Xem mẫu
- Chương 7
MÔ HÌNH TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Sự biến động của nền kinh tế là vấn đề mà các nhà kinh tế cũng như các nhà lập
chánh sách cần giải quyết. Thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế ở các nước
thường không đều đặn mà lại lên xuống theo chu kỳ. Suy thoái kinh tế, là hiện
tượng thu nhập giảm và thất nghiệp tăng, cũng xảy ra. Suy thoái kinh tế thường
đi kèm với việc cắt giảm thời gian làm việc làm cho nhiều lao động chỉ có việc
làm bán thời gian và ít lao động có việc làm đủ thời gian. Các nhà kinh tế gọi sự
biến động lên xuống của sản lượng và nhân dụng theo thời gian là chu kỳ kinh tế.
Mặc dù thuật ngữ chu kỳ kinh tế hàm ý rằng sự biến động của nền kinh tế
là thường xuyên và có thể dự đoán được nhưng cả hai không phải luôn xảy ra.
Suy thoái kinh tế cũng không phải là quá thường xuyên. Phần 3 của quyển sách
này sẽ xây dựng mô hình giải thích sự biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn.
Do GDP thực là chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động của nền kinh tế một cách
tốt nhất nên nó chính là tiêu điểm của các mô hình trong chương này.
Cũng giống việc cố gắng ngăn ngừa lụt lội bằng các con đập, các nền kinh
tế cố gắng kiểm soát chu kỳ kinh tế bằng các chánh sách kinh tế phù hợp. Mô
hình trong chương này và các chương sau sẽ minh họa ảnh hưởng của chánh sách
tài chánh và chánh sách tiền tệ đến nền kinh tế trong ngắn hạn. Ta sẽ thấy các
chánh sách này có tác dụng làm bình ổn hay làm xấu đi các biến động kinh tế như
thế nào.
I. NGẮN HẠN, DÀI HẠN VÀ MÔ HÌNH CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỘNG KINH
TẾ
Tất cả các phân tích trước đây đều dựa trên lý thuyết kinh tế học cổ điển và sự
bất lực của chánh sách tiền tệ. Lý thuyết kinh tế học cổ điển chia các biến số
kinh tế thành các biến số thực (đo lường số lượng hay giá tương đối) và biến số
danh nghĩa (đo lường bằng tiền). Theo lý thuyết này, sự thay đổi của số cung tiền
chỉ ảnh hưởng đến các biến số danh nghĩa mà không ảnh hưởng đến các biến số
thực. Kết quả của điều này là ta có thể phân tích các yếu tố quyết định các biến
số thực (GDP thực, lãi suất thực, v.v.) mà không cần đến các biến số danh nghĩa
(như số cung tiền hay giá).
Liệu các luận điểm của lý thuyết kinh tế học cổ điển có đúng với thực tế
đang diễn ra không? Câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng trong việc tìm
hiểu cơ chế vận hành của nền kinh tế: Hầu hết các nhà kinh tế đều tin rằng lý
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
thuyết kinh tế học cổ điển chỉ phù hợp với thực tế trong dài hạn mà không phù
hợp với ngắn hạn. Trong dài hạn, sự thay đổi trong số cung tiền ảnh hưởng đến
giá và các biến số danh nghĩa khác nhưng không làm thay đổi GDP thực, thất
nghiệp và các biến số thực khác. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sự thay đổi của nền
kinh tế qua từng năm, giả định sự bất lực của chánh sách tiền tệ không còn đúng.
Hầu hết các nhà kinh tế tin rằng trong ngắn hạn các biến số thực và danh nghĩa
có quan hệ với nhau. Đặc biệt, sự thay đổi trong số cung tiền có thể làm chệch
sản lượng của nền kinh tế ra khỏi sản lượng dài hạn (hay sản lượng tiềm năng).
Để tìm hiểu nền kinh tế trong ngắn hạn, ta cần có mô hình mới. Mô hình
này dựa trên các khái niệm đã xây dựng trước đây nhưng sẽ bỏ qua các luận điểm
của kinh tế học cổ điển và sự bất lực của chánh sách tiền tệ. Mô hình biến động
kinh tế ngắn hạn tập trung vào hai biến số kinh tế cơ bản, đó là GDP thực và CPI
hay chỉ số điều chỉnh GDP. GDP thực là biến số thực, trong khi giá là biến số
danh nghĩa. Bằng cách nghiên cứu mối quan hệ giữa hai biến số này, ta có thể
thấy được khiếm khuyết của lý thuyết kinh tế cổ điển. Ta sẽ phân tích biến động
kinh tế một cách tổng quát với mô hình tổng cung và tổng cầu.
