Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015 Chứng điên và thơ điên của Bùi Giáng The madness of Bui Giang and his mad poems TS. Nguyễn Văn Thuấn Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế Ph.D. Nguyen Van Thuan The University of Hue – University of Education Tóm tắt Điên là một kiến tạo văn hóa gắn với từng cộng đồng và từng thời kỳ lịch sử nhất định. Trong thực hành sống và thực hành thơ, Bùi Giáng là một nhà thơ điên rực rỡ. Thơ điên của ông là trò rỡn kì khu khúc khích với ngôn từ chữ nghĩa xoay quanh đối tượng thi ca là ‘cái ấy’ của người nữ. Những hình ảnh và biểu trưng như lá, cỏ, khe, mép, môi, hang, hẻm, nước, bờ, ruộng, mương gắn với vần ‘ồn’ trong thơ ông sống động và vui vẻ. Thơ điên Bùi Giáng còn là khát khao được trút quần, vén xiêm, cởi áo, ở truồng; là được về rừng về hang cùng em mọi và gấu beo voi hổ, là ngao du trên sa mạc hồng hoang phát tiết với châu chấu chuồn chuồn. Ham muốn trút bỏ cái xã hội để trở về với tự nhiên, diễn tả điều ấy qua hội chứng rối loạn ngôn ngữ và ngôn ngữ ban sơ, kì quái, Bùi Giáng thuộc về kiểu nghệ sĩ bên lề và diễn ngôn thơ ông là diễn ngôn tâm thần phân lập. Từ những góc độ này, Bùi Giáng đã làm nên một cuộc cách mạng ngôn từ trong thi ca Việt Nam hiện đại. Từ khóa: điên, chứng điên, thơ điên, diễn ngôn tâm thần phân lập, Bùi Giáng… Abstract Madness can be considered as a cultural construction that varies across communities and throughout historical periods. In his life and poetry, Bui Giang proved to be an outstanding poet of madness. His works displayed a witty exploitation of the notions of female reproductive organs as literary symbols. His use of metaphorised images such as leaves, grass, slits, edges, lips, caves, canyons, water, land, fields, ditches and the rhyme 'ồn' created a unique merriness. His depictions of desire – undressing, being naked, returning to forests, to cave, living with bears, leopards, elephants, tigers, wandering in prehistoric deserts with dragonflies and locusts to name a few, flowed through his mad poems. In order to articulate his great aspiration to abandon the society and return to nature, Bui Giang employed a kind of poverty and disorganized of speech, forms of language games, and thus, belonged to the group of peripheral artists. His poetic discourses were schizophrenic. From this perspective, Bui Giang did start to the language revolution in modern Vietnamese poetry. Keywords: mad, madness, mad poems, schizophrenic discourses, Bui Giang… 1. Mở đầu loạn ngôn, ngộ chữ, lảm nhảm tràn lan các Như chúng ta đã biết, các hiện tượng từ, diễn đạt chắp nối phi lí, kì quặc; những như hoang tưởng, ảo giác, ảo thanh, rối ý nghĩ, lời nói phá bỏ những thỏa thuận về loạn tâm thần, những hành vi nảy sinh do mặt xã hội, những ‘lẽ phải’, ‘cấm kị’ được cuồng nhiệt quá độ; những cách nói năng chấp nhận chung đều bị cộng đồng tỉnh táo 41
