- Trang Chủ
- Triết học
- CHƯƠNG IX LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
Xem mẫu
- CHƯƠNG IX
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ VAI
I.
TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ
1. Những cơ sở xuất phát để xây dựng
1.
lý luận hình thái kinh tế-xã hội
- Các quan điểm trước Mác
Các
Trong lịch sử, đã có nhiều cách xuất phát để
xem xét xã hội:
- - Chủ nghĩa duy tâm khách quan và tôn
giáo: xuất phát từ một lực lượng siêu tự
nhiên.
- Một khuynh hướng khác, xuất phát từ
chính con người, từ chính xã hội loài người -
đó là trào lưu chủ nghĩa nhân bản. Tuy
nhiên, do hạn chế duy vật máy móc siêu
hình, duy tâm chủ quan nên những nhà triết
học thuộc trào lưu này chưa có cái nhìn toàn
diện đời sống xã hội.
- Chẳng hạn, chủ nghĩa duy vật Phoiơbac,
chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre đều
tự coi mình là chủ nghĩa nhân bản, nhưng
chủ nghĩa nhân bản của Phoiơbắc thì xuất
phát từ con người trừu tượng tách rời quan
hệ xã hội và hoạt động thực tiễn, còn chủ
nghĩa hiện sinh thì xem con người như một
thực thể ý thức thuần túy, cuộc sống con
người là phi lý (không thể dùng lý trí để giải
thích được).
- - Quan điểm triết học mácxít
Quan
Xây dựng CNDV lịch sử, Mác và
Ăngghen xuất phát từ tiền đề sau đây:
+ Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử
là sự tồn tại của những cá nhân con
người đang sống.
- C. Mác và Ph. Ăngghen viết:
“Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không
phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo
điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta
chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là
những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ,
những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như
những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo
ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm
nghiệm bằng con đường kinh nghiệm thuần túy”.
(C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.3, tr. 28-29).
- - Hoạt động xã hội cơ bản của con người
trước hết là lao động sản xuất vật chất.
Sản xuất là hành vi lịch sử đầu tiên của
con người, là yếu tố cơ bản phân biệt con
người với con vật, là động lực cơ bản nhất
của sự phát triển của xã hội, là cơ sở nảy
sinh tất cả những hiện tượng khác trong đời
sống xã hội.
- Mỗi thời kỳ lịch sử có một cách thức sản
xuất nhất định, gọi là phương thức sản
xuất.
Loài người đã biết đến 5 phương thức sản
xuất (PTSX): cộng đồng nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, TBCN và XHCN.
- PTSX trước hết là phương thức sinh sống
của con người, con người sống như thế nào,
trước hết phụ thuộc vào việc họ sản xuất
như thế nào.
- C. Mác và Ph. Ăngghen viết:
“Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất
ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra
sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là
một phương tiện hoạt động nhất định của những cá
nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động
sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định
của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ
là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn
khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất
ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó, những cá
nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những
điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”
(C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.3, tr. 30).
- - Phương thức sản xuất quy định đời sống
chính trị, tinh thần, quan hệ dân tộc, nhà
nước.
“Những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo
một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan
hệ xã hội và chính trị nhất định... Cơ cấu xã hội và nhà
nước luôn luôn nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của
những cá nhân nhất định, ... của những cá nhân đúng như
trong hiện thực, nghĩa là đúng như họ đang hành động,
sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành
động trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất
nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ” (Sđd, t.3, tr.
36).
- - Trên cơ sở PTSX, các nhà sáng lập ra
CNDV lịch sử tiến lên phân tích hai
mặt của PTSX là lực lượng sản xuất
(LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX).
LLSX quy định QHSX.
QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX.
QHSX tác động trở lại (thúc đẩy hay
kìm hãm) sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
- - PTSX là yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
(TTXH).
TTXH là đời sống vật chất của xã hội.
Xã hội còn có đời sống tinh thần phong phú
bao gồm những hình thái ý thức xã hội
(YTXH), những hoạt động tinh thần gắn liền
với những hình thái ý thức xã hội đó.
Các nhà sáng lập ra CNDVLS chỉ ra mối quan
hệ giữa TTXH và YTXH, vai trò quyết định của
TTXH đối với YTXH và sự tác động to lớn của
YTXH trở lại TTXH.
