 1994 Năm HÌNH 1: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU (KNXK) HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1994 – 2000 (Nguồn: Tồng Cục Hải quan Việt Nam) Qua hình 1 ta nhận thấy KNXK hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ không ngừng gia tăng theo thời gian với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 66,23%/năm. Đây có thể nói là một dấu hiệu lạc quan cho mối quan hệ thương mại giữa hai nước khi Hoa Kỳ đang chủ động tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ. Đặc biệt năm 1995 KNXK tăng gấp 4 lần SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 11
  12. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến so với năm 1994. Năm 1997, Đại sứ Mỹ và Đại sứ Việt Nam nhậm chức tại Thủ Đô mỗi nước, đồng thời hai nước thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện cho sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam. Vì vậy xuất khẩu của Việt Nam trong năm này sang Mỹ đạt 372 triệu USD, trong đó hàng nông nghiệp chiếm 46% (106,5 triệu USD) hàng phi nông nghiệp đạt 54% (126,203 triệu USD). Đây cũng chính là nguyên nhân duy trì và không ngừng tăng trưởng trong KNXK của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trong cơ cấu các loại hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì các mặt chủ lực như thủy sản, giày dép, dệt may đóng góp một phần quan trọng trong tổng KNXK. Hoa Kỳ là quốc gia có nhu cầu tiêu dùng thủy sản rất cao (lớn thứ hai thế giới sau Nhật Bản) và nhu cầu này không ngừng gia tăng theo các năm. Năm 1992 Mỹ phải nhập đến 4,8 tỷ USD thủy sản, đến năm 1998 con số này đã tăng lên 6,7 tỷ USD tức tăng 40% so với năm 1992 và đỉnh điểm là năm 1999 với 9,3 tỷ USD. Tuy thủy sản là mặt hàng xuất khẩu muộn sang Hoa Kỳ nhưng kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng. Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 10 trong 130 nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ và tới tháng 4 năm 2000 Việt Nam đứng ở vị trí thứ 8. Kể từ năm 1994 Mỹ đã bắt đầu nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhưng với một kim ngạch rất khiêm tốn chỉ đạt khoảng 6 triệu USD. Tuy nhiên Việt Nam gặp được thuận lợi khi thủy sản là mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ vì trong giai đoạn này Việt Nam chưa được hưởng chế độ MFN (Most Favoured Nation – Thuế quan “tối huệ quốc”) của Hoa Kỳ, hơn nữa mức thuế suất MFN và thuế suất phi MFN chênh lệch không cao. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 12
  13. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến BẢNG 1: MỨC THUẾ NHẬP KHẨU CỦA MỸ ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN NHẬP KHẨU Đvt: %, cents/kg Thuế suất phi Tên hàng Thuế suất MFN MFN Cá sống 0 0 Tôm các loại 0 0 Nghêu, sò 0 0 Cá tươi, ướp lạnh, ướp 0 0 – 5.5 cents/kg đông Cá sau khi cắt bỏ phi-lê, 0 2,2-4,4 cents/kg ướp đông Thịt cua 7,5 15 Ốc 5 20 Cá khô, ướp muối, xông 4-7 25-30 khói (Nguồn : Bộ Thương mại) Qua bảng 1 ta có thể thấy tuy mức thuế suất phi MFN trong giai đoạn này của Hoa Kỳ được áp theo phương pháp tương đối và tuyệt đối nhưng mức thuế ấy là không cao. Với thuận lợi đó mặt hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Nếu năm 1995 đạt 16,8 triệu USD thì năm 1996 tăng lên 28,5 triệu USD, năm 1997 là 46,3 triệu USD và năm 1998 tăng lên 80,6 triệu USD. Như vậy trong giai đoạn từ năm 1995 đến 1998 tốc độ tăng trưởng của hàng thủy sản đạt trung bình 51,55%/năm và theo tính toán của tổng cục thống kế nước ta cho thấy trong giai đoạn 1995 – 1999 kim ngạch xuất khẩu của thủy sản tăng 6,5 lần và năm 2000 thủy sản vị trí dẫn đầu trong danh mục hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ với kim ngạch 242,9 triệu USD chiếm 29,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Sự gia tăng không ngừng trong KNXK thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam vừa trãi qua một cuộc “chỉnh đốn” và đổi mới mạnh mẽ sau khi nền kinh tế “quan liêu bao cấp” tan rã là một thành tựu rất đáng khích lệ và có tác động tích cực đến việc xuất khẩu các các mặt hàng thủy sản nói riêng và các mặt hàng thế SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 13