  2. xem là điên rồ, loạn trí. Nói cách khác, Trong thơ Việt Nam đương đại, sự đối lập người bị xem là điên rồ là người có những tỉnh/điên dễ thấy nhất qua hình ảnh người hành vi, lời nói, suy nghĩ bất thường không đàn ông điên trần truồng đi trên phố trước theo chuẩn tắc chung về tri thức và xã hội người đàn bà tỉnh trong Mười một khúc đã được cộng đồng thừa nhận. Sự điên rồ cảm của Nguyễn Quang Thiều: tồn tại như một đối chứng với sự tỉnh táo, Người đàn ông điên không quần áo đang đi điên không tách rời với tỉnh. Chúng song trên đương phố tồn trong mỗi người/cộng đồng như hình Thứ tự do này làm hoảng sợ mọi thứ tự do với bóng, như tính trạng trội hay lặn của Một triệu năm về trước nhảy và hú một mã di truyền. Tuy nhiên, người điên Một triệu năm về sau nhảy và hú luôn bị cộng đồng tỉnh táo khôn ngoan Đói không phải là đói ‘khoanh vùng’, đẩy sang bên lề. Bởi vì, Khát không phải là khát điên chính là một yếu tố có khả năng uy Đau không phải là đau hiếp, gây rối loạn những thỏa ước xã hội, Trong sự hổ nhục của người đàn bà đi qua những quy ước truyền thống tạo nên tính mặt người đàn ông điên ổn định của cộng đồng. Trong sự không hổ nhục của người đàn Trong công trình Rừng, đàn bà, điên ông điên trước chúng sinh và mặt trời loạn, Jacques Dournes đã làm rõ những Ta vẽ mắt nhân loại hình lục giác. (Khúc V) hành vi bị coi là điên theo quan niệm của Trong văn xuôi, Thoạt kì thủy của người Giarai. Cuộc sống của người Giarai Nguyễn Bình Phương có lẽ là tiểu thuyết dựa trên hai yếu tố là rừng và đàn bà. Rừng ngắn tiêu biểu nhất trong văn học Việt là môi trường tự nhiên, đối lập với buôn Nam đương đại có nhân vật chính là những rẫy là môi trường văn hóa. Người đàn bà ở kẻ điên mà điên nhất là Tính. Y nói năng trong buôn làng chính là phần tự nhiên điên rồ, mê sảng, hành động phi lý, kì hoang dã đã được thuần hóa, là ‘cái tự quặc, sống trong hoang tưởng, lẫn lộn đời nhiên đã trở thành văn hóa’. Khi người thực và mộng mị [6]. Người hùng trường Giarai bỏ làng vào rừng, sống cuộc sống làng của Tạ Nguyên Thọ là truyện ngắn của người rừng, hoàn toàn tự nhiên, họ bị tiêu biểu nhất khai thác sâu cấu trúc đối lập coi là điên. Khi người điên ấy bỏ rừng về tỉnh/điên, cá nhân/cộng đồng từ góc độ văn với buôn làng, nhưng trần trụi, không mặc hóa, là minh chứng rõ nhất khẳng định quần áo, nghĩa là thiên nhiên theo một kiểu rằng sự tỉnh/điên ở đời chỉ là một kiến tạo khác, họ cũng bị coi là điên. Hoặc có khi ở mang bản chất ý thức hệ. Những phác họa trong buôn làng cùng mọi người nhưng từ về người điên của Nguyễn Quang Thiều, chối tất cả những gì thuộc về văn hóa, Nguyễn Bình Phương, Tạ Nguyên Thọ… thuộc về các quan niệm và cung cách ứng chính là ý thức hệ của diễn ngôn tập thể về xử chung của buôn làng (như là đàn ông người điên và chứng điên của cộng đồng mà ăn vận giống đàn bà, làm những việc Việt hiện đại. Điên rồ ngộ dại, do đó, có của đàn bà), họ cũng bị coi là điên. Khi bị thể chỉ là quy ước nhằm gọi tên trạng thái coi là điên, những người này có thể bị cách một người xa rời, khước từ các chuẩn mực li, thậm chí bị bắt buộc phải sống ở rìa tri thức, văn hóa và văn minh của một cộng làng, bìa rừng. Làm thế, cộng đồng muốn đồng nhất định. chứng minh họ đang bảo vệ các chuẩn mực Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế xã hội của cộng đồng [1, tr. 409 - 428]. kỉ XX, nhà thơ Tú Xương tự trào: Vị 42