II. TỔNG CẦU AD
Tổng cầu AD thể hiện mối quan hệ giữa số cầu đối với sản phẩm và giá cả tổng
thể của nền kinh tế. Nói cách khác, đường AD cho biết số lượng hàng hóa mà
người dân một quốc gia sẽ mua ở mỗi mức giá khác nhau. Ở đây, ta sẽ sử dụng
lý thuyết định lượng tiền để xây dựng mô hình đơn giản về tổng cầu.
II.1. Lý thuyết định lượng tiền và đường tổng cầu AD
Lý thuyết định lượng tiền cho rằng: M × V = P × Y, trong đó M là số cung tiền, V là
tốc độ chu chuyển tiền (giả định là cố định), P là giá và Y là sản lượng thực.
Phương trình này cho thấy số cung tiền sẽ quyết định sản lượng danh nghĩa P × Y.
Phương trình định lượng tiền có thể được viết lại dưới dạng cung cầu tiền thực
cân bằng:
M/P = (M/P)d = k × Y,
trong đó: k = 1/V. Phương trình định lượng cho thấy số cung tiền thực M/P bằng
với số cầu tiền thực (M/P)d và số cầu tiền thực tỷ lệ k nào đó của sản lượng thực
Y.
Đối với một số cung tiền M nhất định, phương trình định lượng thể hiện
mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá P và sản lượng thực Y. Đồ thị 7.1 thể hiện mối
Trang 2
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
quan hệ giữa P và Y thỏa mãn phương trình định lượng tương ứng với một số
cung tiền M cố định. Theo định nghĩa, đường này chính là đường tổng cầu AD.
Đường AD là dốc xuống từ trái sang phải.
Ứng với một số cung tiền cố định nào đó, phương trình định lượng tiền ngụ
ý rằng giá trị sản lượng danh nghĩa P × Y là cố định. Vì vậy, nếu giá P tăng thì Y
phải giảm, nghĩa là đường tổng cầu AD phải dốc xuống.
Một cách để hiểu mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa P và Y là nghiên cứu mối
quan hệ giữa số cung tiền và giao dịch. Do giả định tốc độ chu chuyển tiền V cố
định, số cung tiền sẽ quyết định giá trị của tất cả các giao dịch trong nền kinh tế.
Nếu giá tăng thì mỗi giao dịch sẽ cần nhiều tiền hơn, do đó số lượng giao dịch và
số lượng hàng hóa được mua sẽ phải giảm đi.
P
AD
Y
Đồ thị 7.1. Đường tổng cầu AD
Để hiểu mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa P và Y, ta cũng có thể nghiên cứu
cung cầu đối với tiền thực. Nếu sản lượng cao hơn, người ta sẽ thực hiện nhiều
giao dịch hơn và cần nhiều tiền thực M/P hơn. Ứng với một số cung tiền cố định
M nào đó, tiền thực nhiều hơn nghĩa là giá giảm đi. Ngược lại, nếu giá thấp hơn,
lượng tiền thực sẽ cao hơn. Lượng tiền thực cao hơn cho phép thực hiện nhiều
giao dịch hơn và vì vậy sản lượng sẽ cao hơn.
II.2. Sự dịch chuyển của đường tổng cầu AD
Đường tổng cầu AD được vẽ tương ứng với một số cung tiền M nào đó. Nói cách
khác, AD cho biết mối quan hệ giữa P và Y ứng với một số cung tiền cố định M .
Nếu số cung tiền thay đổi, mối quan hệ giữa P và Y sẽ thay đổi theo – nghĩa là
đường AD sẽ thay đổi vị trí. Hãy nghiên cứu một số tình huống trong đó đường
tổng cầu AD dịch chuyển.
Giả sử ngân hàng trung ương giảm số cung tiền. Phương trình định lượng
M × V = P × Y cho thấy sự giảm đi của số cung tiền sẽ dẫn đến sự giảm đi tương
Trang 3
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
ứng của trị sản lượng danh nghĩa P × Y. Với một mức giá nào đó, sản lượng sẽ
thấp hơn và ứng với một mức sản lượng nào đó giá sẽ thấp hơn. Như biểu thị
trong Đồ thị 7.2, khi đó đường tổng cầu AD tịnh tiến sang trái.
P
AD1
AD2
Y
Đồ thị 7.2. Sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu AD
Ngược lại, giả sử ngân hàng trung ương tăng số cung tiền. Phương trình
định lượng cho biết khi đó sẽ có sự gia tăng của sản lượng danh nghĩa P × Y. Ứng
với mỗi mức giá cố định, sản lượng sẽ cao hơn và ứng với mỗi mức sản lượng
giá sẽ cao hơn. Như biểu thị trong Đồ thị 7.3, khi đó đường tổng cầu sẽ dịch
chuyển sang phải.