- 2. Cấu trúc xã hội và phạm trù hình thái
2.
kinh tế-xã hội
Các nhà triết học trước Mác khi nghiên cứu xã hội chỉ
xem xét một mặt, tuyệt đối hóa một bộ phận nào đó của
xã hội, do đó chưa đưa ra được một mô hình lý luận phản
ánh xã hội trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó.
Xã hội loài người là một bộ phận, một trình độ
phát triển cao nhất của thế giới vật chất nên cấu
trúc của nó vô cùng phức tạp bao gồm nhiều mặt,
nhiều lĩnh vực, nhiều bộ phận có mối liên hệ tác
động lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Do đó, xem xét
xã hội đòi hỏi phải có một cách tiếp cận toàn
diện.
- Đóng góp khoa học của Mác và Ăngghen là
các ông đã xác định đúng vị trí, vai trò của
từng mặt, từng bộ phận, vạch ra mối liên hệ
bản chất, tất yếu giữa các mặt, các bộ phận
của xã hội và chỉ ra quy luật vận động, phát
triển của xã hội với tính cách là một hệ thống
toàn vẹn.
Tất cả những mặt, những mối liên hệ,
những quy luật vận động, phát triển của xã
hội được các ông nghiên cứu trong chỉnh thể
và được phản ánh trong phạm trù hình thái
kinh tế-xã hội.
- Trong Lời nói đầu tác phẩm Góp phần phê phán khoa
Kinh tế chính trị, Mác viết:
“Kết quả chung mà tôi đã đạt được và đã trở thành
kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của tôi, có
thể trình bày vắn tắt như sau. Trong sự sản xuất xã hội
ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất
định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản
xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất
ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất
định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. (Toàn tập, t.13,
tr. 14-15).
- Xã hội là tổng hợp tất cả những quan hệ
giữa người với người.
Quan hệ xã hội có nhiều mặt, trong đó, Mác
coi quan hệ kinh tế tức quan hệ sản xuất là
quan hệ cơ bản nhất, là cơ sở nảy sinh và
phát triển của tất cả những quan hệ xã hội
khác.
Lênin nhận xét: “Bằng cách là trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật
riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả
mọi quan hệ xã hội ông đã làm nổi bật riêng những
quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản,
ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác”.
- “Cho đến nay, trong cái mạng lưới phức tạp những
hiện tượng xã hội, các nhà xã hội học lúng túng
không phân biệt được những hiện tượng nào là quan
trọng, và những hiện tượng nào là không quan trọng
(đó là căn nguyên của chủ nghĩa chủ quan trong xã
hội học), và họ không thể tìm được một tiêu chuẩn
khách quan cho sự phân biệt đó. Chủ nghĩa duy vật
đã cung cấp một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan
bằng cách tách riêng những quan hệ sản xuất, với tư
cách là cơ cấu của xã hội, và bằng cách cho chúng ta
có khả năng ứng dụng vào những quan hệ ấy cái tiêu
chuẩn khoa học chung về tính lặp lại, tiêu chuẩn mà
phái chủ quan cho là không thể đem ứng dụng vào xã
hội học được.
- Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội,
QHSX không tách rời lực lượng sản
xuất.
Mác chỉ ra rằng QHSX phải phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX.
LLSX và QHSX hợp thành một
phương thức sản xuất.
Sự thay đổi trong LLSX dẫn đến sự
thay đổi trong PTSX.
- C. Mác viết:
“Do có được những lực lượng sản xuất
mới, loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình, và do thay đổi phương thức
sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã
hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công
nghiệp.”
(C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 4, tr. 187)
- Ngoài những quan hệ kinh tế, Mác còn chỉ
ra rằng mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn bao
gồm các quan hệ về chính trị, pháp quyền,
đạo đức và các hình thái ý thức xã hội.
Toàn bộ những quan hệ kinh tế tạo thành
“cơ sở hạ tầng” (tức kết cấu bên dưới) của
xã hội; còn các quan hệ chính trị, pháp quyền,
đạo đức và các hình thái ý thức xã hội tạo
thành “kiến trúc thượng tầng” (tức kết cấu
bên trên) của xã hội.
- Như vậy, Hình thái kinh tế-xã hội là
một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn phát triển nhất định trong lịch sử
với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã
hội đó phù hợp với LLSX ở một trình
độ phát triển nhất định và một KTTT
dựng bên trên những QHSX đó.
nguon tai.lieu . vn