  3. Xuyên có Tú Xương/Dở dở lại ương 2. Phần nội dung ương/Cao lâu thường ăn quỵt/Thổ đĩ lại 2.1. Bùi Giáng ‘điên rực rỡ’ chơi lường. Dở dở ương ương, khác đời là Người bảo Bùi Giáng điên sẽ chẳng thế, nhưng nếu kẻ nào bảo ông điên dĩ thiếu sở cứ. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã nhiên ông bác lại: Người bảo ông điên, vẽ phác chân dung Bùi Giáng mà ‘phe’ cho ông chẳng điên/ Ông thương, ông tiếc hóa Bùi Giáng điên hẳn sẽ gật gù: ‘Bùi Giáng ông phiền/Kẻ yêu người ghét hay gì chữ/ ăn mặc lôi thôi lếch thếch, cổ đeo đầy ống Đứa trọng đứa khinh chỉ vì tiền/ Ở bể bơ, giày dép, đứng ở ngã tư đường phố Sài ngậm ngùi con tói lạch/Ðược voi tấp tểnh Gòn, chỉ lối cho con người và xe cộ qua lại đòi tiên/Khi cười khi khóc khi than thở/ lại’, ‘Bùi Giáng ‘nuôi’ rất nhiều lợn đất, gà Muốn bỏ văn chương học võ biền (Thói nhựa ở nhà và đi đâu ông cũng nhớ về cho đời). Phản bác lại là bởi, Tú Xương biết chúng ăn. Và mỗi khi cho rằng loại gà lợn rằng, cái danh xưng điên mà người ta trỏ này đi chơi đâu xa, Bùi Giáng thường rải nhà thơ, chẳng qua là do thi sĩ không chịu gạo dọc đường để cho chúng nhớ lối mà về thỏa ước với phần còn lại của cộng đồng, nhà [7]. Người cho Bùi Giáng không điên không xu thời, dửng dưng như đám đông. ắt rất thích thái độ quả quyết của Thanh Hàn Mặc Tử có một tập thơ được chính Tâm Tuyền hay Trần Đới: ‘Bùi Giáng chưa tác giả đặt tên là Thơ điên với những câu bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ thơ như lời tự bạch: Bây giờ tôi dại tôi giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất điên/Chắp tay tôi lạy cả miền không gian. mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ Gọi là thơ điên, vì người và thơ quá đỗi dị hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, thường, độc đáo. Vì tập thơ ấy, trừ một số mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy ít thi phẩm tuyệt tác cực trong sáng thì càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng nhiều bài có những ý lời thật kì dị, rùng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là rợn như khởi từ kịch phát đau thương, từ điên, ấy là thời kỳ tĩnh tại và hưng phấn bạo bệnh hoặc từ cơn mơ ác. Bình về Hàn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân Mặc Tử, Bùi Giáng như hóa thân nhập thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời vai, như viết về chính mình: ‘Tôi sống nhiều kiếp đều dồn về lúc đó… Bây giờ trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất cơn điên cơn dại’ [2, tr.340]. Tuy nhiên, để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống. đến tận bây giờ, nếu có ai cho rằng thơ Sống dạt dào - sống nóng hổi tươi mới. Hàn Mặc Tử là thơ điên, ắt khó tránh khỏi Sống và sống là thi ca tràn đầy trong thiên nhiều tiếng la ó [3]. Người ta la ó vì vẫn nhiên, trong tình cảm và giữa vạn loài’ [4]. nghĩ rằng, điên là một chứng bệnh tâm Theo Trần Đới, Bùi Giáng không điên thần, là nỗi tủi hổ của gia đình, cộng đồng. cũng không giả điên, ông khác người và Bởi thế, việc Bùi Giáng điên hay tỉnh vẫn khác đời chỉ bởi ông là một thi sĩ đích thực ở vào tình thế trù trừ, bất quyết đối với đa đang ở cái đỉnh hưng phấn rực rỡ của sáng số người. Bài viết này là câu trả lời cho tạo thi ca. Yên Cơ cũng khẳng định Bùi tình thế nêu trên, xác định rõ các phương Giáng không điên, cái mà nhiều người diện điên trong thơ điên Bùi Giáng, từ đó tưởng ông điên chẳng qua là do Bùi Giáng thêm hiểu một diễn ngôn thơ đặc trưng ‘đẩy đến tận cùng trạng thái hiện sinh, cho kiểu diễn ngôn tâm thần phân lập của chứng nghiệm ý thức trần trụi về bản thể’ thời hiện đại. và, ‘trong những đệ tử hiện sinh thời ấy, 43