P
AD2
AD1
Y
Đồ thị 7.3. Sự dịch chuyển sang phải của đường tổng cầu AD
Sự thay đổi trong số cung tiền là nguồn gốc của biến động trong tổng cầu.
Tuy nhiên, ngay cả nếu số cung tiền được giữ cố định đường tổng cầu vẫn có
thể dịch chuyển do sự thay đổi của tốc độ chu chuyển tiền. Khi nghiên cứu
Trang 4
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
đường tổng cầu kỹ hơn trong các chương sau, ta sẽ biết các nguyên nhân khác
nữa của sự dịch chuyển của đường tổng cầu.
III. TỔNG CUNG AS
Bản thân đường tổng cầu AD không thể tự quyết định giá P hay sản lượng Y của
nền kinh tế mà chỉ cho biết mối quan hệ giữa hai đại lượng này mà thôi. Để đi
kèm với đường tổng cầu, ta cần một mối quan hệ nữa giữa P và Y, đó là đường
tổng cung AS. Đường tổng cầu AD và đường tổng cung AS sẽ cùng nhau quyết
định giá và sản lượng của nền kinh tế.
Nói chung, đường tổng cung AS cho biết mối quan hệ giữa số lượng hàng
hóa mà nền kinh tế làm ra ở các mức giá khác nhau. Do giá linh động trong dài
hạn và cứng nhắc trong ngắn hạn nên mối quan hệ này phụ thuộc vào độ dài thời
gian đang xem xét. Có hai đường tổng cung: (i) đường tổng cung dài hạn LAS và
(ii) đường tổng cung ngắn hạn SAS. Hai đường tổng cung này có tính chất hoàn
toàn khác nhau như trình bày ở phần tiếp theo.
III.1. Đường tổng cung dài hạn LAS thẳng đứng
Do lý thuyết cổ điển mô tả nền kinh tế trong dài hạn nên ta thiết kế đường tổng
cung dài hạn LAS dựa vào lý thuyết này. Theo Chương 3, sản lượng phụ thuộc
vào số cung cố định của vốn và lao động cùng với kỹ thuật sản xuất hiện thời.
Do đó, ta có thể viết:
Y = F( K , L ) = Y .
Theo lý thuyết cổ điển, do sản lượng không phụ thuộc vào giá nên đường
tổng cung dài hạn LAS thẳng đứng như trong Đồ thị 7.4. Nói cách khác, hệ số co
giãn của hàm tổng cung dài hạn LAS theo giá bằng không.
P
LAS
Y
Trang 5
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Đồ thị 7.4. Đường tổng cung dài hạn LAS
Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao đường cung của một loại hàng hóa
nào đó có thể dốc lên (như mô tả trong kinh tế học vi mô) nếu đường tổng cung
dài hạn LAS thẳng đứng. Lý do là vì số cung của một hàng hóa riêng biệt phụ
thuộc vào giá tương đối, đó là giá của hàng hóa này so với giá các hàng hóa khác
của nền kinh tế. Thí dụ, khi giá của xe ô-tô tăng lên, hãng sản xuất sẽ tăng sản
lượng ô-tô và giảm sản lượng xe tải, chẳng hạn. Ngược lại, tổng sản lượng của
nền kinh tế phụ thuộc vào số lượng lao động, vốn và kỹ thuật sản xuất của bản
thân nền kinh tế. Vì vậy, khi giá cả tổng thể của toàn bộ nền kinh tế cùng thay
đổi thì sẽ không có sự thay đổi nào của sản lượng thực của nền kinh tế.
Giao điểm giữa đường tổng cầu AD và đường tổng cung LAS sẽ quyết định
giá của nền kinh tế trong dài hạn. Nếu đường tổng cung thẳng đứng thì sự thay
đổi của tổng cầu chỉ làm thay đổi giá mà không làm thay đổi sản lượng (thu
nhập). Thí dụ, nếu số cung tiền giảm đi, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang
trái, như trong Đồ thị 7.5. Điểm cân bằng của nền kinh tế sẽ chuyển từ A sang B.
Khi đó, sự thay đổi của tổng cầu chỉ ảnh hưởng đến giá. Như vậy, trong dài hạn
để làm tăng thu nhập thì nền kinh tế phải làm thay đổi số cung vốn, lao động hay
nâng cao kỹ thuật sản xuất.