  14. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến mạnh của Việt Nam nói chung cũng như các mặt hàng triển vọng khác. Trong giai đoạn 1994 – 2000, Việt Nam là được biết đến là một quốc gia có lợi thế so sánh (theo lý thuyết lợi thế so sánh giữa các quốc gia của David Ricardo) là nguồn nhân công dồi dào và rẻ tiền hơn so với nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy việc phát triển các ngành nghề dựa vào lợi thế ấy luôn được chính phủ chú trọng và dệt may là một trong những ngành được chính phủ quan tâm. Cũng như thủy sản hàng dệt may cũng được xuất khẩu sang thị trường Mỹ từ năm 1994. Theo thời gian kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ không ngừng gia tăng trong những năm từ năm 1994 đến năm 2000. 50 46.7 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 45 40 36.5 35 30 29.9 28.44 25 25.92 25.2 23.6 20.6 21.34 20 20.01 16.87 16.8 15 15.09 10 11.3 7.1 5 5.32 2.56 2.45 3.59 1.78 0 0.11 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Năm Hàng dệt Hàng may Tổng cộng HÌNH 2: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ TRONG GIAI ĐOẠN 1994 – 2000 (Nguồn: USITC trade Database) Tuy nhiên có hai vấn đề mà chúng ta cần nhìn nhận đối với kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong giai đoạn 1994 – 2000 khi xem qua hình 2. Thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng, nhưng với một mức rất thấp. Tăng cao nhất là năm 2000 nhưng cũng chỉ đạt 46,7 triệu USD còn chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, có sự chênh lệnh đáng kể trong cơ cấu xuất khẩu giữa hàng dệt và hàng may. Một vấn đề khác cần được xem xét đó là việc hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ là còn quá thấp so với tiềm năng của nước ta và nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may hàng năm của Mỹ mà hình 2 là một minh chứng cụ thể. Điều đó cho thấy việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ còn gặp nhiều khó khăn do dệt may Việt Nam là một mặt SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 14
  15. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến hàng còn khá mới mẽ trong mắt người tiêu dùng Hoa Kỳ. Bên cạnh đó thực trạng trên còn phản ánh năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém khi hàng hóa chưa đạt chất lượng cao, thiếu sự đa dạng trong mẫu mã và chưa gầy dựng được thương hiệu. Một vấn đề quan trọng hơn là chính phủ trong giai đoạn này cũng chưa đưa ra được các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa dệt may sang Hoa Kỳ, định hướng cho các doanh nghiệp chưa phát huy tác dụng khi các doanh nghiệp dệt may còn khá mơ hồ về những gì mà người tiêu dùng Hoa Kỳ đang cần hay nói một cách khác các doanh nghiệp dệt may chưa có sự am hiểu một cách cần thiết về thị trường Hoa Kỳ. 70 Kim ngạch nhập khẩu (tỷ 60 60 50 50 43 USD) 40 30 20 10 0 1994 1995 1998-1999 Năm Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD) HÌNH 3: NHU CẦU NHẬP KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA HOA KỲ QUA MỘT SỐ NĂM (Nguồn: Bộ Thương Mại Hoa Kỳ) Cũng như hàng dệt may, giầy dép cũng là một mặt hàng thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Khác so với các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, giày dép có mặt tại Hoa Kỳ từ trước năm 1994 nhưng với một kim ngạch xuất khẩu khá thấp chỉ đạt khoảng 0.069 triệu USD. KNXK của giầy dép trước năm 1994 còn thấp là do mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong giai đoạn trước 1994 chưa được mở rộng và cải thiện. Tuy nhiên từ năm 1994 kim ngạch xuất khẩu của giày dép sang Hoa Kỳ liên tục tăng và từ năm 1996 giày dép vươn lên mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 5 trong các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Hoa Kỳ đứng đầu về tỷ trọng trong tất cả các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của giày dép chỉ đứng thứ ba sau SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 15