  4. Bùi Giáng là người đi xa nhất trong hành điên), Đi về trong cõi người ta/Người là động tự hủy và hành xác’ [2, tr.488]. Phải người lạ ta là ta điên (Rủi ro). Bùi Giáng chăng, điên là một chứng nghiệm kiểu làm thơ như điên và làm điên như thơ: Điên nghệ sĩ về cuộc đời? Và nghệ sĩ đích thực cuồng mà tưởng nên thơ/Cuồng điên mà tất phải được nuôi dưỡng bằng sự điên rồ? tưởng làm thơ như thần (Tặng bạn điên). Quả thực, ít hay nhiều, nhà thơ nói riêng và Ông tưởng mình điên và người đời tưởng nghệ sĩ nói chung trong mắt đồng loại đều ông điên: Ở đời ông tưởng ông điên/ Về ‘điên rồ’ theo một nghĩa nào đó. Họ ngông sau ông thấy em thương ông nhiều cuồng sánh mình với ‘ông Trời’, mơ mộng (Thương em), Gọi thằng bùi giáng bước ra ôm ấp Hằng Nga cùng tiên nữ, kỹ nữ và tao chào/Mày điên dại mấy chiêm bao/Bây muôn sao (Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Chế Lan giờ điên nữa lúc nào sẽ thôi (Thơ điên), Viên). Họ cũng thường có ảo tưởng khóc Thằng con rất mực thánh thần/Điên như mướn, thương vay, xót xa nhặt cánh hoa đờ đẫn dại gần như điên (Thơ điên tái tàn (Lí Bạch, Nguyễn Du). Họ lao động cật điệp). Trong thơ Bùi Giáng, điên cùng với lực, nguyện làm ‘phu chữ’, đánh vật đổ mồ lộn là một trong các ngữ vựng tiêu biểu của hôi với chữ nghĩa (Lê Đạt). Những hành vi, ông: Rằng so đại thánh tề thiên/Ngàn xưa lời nói và ý nghĩ của họ thường phù du, ‘li âu cũng chỉ điên ngần này (Tuy nhiên), kỳ’, xa lạ với hành vi, ham muốn và tri Con võ vàng phế lụi trận mê điên (Phố Thu thức/ngôn từ ‘hợp lẽ phải’ của cái cộng dịch chuyển), Từng cơn điên dại khôn đền đồng mà họ thuộc về (Bùi Giáng: Chiến cho con (Mẹ phùng thăng), Những đóa tranh nghĩ cũng li kỳ/Những thằng thi sĩ hồng đào điên rật rật (Đi vào cõi thơ), còn kỳ li hơn). Trong con mắt cộng đồng, Cuộc điên đã chấm dứt rồi/Bây giờ điên nghệ sĩ là những kẻ ‘không bình thường’, nữa cho đời điên thêm (Nỗi buồn)... Thậm ‘bệnh hoạn’ và ‘đồi bại’ về mặt xã hội. Tự chí, chính Bùi Giáng còn cho Lá Hoa Cồn nhận mình ‘điên rực rỡ’ trong bản lí lịch tự (tên một tập thơ của ông) ‘mười điên vẹn khai cũng như gián tiếp qua cái tôi trữ tình mười’ (Quà nguyên đán). Cho Bùi Giáng trong thơ, phải chăng Bùi Giáng chính là điên, với nhiều người yêu quý ông, gần ‘một nhà thơ sáng suốt cực kì’ (Thanh Tâm như là một sự hiểu sai và xúc phạm thi Tuyền), người ý thức sâu sắc về mình nói nhân. Họ không muốn thừa nhận rằng điên riêng và nghệ sĩ nói chung: nhà thơ đích thực ra là một kiến tạo văn hóa, là phần thực tất phải ‘điên rực rỡ’ trong cả thực bên kia chìm khuất của tỉnh táo mà cá hành sống và thực hành thơ? nhân/cộng đồng nào cũng mang theo như Có thể khẳng định ở Bùi Giáng, điên một kẻ đồng hành. Với