P
LAS
A
AD1
B
AD2
Y
Y
Đồ thị 7.5. Ảnh hưởng của sự dịch chuyển của đường tổng cầu AD
trong dài hạn
Đường tổng cung dài hạn LAS thẳng đứng thỏa mãn lý thuyết cổ điển do nó
ngụ ý rằng sản lượng không phụ thuộc vào số cung tiền. Sản lượng trong dài
hạn Y được gọi là sản lượng toàn dụng lao động hay sản lượng tự nhiên
(tiềm năng). Đây chính là mức sản lượng mà tại đó tất cả nguồn lực của nền
kinh tế được sử dụng tối đa hay tại đó thất nghiệp là thất nghiệp tự nhiên.
Bất kỳ sự thay đổi nào của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng tự nhiên
cũng sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn LAS. Do sản lượng trong mô
Trang 6
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
hình cổ điển phụ thuộc vào số cung lao động, số cung vốn và kỹ thuật sản xuất
nên sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn xuất phát từ các nguồn này. Thí
dụ, sản lượng của một nền kinh tế sẽ tăng lên khi có sự nhập cư của lao động
nước ngoài, đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế tịnh tiến sang phải. Nếu
chánh phủ tăng tiền lương tối thiểu thì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tăng lên, làm
cho đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế dịch chuyển sang trái. Ngược lại,
cải cách chánh sách trợ cấp thất nghiệp tạo ra động cơ tìm việc làm của người
thất nghiệp sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn sang phải. Tương tự,
sự gia tăng số cung vốn của nền kinh tế làm tăng sản lượng của nền kinh tế sẽ
làm cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải và ngược lại. Điều này
đúng với cả trường hợp vốn bằng tiền và vốn con người.
III.2. Đường cung ngắn hạn SAS dốc lên
III.2. Tại sao đường tổng cung ngắn hạn SAS dốc lên?
Bây giờ, ta sẽ nghiên cứu sự khác biệt cơ bản của nền kinh tế trong ngắn hạn và
dài hạn, đó là sự khác nhau về hình dạng của đường tổng cung. Như đã biết,
đường tổng cung dài hạn LAS là đường thẳng đứng tương ứng với sản lượng
tiềm năng. Ngược lại, trong ngắn hạn, đường tổng cung SAS là đường dốc lên,
như trong Đồ thị 7.6. Nghĩa là trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, một năm
chẳng hạn, sự gia tăng của giá cả của nền kinh tế sẽ có xu hướng làm tăng sản
lượng của nền kinh tế và, ngược lại, nếu giá giảm thì sản lượng của nền kinh tế
sẽ giảm đi.
Nguyên nhân nào gây ra hiện tượng này? Các nhà kinh tế học vĩ mô cho rằng
có ba lý thuyết có thể dùng để giải thích xu hướng dốc lên của đường tổng cung
ngắn hạn SAS. Mỗi lý thuyết đề cập đến một khiếm khuyết của thị trường làm
cho sản lượng của nền kinh tế trong ngắn hạn khác với dài hạn. Mặc dù các lý
thuyết này khác nhau về chi tiết nhưng có điểm chung là sản lượng của nền kinh
tế trong ngắn hạn khác với dài hạn hay khác với sản lượng tự nhiên (tiềm năng)
khi giá thực tế khác với mức giá kỳ vọng. Khi giá thực tế cao hơn mức giá kỳ
vọng thì sản lượng sẽ lớn hơn sản lượng tự nhiên và, ngược lại, khi giá thấp hơn
mức giá kỳ vọng thì sản lượng sẽ thấp hơn sản lượng tự nhiên. Hãy lần lượt
nghiên cứu ba lý thuyết này.
Trang 7
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
P
SAS
B
P1
A
P2
Y
O Y2
Y1
Đồ thị 7.6. Đường cung ngắn hạn SAS
Lý thuyết về nhận định sai
Theo lý thuyết này, sự thay đổi của giá cả tổng thể của nền kinh tế có thể làm
cho các doanh nghiệp nhận định sai về thị trường sản phẩm của mình. Kết quả
của nhận định sai này là các doanh nghiệp thay đổi số cung theo sự thay đổi của
giá, làm cho đường tổng cung ngắn hạn SAS dốc lên.