  16. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến thủy sản và cà phê với kim ngạch 124,5 triệu USD. Sự tụt giảm thứ hạng trong KNXK giầy dép là do sự vươn lên mạnh mẽ của các mặt hàng xuất khẩu khác như dệt may, thủy sản, cà phê, dầu thô. Đây là một tín hiệu đáng mừng khi Việt Nam ngày càng có nhiều thêm các loại hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ đóng góp một phần quan trọng vào sự đa dạng chủng loại, tạo ra sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các ngành hàng trong cuộc đua hoàn thiện về chất lượng, chủng loại cũng như thương hiệu để xâm nhập và trụ vững tại thị trường Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD) 160 145.7 140 114.9 120 97.6 100 80 60 39.1 40 20 3.3 3.55 0 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Năm Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD) HÌNH 4: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ TRONG GIAI ĐOẠN 1994 – 1999 (Nguồn: Bộ Thương Mại) Dựa vào hình 4, ta thấy kim ngạch xuất khẩu giày dép sang Hoa Kỳ không ngừng gia tăng qua các năm. Đỉnh điểm là sự gia tăng mạnh mẽ vào năm 1996 và năm 1997 với 101,4% và 149,4%. Hai con số ấn tượng này đánh dấu những thành công bước đầu và mở ra những triển vọng mới trong tương lai cho giày dép Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ. Nguyên nhân của sự gia tăng không ngừng này là do từ thời điểm năm 1996 Việt Nam và Hoa Kỳ đã ngồi vào bàn đàm phán về Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước. Và việc Hoa Kỳ tăng cường nhập khẩu hàng hóa Việt Nam như một động thái tích cực cho cuộc đàm phán trở nên thành công. Trong giai đoạn 1994 – 2000, tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ có nhiều dấu hiệu khả quan mà cụ thể là các mặt hàng thế mạnh của ta. Tuy nhiên các mặt hàng Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ còn chưa xứng đáng với tiềm năng thương mại của cả hai nước. Mặt khác hàng hóa Việt Nam xuất sang SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 16
  17. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến Hoa Kỳ trong thời gian này còn có trị giá xuất khẩu thấp do chất lượng hàng hóa của ta còn thấp. Hơn nữa Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước chưa được ký kết nên hàng hóa Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ còn gặp nhiều trở ngại và không được hưởng những ưu đãi của Hoa Kỳ như Hoa Kỳ dành cho các nước khác trong giai đoạn này. 2.2. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ TỪ SAU KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ ĐƯỢC KÝ KẾT Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới cho hàng hóa Việt Nam trên con đường đến với người tiêu dùng Hoa Kỳ. Hiệp định mang tính chất song phương này có những tác động tích cực đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Vào thời điểm năm 2003, tức sau hai năm Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết thì kim ngạch xuất khẩu (KNXK) hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng gấp 4 lần từ 1,05 tỷ USD vào thời điểm năm 2001 lên 4,55 tỷ USD vào năm 2003. Và kể từ đó cho đến nay Hoa Kỳ luôn là thị trường giành vị trí số một về việc tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam. Đây có thể được xem là thành công lớn mà hiệp định thương mại mang lại cho cả Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhập khẩu Xuất khẩu Cán cân thương mại 16000 14,784 14000 12000 11,356 11,245 Triệu