riêng Bùi Giáng (và là một ý thức: ý thức về bản ngã nghệ sĩ kiểu thi sĩ Bùi Giáng), dường như ‘điên rực của mình bất chấp các chuẩn mực và cấm rỡ’ là một phẩm tính cùng độ của nghệ kị xã hội. Từ ý thức đó, Bùi Giáng thực thuật và nghệ sĩ. Trung niên thi sĩ yêu thích hành sống và thực hành thơ bằng cả sự tự hơn ai hết sự điên rực rỡ của nhiều người trào và tự hào. Rất nhiều lần trong thơ ông, như Nietzsche, Hoederlin, Nerval, Hàn Bùi Giáng tự nhận mình điên và cho thơ Mặc Tử hoặc có thể gồm cả Đôn Kihôtê, mình là thơ điên: Người điên ngôn ngữ Raxcolnicov – những kẻ điên rồ trong mắt điệp trùng/Dở chừng như mộng dở chừng đồng loại nhưng lúc nào cũng đau đáu vì như mê/Thưa em ngôn ngữ quặt què/Làm hạnh phúc của đồng loại, vun góp cho thi sao nói hết nghiệp nghề người điên (Người ca và tư tưởng nhân loại những đỉnh cao. 44
  5. Trong ngôn ngữ và hành vi ‘điên ngộ’ của chẳng hạn bài Thằn lằn địa phương, do sử họ, xen lẫn những hoang tưởng rối bời, dụng vần ồn một cách dày đặc kết hợp với loạn ngôn, ngộ chữ, ngông cuồng… ẩn các luyến láy có phụ âm ‘l’, người đọc chứa những suy tư minh triết, những tra không khỏi mỉm cười trước trò chơi thơ vấn chân thiện trong suốt đầy tính thơ. của Bùi Giáng. Ông gợi liên tưởng, tổ hợp, 2.2. Thơ điên của Bùi Giáng kết hợp, luyến láy, nói lái, đùa giỡn với cặp Có thể khẳng định, tiếng nói của người ồn/l trên đối tượng thi ca là các nàng thơ điên là tiếng nói vô tư thuần túy bất vụ lợi như Em mọi, gái núi, Công chúa trên rừng, và bản năng phi lí tính nhất, nơi mà ý thức Thôn nữ Vĩnh Trinh, Gái Quảng Nam, của kẻ khác không thể can dự, do đó nó Duồng Mô Din, Marilyn Monroe, Brigitte đáng tin cậy hơn thứ ngôn ngữ mặt nạ rào Bardot, Nam Phương Hoàng hậu, Nường đón đầy cân nhắc của lí trí tỉnh táo, nơi mà Kỹ nữ… Đây là hiện tượng phổ biến và là mọi lời nói đều đi qua những bộ lọc lí trí, đặc sắc riêng trong thơ Trung niên thi sĩ. nơi tính hợp thức bao giờ cũng là sự lựa Tuy ám gợi ‘cái ấy’ của người nữ nhưng chọn đầu tiên, ở đó chứa chất thói xu thời, thơ Bùi Giáng không khêu gợi ‘căn tính thực dụng, đạo đức giả được ngụy trang dâm của loài người’. Vì thơ ông thấm đẫm tinh vi. Xét từ góc độ này, thơ Bùi Giáng tính chất ‘rỡn chơi’. Và trò rỡn này ban sơ, xứng đáng là thơ điên hơn ai hết. trong trắng, như lọc qua trái tim và khối óc Thơ điên của Bùi Giáng thể hiện trước trẻ thơ vậy. hết ở chỗ, ông bất chấp những rào cản húy Ngoài những bài thơ luyến láy với vần kị để hoàn toàn tự do viết thỏa thích về ‘cái ồn kiểu trên đây, Bùi Giáng còn thể hiện ấy’ của người nữ, biến nó thành một thi một cách vui tươi ‘cái ấy’ của người nữ ảnh nổi trội. Có thể nói, không nhà thơ qua hình tượng lá và cỏ. Tất nhiên, lá và cỏ Việt Nam hiện đại nào lại chơi với vần ồn trong thơ Bùi thi sĩ thường cặp đôi với khe, dày đặc như Bùi Giáng, và không nhà thơ mép, môi, hang, hẻm, nước, bờ, ruộng, nào có thể có một ngữ vựng về lộn như mương và... vần ồn. Ông miêu tả lá và cỏ Trung niên thi sĩ [2, tr 16]. Độc giả sẽ thấy không như một cái gì vốn có, tĩnh tại, bất trong thơ Bùi Giáng, đồng hành cùng vần động mà như sự phát tiết sinh động gắn với ồn nhất định thế nào cũng xuất hiện