Để thấy điều này xảy ra như thế nào, giả sử giá cả của nền kinh tế xuống
thấp hơn mức giá kỳ vọng. Khi doanh nghiệp thấy giá sản phẩm của mình giảm
xuống, họ có thể nhìn nhận một cách sai lầm là giá tương đối của sản phẩm của
mình sẽ giảm đi. Thí dụ, người trồng mía có thể nhận thấy sự giảm đi của giá
mía nguyên liệu trước khi nhận thấy sự giảm đi của giá các loại hàng tiêu dùng
khác. Từ nhận định này, họ có thể cho rằng trồng mía khi đó không còn có lợi cao
nên sẽ giảm sản lượng mía. Tương tự, người lao động cũng có thể chú ý đến sự
giảm đi của tiền lương danh nghĩa của mình trước khi chú ý đến sự giảm đi của
giá cả các loại hàng hóa khác mà họ tiêu dùng.
Lý thuyết tiền lương cứng nhắc
Lý thuyết thứ hai giải thích xu hướng dốc lên của đường tổng cung ngắn hạn
SAS là lý thuyết tiền lương cứng nhắc. Lý thuyết này cho rằng đường tổng cung
ngắn hạn dốc lên do tiền lương danh nghĩa điều chỉnh chậm, hay thậm chí cứng
nhắc, trong ngắn hạn (Chương 4). Ở chừng mực nào đó, tiền lương điều chỉnh
chậm là do hợp đồng dài hạn giữa người lao động và doanh nghiệp với tiền
lương cố định trong một khoảng thời gian nào đó, thường là ba năm. Thêm vào
đó, sự điều chỉnh chậm này cũng có thể do các quy ước xã hội hay các khía cạnh
khác có ảnh hưởng đến việc ấn định tiền lương chậm thay đổi.
Trang 8
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Để thấy tại sao tiền lương cứng nhắc có ảnh hưởng đến sản lượng, hãy
hình dung một doanh nghiệp thỏa thuận trước trong việc trả cho người lao động
một mức tiền lương danh nghĩa nào đó dựa trên giá kỳ vọng của nền kinh tế. Nếu
giá P thấp hơn giá kỳ vọng và tiền lương danh nghĩa cố định ở mức W thì tiền
lương thực W/P sẽ cao hơn mức tiền lương thực mà doanh nghiệp dự định trả
cho người lao động. Do tiền lương chiếm phần lớn trong chi phí sản xuất nên
tiền lương thực cao hơn có nghĩa là chi phí thực của doanh nghiệp cao hơn. Khi
đó, doanh nghiệp sẽ giảm số lao động sử dụng và sản lượng. Nói cách khác, do
tiền lương không thay đổi ngay lập tức theo giá nên giá thấp hơn làm cho việc sử
dụng lao động và sản xuất ra sản phẩm thu được lợi nhuận thấp hơn, khiến cho
các doanh nghiệp giảm sản lượng.
Lý thuyết giá cứng nhắc
Lý thuyết cuối cùng là lý thuyết giá cứng nhắc. Như vừa thấy, lý thuyết tiền
lương cố định cho rằng tiền lương chậm thay đổi theo thời gian. Lý thuyết giá cố
định cho rằng giá của một số hàng hóa cũng chậm thay đổi theo sự thay đổi của
điều kiện kinh tế. Sự thay đổi chậm này là do chi phí thay đổi cao, mà các nhà
kinh tế gọi là chi phí thực đơn. Chi phí thực đơn bao gồm chi phí in ấn và phát
hành biểu giá mới và thời gian cần có để thay đổi bảng niêm yết giá. Do kết quả
của các chi phí này, giá và tiền lương có thể cố định trong ngắn hạn.
Để thấy tại sao giá cứng nhắc ảnh hưởng đến tổng cung, giả sử mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế công bố giá của mình dựa vào các điều kiện kinh tế mà
doanh nghiệp kỳ vọng. Sau khi giá được công bố, chánh phủ thực thi chính sách
tiền tệ thu hẹp, làm giảm giá cả của nền kinh tế trong dài hạn (Chương 5). Mặc
dù một số doanh nghiệp sẽ cắt giảm giá ngay lập tức theo sự thay đổi này nhưng
một số doanh nghiệp không muốn thay đổi do chi phí thực đơn và, vì vậy, chỉ đi
theo sau. Do các doanh nghiệp này có giá cao quá nên doanh số sẽ giảm. Doanh số
giảm sẽ khiến cho các doanh nghiệp này phải cắt giảm sản lượng và lao động.
Nói cách khác, do không phải tất cả các loại giá đều điều chỉnh ngay lập tức theo
sự thay đổi của điều kiện kinh tế nên sự giảm đi không mong đợi của giá cả của
nền kinh tế sẽ làm cho một số doanh nghiệp phải duy trì mức giá cao hơn mong
đợi và các mức giá này làm giảm doanh số của doanh nghiệp nên khiến cho doanh
nghiệp cắt giảm sản lượng.
III.2. Tại sao của đường tổng cung ngắn hạn SAS dịch chuyển?