USD 10000 10,089 9,233 8000 7,829 8,389 8,350 6,847 6,598 6000 5,905 5,042 4000 3539 2,635 3,006 2000 1,700 863 982 0 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Năm HÌNH 5: THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI ĐOẠN 2005 – 2010 (Nguồn: Tổng cục Hải Quan) Dựa vào hình 5 ta thấy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không ngừng phát triển theo thời gian với tốc độ tăng trưởng đạt trung bình đạt 20%/năm. Trong đó Việt Nam luôn xuất siêu so với Hoa Kỳ. Đặc biệt vào năm SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 17
  18. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến 2007 – tức sau 6 năm Hiệp định thương mại được ký kết, KNXK hàng hóa Việt Nam tăng mạnh đạt tốc độ tăng trưởng 28,9%. Cũng trong năm 2007 Việt Nam vượt qua nhiều đối thủ lớn như Phi-lip-pin, Tây Ban Nha, Cô-lôm-bi-a…để lọt vào top 30 nhà xuất khẩu lớn nhất vào Hoa Kỳ. Sự thành công đó có sự đóng góp không nhỏ của các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, thủy sản…Trong hai năm 2008 và 2009, nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào khủng hoảng nhưng KNXK của Việt Nam vẫn ở mức cao mặc dù có sự suy giảm vào năm 2009 nhưng không đáng kể. Điều đó chứng tỏ cuộc khủng hoảng kinh tế từ cuối năm 2007 đến 2008 ít ảnh hưởng đến các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể năm 2009 Hoa Kỳ vượt qua Nhật Bản để trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam chỉ sau Trung Quốc. Trong năm 2009 kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước tăng 65 lần so với trước khi lệnh cấm vận kinh tế của Hoa Kỳ với Việt Nam được dỡ bỏ. Từ chỗ kim ngạch thương mại giữa Việt Nam - Hoa Kỳ chỉ dưới 1 tỷ USD vào những năm 1995 – 2000, đến năm 2009 đạt tới 15,4 tỷ USD và kỷ lục 18 tỷ USD vào năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 2010 đạt 14,24 tỷ USD, chiếm 19,72% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước năm 2010, tăng 25,38% so với năm 2009 đóng góp quan trọng vào tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước. Điều đó cho thấy Hiệp định thương mại đã và đang phát huy tác dụng một cách hiệu quả. Về phía các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình tại thị trường Mỹ về mẫu mã, chất lượng cũng như thương hiệu. Đó là kết quả nỗ lực từ phía Nhà nước và cả về phía các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy dưới sức ép của người tiêu dùng Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng nổ lực để ngày càng hoàn thiện sản phẩm của mình khi có ngày càng nhiều các doanh nghiệp đạt được các tiêu chuẩn chất lượng của Hoa Kỳ như tiêu chuẩn HCCAP, GLOBAL GAP, ISO… Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi thì hàng hóa Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn. Từ năm 2006 một số cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại ký kết với Hoa Kỳ có hiệu lực. Trong khi tiềm lực của một số doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh để có thể đưa hàng hóa cạnh tranh mạnh mẽ với nhiều hàng hóa tại Mỹ đến từ nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh đó tính đến thời điểm năm 2010 Việt Nam vẫn chưa được hưởng GSP của Hoa Kỳ và phải chịu SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 18
  19. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến thuế chống bán phá giá ở một số mặt hàng chủ lực như tôm, cá tra… Trong sự tăng trưởng mạnh mẽ của KNXK hàng hóa Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể nói sự đóng góp của các mặt hàng chủ lực như thủy sản, dệt may, giày dép là không nhỏ. Kể từ khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được ký kết thì nó có những tác động nhất định đến nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam từ số lượng, chất lượng, trị giá cho đến cơ cấu các mặt hàng. Nhưng dệt may, giày dép và thủy sản vẫn là những mặt hàng chịu tác động sâu rộng nhất. 2.2.1. Thủy Sản Từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt được nhiều thành công. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của thủy sản sang Hoa Kỳ luôn đạt 20%. Nếu như năm 2001 KNXK thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 478,227 triệu USD thì bước sang năm 2002 con số này đã là 616,029 triệu USD tức tăng 28,82%. Bước sang năm 2003 KNXK thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ với mức tăng 18,58 %, mức tăng thấp hơn năm 2002 nhưng vẫn đạt kim ngạch khá cao 730,5 triệu USD. Sự tăng trưởng này đánh giá thành công bước đầu và những năm gần đây thủy sản của Việt Nam luôn là lựa chọn số một của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ trong số 17 đối tác có thủy sản xuất khẩu sang nước này. BẢNG 2: KHỐI LƯỢNG VÀ TRỊ GIÁ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG HOA KỲ TỪ NĂM 2004 – 2010 Sản lượng (1000 Năm Giá trị (triệu USD) tấn) 2004 85 600 2005 86,5 640 2006 100 670 2007 103 715 2008 110 750 2009 123 713 2010 186 900 (Nguồn: http://vietfish.org) Dựa bảng 2 ta thấy trong các năm từ 2004 – 2008 trị giá xuất khẩu của thủy sản Việt Nam sang Hoa Kỳ đều thấp hơn thời điểm năm 2003. Tuy nhiên xét về lượng xuất các năm trên ta thấy trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 19
  20. Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến có sự cải thiện rõ rệt. Trong hai năm 2008 và 2009 cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến sự chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ vào các loại hàng hóa nói chung và thủy sản nói riêng. Tuy nhiên trị giá xuất khẩu cũng như khối lượng thủy sản Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ đều cao hơn các năm trước đó. Năm 2009, Việt Nam xuất gần 123.000 tấn thủy sản sang thị trường Mỹ, trị giá trên 713 triệu USD, tăng 14.6% về khối lượng nhưng giảm 4,2% về giá trị. Năm 2010, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ đạt 168.000 tấn, trị giá 900 triệu USD, tăng đáng kể so với cùng kỳ năm 2009, nhất là tốc độ tăng giá trị (37,4%) bằng gần gấp rưỡi so với khối lượng (23,7%). Như vậy thủy sản xuất khẩu sang Mỹ đã có cải thiện đáng kể về giá và mức độ chế biến. Từ đầu những năm 2000, Mỹ đã trở thành một trong ba thị trường tiêu thụ nhiều nhất thủy sản của Việt Nam, mặc dù có hai vụ kiện “chống bán phá giá” (CBPG) đối với tôm và philê cá tra đông lạnh. Những năm gần đây, giá trị xuất khẩu sang Mỹ thường chiếm khoảng 16-22% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính của Việt Nam gồm tôm, chiếm 26,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam; cá tra (11% tổng xuất khẩu cá tra); cá ngừ (45,3%); nhuyễn thể (3,7%). Hiện nay Việt Nam là nước cung cấp thủy sản lớn thứ 5 cho thị trường Mỹ và chiếm một thị phần đáng kể trong kim ngạch nhập khẩu hàng thủy sản hàng năm của Hoa Kỳ. Tuy nhiên nhu cầu tiêu dùng thủy sản của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng vì vậy kim ngạch nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam phải được cải thiện. Từ năm 2000 đến 2007, nhập khẩu thủy sản của Mỹ liên tục tăng, đạt tới giá trị kỷ lục vào năm 2007 với 13,696 tỷ USD. Tuy có sự giảm sút từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, nhưng vẫn ở mức cao cụ thể năm 2009 Mỹ vẫn phải nhập 13,1 tỷ USD thủy sản để phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Năm 2009 KNXK thủy sản Việt Nam chỉ chiếm 5% tức tương đương 0,655 tỷ USD trong tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ. Mức xuất khẩu này là rất thấp so với tiềm năng của Việt Nam, và thấp hơn các nước trong khu vực Đông Nam Á có thủy sản xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Cụ thể In-đô-nê-xi-a chiếm 6% còn Thái lan đạt mức ấn tượng với 16%. SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 20
nguon tai.lieu . vn