phụ ham muốn tính dục của người nam: Cỏ âm ‘l’ và hình ảnh người nữ. Chẳng hạn: mọc khe rêu dấu ngọc ngà/ Cỏ xanh như Lấm cồn lầm cát lầy thôn/ Xuống hang xứ nguyệt lục hằng nga/ Cỏ miền Cấm Địa vô sở xương dồn dập da/ Một hai ba bốn năm ngần cỏ/ Cỏ mở hai hàng mọc suốt qua/ và/ Trời ơi có nhớ hẻm nhà hồng nhan? Hai hàng cỏ mọc cứ lân la/ Rất mực như (Trời không có nhớ). Người đọc thường nhung rất mực là/ Cấm Địa trời ơi Trẫm gặp trong thơ ông các kiểu nói lái đa dạng nhớ quá/ Một hang lõa xõa mép lòa xòa như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, lộn (Trẫm nhớ em); Em mở hai hàng/Cỏ mọc mồng, lộn bèo, lộn tờ và nhiều biến thể ra/Trẫm nhìn thơ mộng/Cỏ chan hòa/Um kèm theo: Lọt cồn tận gió đi hoang/ Tồn tùm một cõi/Hương lồng lộng/Phơ phất tà liên ở lại xin làm dồn ra (Mưa nguồn), Dấu xiêm/Phe phẩy hoa (Trẫm ghé thăm). Mở sương dấu cỏ dấu bèo/Dấu liên thồn dựng hai hàng cỏ long đong/Úp môi vào thút thít thu vèo sang đông (Tờ điên tiên nương trong một vùng (Mở cỏ vào môi), Một hai ngủ), Um tùm tơ cỏ khe mương liên tồn hai một bồn chồn/Trời hôn cái lá trên cồn (Cô giáo bước đi). Có một số bài thơ, của em (Lần thứ tư trời hôn cái lá). Trời 45
  6. hay Trẫm tất nhiên thoát khỏi những quy dân gian và nhất là thơ Hồ Xuân Hương phạm đạo đức, vì vậy cũng thoát khỏi cái (Hồ Xuân Hương: Xiên ngang mặt đất rêu án ‘dâm tục’. Nhưng Trời = Trẫm = Tôi, từng đám/Đâm toạc chân mây đá mấy hòn, tất thảy đều là cái tôi trữ tình của Bùi thi Sáng banh không kẻ khua tang mít/Trưa sĩ. Ông chẳng ngần ngại mà toạc móng trật nào ai móc kẻ rêu, Cửa hang đỏ loét heo: Tôi vốn xưa kia là/Hít màu hồ của tùm hum nóc/Hòn đá xanh rì lún phún rêu, gái/Tôi vốn xưa kia là/Thở cồn cái của em Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn/Luồng gió (Vốn xưa kia là). Khe, mép, môi, hang, thông reo vỗ phập phòm…). Tuy nhiên, các hẻm, nước, bờ, ruộng, mương trong thơ biểu tượng sinh thực khí và các ám chỉ Bùi Giáng cũng cặp đôi cặp ba cặp tư kiểu hành vi tính giao trong thơ Hồ Xuân liều lĩnh hang (Cồn cũng có), ruộng em Hương là hiện thân của ‘hoài niệm phồn như thể sương hoàng hậu hoa (Trời không thực’ mang tính vô thức và phần nào mang có nhớ), trời ơi có nhớ hẽm nhà hồng nhan ý thức phái tính và nữ quyền của nữ sĩ, thì (Lần thứ tư trời hôn cái lá), khép hang hố ở Bùi Giáng, ‘cái ấy’ của người nữ với bao thẳm sau tà hồng xiêm (Ngủ yên bên lá), biến thể lấp lóa, lồ lộ, ứ tràn là biểu tượng Hang thăm thẳm sợ xuân tràn ngập mây cho khát khao thành thực, cường tráng, (Thời gian), Trăng đầu sóng loạn lộn là lạ lành mạnh của thi sĩ. Nếu trong diễn ngôn mương (Lộn rừng), Ruộng em như thể ải quyền lực thống trị của giới tinh hoa, việc đồn loạn quân (Ruộng em như thể), Mồng nói về ‘cái ấy’ của người nữ và ‘chuyện ấy’ ba khe lộn ra mồng (Cõi Tô Châu), Ngõ ra của người nam như một kị húy hoặc ít nhất thục nữ hẻm vào hồng nhan (Hái lộn hàng), cũng có quy phạm (Thơ Bút Tre: Làm thơ Mắt thôn nữ ngó khe mương trong mình nên tránh vần ồn…) thì Bùi Giáng biến nó (Siêu thực tuy nhiên màu đen gái núi), Em thành tự nhiên, vui tươi và lành mạnh trong đi bên ấy trăng tròn khép/Hai ống mơ hồ thơ mình. Bằng cách