Đường tổng cung ngắn hạn SAS cho biết mối quan hệ giữa số cung hàng hóa và
giá cả của nền kinh tế trong ngắn hạn. Ta có thể xem đường tổng cung ngắn hạn
Trang 9
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
SAS cũng giống như đường tổng cung dài hạn nhưng lại dốc lên do sự nhận thức
sai của doanh nghiệp, do tiền lương hay giá cứng nhắc. Vì vậy, khi phân tích sự
dịch chuyển của đường SAS ta phải xem xét tất cả các yếu tố làm dịch chuyển
đường LAS cộng với các biến số mới, đó là giá, yếu tố có ảnh hưởng đến nhận
thức sai, tiền lương và giá cứng nhắc.
Hãy bắt đầu với đường LAS. Như đã biết, sự dịch chuyển của đường LAS là
do sự thay đổi trong số cung lao động, vốn, tài nguyên tự nhiên và kỹ thuật sản
xuất. Các yếu tố này cũng làm dịch chuyển đường SAS. Thí dụ, vốn tăng làm tăng
năng suất, do đó làm dịch chuyển cả hai đường LAS và SAS sang phải. Tiền lương
tối thiểu tăng dẫn đến thất nghiệp tăng, làm cho cả hai đường LAS và SAS dịch
chuyển sang trái.
Biến số mới quan trọng ảnh hưởng đến vị trí đường SAS là kỳ vọng về giá.
Như đã thấy, trong ngắn hạn số cung hàng hóa phụ thuộc vào nhận thức sai, tiền
lương cứng nhắc hay giá cứng nhắc. Song, nhận thức, tiền lương và giá được
hình thành trên cơ sở kỳ vọng về giá. Khi kỳ vọng này thay đổi, đường SAS sẽ
thay đổi theo.
Để làm rõ hơn lập luận này, hãy sử dụng lý thuyết tiền lương cứng nhắc.
Theo lý thuyết này, khi người ta kỳ vọng giá cao thì cũng sẽ định tiền lương cao.
Tiền lương cao làm tăng chi phí cho doanh nghiệp ở mỗi mức giá cố định, làm
giảm số cung hàng hóa của doanh nghiệp. Vì vậy, khi mức giá kỳ vọng tăng lên,
tiền lương tăng, chi phí tăng và doanh nghiệp chọn sản lượng thấp hơn ứng với
mỗi mức giá nhất định. Khi đó, đường tổng cung ngắn hạn SAS dịch chuyển sang
trái. Ngược lại, khi mức giá kỳ vọng giảm xuống, tiền lương giảm, chi phí giảm,
doanh nghiệp sẽ chọn sản lượng cao hơn, làm cho đường tổng cung ngắn hạn
dịch chuyển sang phải.
Các lập luận tương tự cũng có thể được sử dụng cho các lý thuyết tổng
cung khác. Lý do tổng quát là như sau: Sự gia tăng trong mức giá kỳ vọng sẽ làm
giảm số cung hàng hóa nên làm cho đường tổng cung ngắn hạn SAS dịch chuyển
sang trái. Sự giảm đi trong mức giá kỳ vọng sẽ làm tăng số cung hàng hóa nên làm
cho đường tổng cung ngắn hạn SAS dịch chuyển sang phải. Như ta sẽ thấy trong
phần tiếp theo, sự ảnh hưởng của kỳ vọng lên vị trí của đường tổng cung ngắn
hạn đóng vai trò quan trọng trong việc kết hợp hành vi của nền kinh tế trong
ngắn hạn với trong dài hạn. Trong ngắn hạn, kỳ vọng là cố định và nền kinh tế
cân bằng ở giao điểm giữa đường tổng cầu AD và đường tổng cung ngắn hạn
SAS. Trong dài hạn, kỳ vọng thay đổi, làm cho đường tổng cung ngắn hạn SAS
dịch chuyển. Sự dịch chuyển này làm cho nền kinh tế cân bằng ở giao điểm của
đường tổng cầu AD và đường tổng cung dài hạn LAS.
IV. Nguyên nhân của biến động kinh tế trong ngắn hạn
Trang 10
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Sau khi nghiên cứu mô hình tổng cung, tổng cầu, ta sẽ sử dụng chúng để phân
tích nguyên nhân của các biến động kinh tế. Đồ thị 7.7 minh họa điểm cân bằng
của nền kinh tế trong dài hạn. Sản lượng cân bằng và giá cân bằng được xác định
bởi giao điểm A giữa đường tổng cầu AD và đường tổng cung dài hạn LAS. Tại
điểm này, sản lượng của nền kinh tế là sản lượng tiềm năng YTN. Đường tổng
cung ngắn hạn SAS cũng đi qua điểm này, cho thấy rằng nhận định, tiền lương và
giá điều chỉnh về điểm cân bằng dài hạn. Điều này có nghĩa là khi một nền kinh
tế đang ở điểm cân bằng, nhận định, tiền lương và giá phải điều chỉnh sao cho
giao điểm của đường tổng cầu AD với đường tổng cung ngắn hạn SAS phải trùng
với giao điểm của đường tổng cầu AD với đường tổng cung dài hạn LAS.