này, Bùi Giáng muốn mỏi một hang (Lý cũng như đào)… Tất cả khẳng định một kiểu giá trị đạo đức xã hội những kết hợp lạ hóa trên đây trong thơ và thẩm mỹ riêng: Dù là gái đốt than/Cũng Bùi Giáng, xét cho cùng đều ám gợi ‘cái đẹp như suối ngàn/Chảy từ trên núi ấy’ của người nữ một cách vui vẻ. xuống/Xin loài người hãy uống/Nước từ hở Sự trùng điệp và biến hóa đa dạng của hang khe/Trong bóng tối đêm khuya/(Hoặc vần ‘ồn’, sự trở đi trở lại của cách nói lái trong ánh sáng ban ngày cũng được) (Ôi và ám gợi ‘cái ấy’ người nữ qua những một người con gái). hình ảnh biểu trưng như lá, cỏ, khe, mép, Thơ Bùi Giáng có không ít bài viết về môi, hang, nước, ruộng, mương… gắn với ‘sự trần trụi’ của người nữ. Dĩ nhiên, kẻ ám gợi ‘chuyện ấy’ của người nam trong nào không biết che đậy cơ thể, nhất là chỗ thơ Bùi Giáng cho thấy một đặc điểm của kín trước mắt người khác, kẻ ấy sẽ bị coi là thơ điên: khước từ những cách nói ‘văn điên rồ (trừ trẻ con và những hành vi có hoa’ hợp chuẩn nhưng tự động hóa và tập thỏa ước như tắm tiên ở các bãi biển…). thể hóa để hướng đến một ngôn ngữ lạ hóa Bùi Giáng không viết về người điên trần thể hiện rõ bản chất sự sống hồn nhiên nhi trụi không mặc quần áo, nhưng thơ ông thể nhiên bất diệt của con người. Hiện tượng hiện một ham muốn được tước bỏ xiêm áo, này không phải là độc sáng, lần đầu tiên có được trần truồng. Có những bài thơ chỉ nhẹ trong diễn ngôn văn chương và diễn ngôn nhàng ‘hở chân’ (Bỏ hai chân, Bàn chân xã hội nếu ta liên hệ với truyện cười, thơ ca với nước), ngồi vén xiêm (Làm thân con 46
  7. gái). Có bài thơ ám gợi sự ‘hở hang’: ‘cồn nghề nghiệp của bác sĩ tâm thần, thơ Bùi hở hang’ (Thúy), ‘hang hầm hở hang’ Giáng còn đầy những hoang tưởng như (Nam Đình nghe động). Nhiều bài viết về hoang tưởng bị hại, hoang tưởng tự cao và chuyện có/không/chưa mặc quần (Nam hoang tưởng được yêu. Bùi Giáng tưởng Đình nghe động, Lẫn lộn lung tung, Hoàng tượng rằng mình sẽ bị Thần Chết bắt về thế hoa siêu thực, Tuy nhiên), mặc quần mới giới bên kia. Ông nói chuyện, tâm tình (Mảnh quần), quần rách (Sa mạc phát tiết, cùng Tử thần (Kính tặng Thần Chết, Tái Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh), giũ áo trút quần tặng Tử Thần, Tái bút cho Tử Thần). Chỉ ở (Ta về)…Mặc hay không mặc quần, quần những tâm hồn thi sĩ mới có ‘hội chứng lành hay rách, cũ hay mới thì điểm đến vẫn được yêu’ rất thơ thế này: Chiêm bao anh là cái trong quần, một ‘ẩn ngữ dịu dàng’ thấy Hoàng Hậu/Nam Phương dắt tay của Bùi Giáng vì Cái không thấy mới thật Marilyn/Kim Cương Nương Tử tới gõ cửa/ kỳ/Còn hơn cái thấy ù lì rõ ra (Tái bút). xin vào thăm viếng anh, thì anh/bảo rằng Các bài thơ về sự khỏa thân trần truồng của anh đang bận viết/lá thư cho em nên không Bùi Giáng cũng thật lắm lối: ‘cởi áo quần thể/nào đón tiếp Hoàng Hậu được thì/cảm ra tắm khe nước’ (Ở trong rừng), ‘vắt quần phiền Hoàng Hậu hãy lui gót/chờ qua ngày phơi khóm trúc’ (Gái lội qua khe), ‘gái mai anh sẽ ân cần chiếu cố (Em Mọi ôi). truồng thân ra’ (Duồng mô din), ‘Nhớ con Tình yêu của vô số nàng thơ rất sống động, gái núi thân truồng’ (Nhớ con gái núi), ‘ở sống động của chất đời đương diễn ra: đó là truồng