P
LAS
SAS
PE
A
AD
Y
TTN
O
Đồ thị 7.7. Cân bằng dài hạn của nền kinh tế
IV.1. Ảnh hưởng của sự dịch chuyển của đường tổng cầu AD
Giả sử do một lý do nào đó, chẳng hạn như sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán
hay do chiến tranh xảy ra ở nước ngoài nhiều người trở nên bị quan về triển
vọng của nền kinh tế và thay đổi kế hoạch của mình. Hộ gia đình cắt giảm chi
tiêu và hoãn việc mua sắm, doanh nghiệp không trang bị thêm máy móc, thiết bị
mới.
Ảnh hưởng của bi quan này là gì? Nó sẽ làm giảm tổng cầu đối với hàng
hóa, nghĩa là với một mức giá nào đó hộ gia đình và doanh nghiệp mua hàng hóa ít
hơn. Khi đó, Đồ thị 7.8 cho thấy đường tổng cầu AD1 sẽ dịch chuyển sang trái
thành AD2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cung
ngắn hạn ban đầu AS1, từ điểm A sang điểm B. Khi nền kinh tế chuyển từ điểm
A sang điểm B, sản lượng giảm từ Y1 thành Y2 và giá giảm từ P1 thành P2. Sản
lượng giảm đi nghĩa là nền kinh tế bị suy thoái. Mặc dù không được biểu thị qua
đồ thị này nhưng các doanh nghiệp sẽ giảm sản lượng bằng cách giảm số lượng
Trang 11
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
lao động sử dụng. Vì vậy, sự bi quan về triển vọng của nền kinh tế tạo ra sự
dịch chuyển của đường tổng cung AD tạo ra một cơ chế tự điều chỉnh: Bi quan
về tương lai dẫn đến sự giảm đi của thu nhập và tăng thất nghiệp.
P
LAS
SAS1
SAS2
P1
A
P2 B
P3 C
AD1
AD2
Y
O Y2 Y1
Đồ thị 7.8. Ảnh hưởng của sự giảm đi của tổng cầu
Các nhà lập chính sách nên làm gì khi suy thoái này xảy ra? Một khả năng là
làm tăng tổng cầu. Như đề cập trước đây, gia tăng trong chi tiêu chánh phủ hay
tăng số cung tiền sẽ làm tăng nhu cầu đối với hàng hóa ở mỗi mức giá và vì vậy
sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải. Nếu các nhà lập chánh sách hành
động đủ nhanh và vào thời điểm thích hợp thì có thể bù trừ sự dịch chuyển ban
đầu của đường tổng cầu, đưa đường tổng cầu trở về AD1 và nền kinh tế trở về
điểm A.
Ngay cả khi không có hành động của chánh phủ, suy thoái trên sẽ tự điều
chỉnh mình theo thời gian. Do sự giảm đi của tổng cầu AD nên giá giảm. Sau đó
kỳ vọng sẽ được hình thành theo thực tế này và mức giá kỳ vọng sẽ giảm theo.
Do giá kỳ vọng giảm sẽ làm thay đổi nhận định, tiền lương và giá nên nó sẽ làm
cho đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 thành AS2 trong Đồ thị 7.8. Sự
thay đổi của kỳ vọng này cho phép nền kinh tế thay đổi theo thời gian đến điểm
C, tại đó đường tổng cầu mới AD2 cắt đường tổng cung dài hạn LAS.
Ở điểm cân bằng dài hạn mới C, sản lượng quay trở về sản lượng tự nhiên.
Khi bi quan làm giảm nhu cầu, giá sẽ giảm về P3 đủ để bù đắp sự giảm đi của
tổng cầu. Vì vậy, trong dài hạn sự giảm đi của nhu cầu được phản ánh đầy đủ
trong giá mà không phải là trong sản lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng trong dài
hạn của sự thay đổi của đường tổng cầu là thay đổi danh nghĩa (giá thấp hơn) mà
không phải là thay đổi thực (sản lượng không đổi).
Trang 12
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
IV.2. Ảnh hưởng của sự dịch chuyển của tổng cung
Nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng dài hạn. Giả sử chi phí sản xuất của các
doanh nghiệp bất ngờ tăng. Thí dụ, thời tiết xấu đã làm thu hoạch kém, làm tăng
chi phí sản xuất. Chiến tranh ở Trung Đông làm tăng chi phí vận chuyển và sản
xuất dầu thô.
Ảnh hưởng của sự gia tăng chi phí sản xuất này là gì? Ở mỗi mức giá nhất
định, các doanh nghiệp cung ứng sản lượng thấp hơn. Theo Đồ thị 7.9, đường
cung ngắn hạn chuyển từ SAS1 thành SAS2. Tùy thuộc vào sự kiện xảy ra, đường
cung dài hạn LAS cũng có thể dịch chuyển nhưng để cho đơn giản, hãy giả sử
đường cung dài hạn không dịch chuyển.
Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu AD, từ
điểm A sang điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y1 thành Y2 và giá tăng
từ P1 thành P2. Do nền kinh tế gặp suy thoái đồng thời với lạm phát nên sự kiện
này đôi khi được gọi là suy thoái - lạm phát kết hợp. Khi đó, chánh phủ nên làm
gì?
P
LAS
SAS2
SAS1
B
P2
P1
A
AD
Y
O Y2 Y1
Đồ thị 7.9. Ảnh hưởng của sự dịch chuyển của đường tổng cung
Như ta sẽ thấy rõ hơn trong những phần sau của quyển sách này, giải quyết
hiện tượng trên là rất phức tạp. Một khả năng là không làm gì cả. Trong trường
hợp này, sản lượng của nền kinh tế duy trì ở Y2 trong một thời gian nào đó. Tuy
nhiên, sau đó sự suy thoái này sẽ tự điều chỉnh khi nhận định, tiền lương và giá
điều chỉnh theo sự gia tăng của chi phí. Sản lượng thấp và thất nghiệp cao sẽ làm
giảm tiền lương lao động. Tiền lương lao động thấp hơn đến lượt nó sẽ làm tăng
sản lượng. Theo thời gian, khi đường cung ngắn chuyển trở về thành SAS1, giá sẽ
giảm và sản lượng sẽ quay trở về mức sản lượng tự nhiên. Trong dài hạn, nền
Trang 13
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
kinh tế quay trở lại điểm A, tại đó đường tổng cung cắt đường tổng cung dài
hạn.
Một phương án khác, đó là các nhà lập chánh sách, người kiểm soát chánh
sách tiền tệ và chánh sách tài chánh, có thể loại trừ ảnh hưởng của sự dịch
chuyển của đường tổng cung ngắn hạn bằng cách làm dịch chuyển đường tổng
cầu. Khả năng này được minh họa bằng Đồ thị 7.10. Trong trường hợp này, sự
thay đổi trong chánh sách làm dịch chuyển đường tổng cầu từ AD1 thành AD2, vừa
đủ để bù đắp ảnh hưởng của sự dịch chuyển của đường tổng cung lên sản
lượng. Nền kinh tế sẽ chuyển trực tiếp từ A thành C. Sản lượng vẫn nằm ở mức
sản lượng tự nhiên và giá tăng từ P1 lên P3. Trong trường hợp này, những người
lập chánh sách bị cho là thụ động đối với sự dịch chuyển của đường tổng cung do
cho phép làm tăng chi phí ảnh hưởng đến giá trong dài hạn.
P
LAS SAS2
SAS1
P3
C
P2
P1
A
AD2
AD1
Y
O YTN
Đồ thị 7.10. Bù đắp sự thay đổi đổi của đường tổng cung
THUẬT NGỮ
Chu kỳ kinh tế: Business cycle
Suy thoái – lạm phát: Stagflation
Tổng cầu: Aggregate demand (AD)
Tổng cung: Aggregate supply (AS)
Bài đọc thêm
Cecchetti, S.G., 1986, “The Frequency on Price Adjustment: A Study of the Newsstand
Prices of Magazines,” Journal of Econometrics 31, tr. 255–274.
Friedman, B.M., 1988, “Lessons on Monetary Policy from the 1980s,” Journal of Economic
Perspectives 2 (Summer), tr. 51–72.
Trang 14
- TỔNG CUNG – TỔNG CẦU
Hamilton J.D., 1983, “Oil and the Macroeconomy Since World War II,” Journal of Political
Economy 91 (April), tr. 228–248.
Poole, W., 1988, “Monetary Policy Lessons of Recent Inflation and Disinflation,” Journal
of Economic Perspectives 2 (Summer), tr. 73–100.
Trang 15
nguon tai.lieu . vn