suốt năm’ (Nai cao nguyên). Nếu tình yêu trần tục của nàng Kim nhân vật ông Diểu trong truyện Muối của Cương:Thương yêu thật sự phì nhiêu/ Tự rừng của Nguyễn Huy Thiệp trần truồng do rờ rẫm yêu kiều của em (Thương em). trong rừng, nồng nỗng ra khỏi rừng, gặp Đó còn là tình yêu chân thành của người rừng kết muối bạt ngàn hoa tử huyền thì con gái trên núi hay chính là Em Mọi nhỏ: nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Giáng cũng Thương anh, em nói thật thà/ Thương anh trần truồng ở nơi rừng rú, khe nước, hang rất mực mà ra phụ lòng/ Nếu anh có thật động. Rừng rú là một ham muốn của Bùi thương em/ Thì xin anh hãy về rừng với em Giáng. Những bài thơ như Gái buồn, Tóc (Lời gái núi). Trong những bài thơ này, bạc thưa rằng, Câu chuyện ở trong núi, một mình Bùi Giáng diễn hai vai, hóa thân Lộn rừng, Em Mọi nằm ngủ ở trong rừng, thành các ‘nàng’, theo đuổi, rủ rê, tỏ bày Lời gái núi, Em mọi là em, Ở trong rừng… tình cảm với thi sĩ. Quả là thi sĩ đã ‘viết thể hiện nỗi niềm hoài nhớ hang núi, hang Mộng ra Thơ’ và ở riêng lĩnh vực yêu rừng, rừng rú dại, rừng xanh, beo cọp gấu đương Bùi Giáng có thể sánh với ông voi vượn, gió núi lộn rừng. Từ khước hoàng thơ tình Xuân Diệu ở độ nồng nàn những bộ quần áo xã hội, trở về rừng tức nhưng siêu thoát hơn, vì cái khung biểu đạt về với bản nguyên sơ khai, hồng hoang, của ông thoáng rộng vô cùng, vì thơ của thiên nhiên, tự do là một ham muốn không ông là ‘thơ điên’! bao giờ vơi cạn của thi sĩ Bùi Giáng. Bùi Giáng không phải là một nhà thơ Đối với những kẻ ‘bình thường không nghèo nàn về mặt ngôn ngữ, bởi Cung Tích điên’, thơ Bùi Giáng dồn ứ những hoang Biền đã từng đánh giá về Bùi Giáng là ‘Tề tưởng kiểu Nhìn nàng tưởng tượng bông Thiên ngôn ngữ’… ‘Ông làm giàu nghìn hoa/Nhìn hoa tưởng thấy thiết tha một lần tiếng Việt’ và với Bùi Giáng thơ lục bát nường (Nàng Tiên). Chiếu theo con mắt Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao 47
  8. mới. Nhưng với một trạng thái tinh thần sĩ ‘đích thực’, những ‘cá nhân bị tâm thần đặc biệt và là một ‘thiên tài tự hủy ghê gớm phân lập’ là ‘thứ ngôn ngữ của phi lí và nhất của thi ca Việt Nam hiện đại’ (Thanh nghịch lí… hướng tới thứ ngôn ngữ nghi Tâm Tuyền), tự hủy về bản thể cũng như tự vấn cái lẽ phải của ngôn ngữ logic và liên hủy trong chính văn chương của mình, hệ nhân quả được chấp nhận chung’ [5, tr ngôn ngữ trong thơ ông chứa đựng sự 159]. Nói cách khác, đây là diễn ngôn của nhiễu loạn ngôn ngữ với các triệu chứng chủ thể tâm thần phân lập, bị diễn như ‘nghèo nàn ngôn ngữ’(poverty of ngôn/quyền lực thống trị tự cho là chân lí, lí speech) và ‘ngôn ngữ vô tổ chức’ tính, chuẩn mực ‘hắt hủi’ và đẩy ra bên lề. (disorganized speech). Đây là những biểu Thuật ngữ được đề xuất bởi G.Deleuze hiện âm tính của bệnh tâm thần phân liệt. và F.Guattari vốn chịu ảnh hưởng bởi các Ông có xu hướng lặp đi lặp lại liên hồi kỳ tư tưởng của M.Foucault. Phân tích mối trận những từ ngữ, những câu thơ mà ông quan hệ giữa chứng điên và nền văn minh yêu thích và đắc ý. Một số nhà phê bình trong công trình Chứng điên và Nền văn tiếc cho thơ ông quá tạp, vàng thau lẫn lộn, minh (Madness and Civilisation - 1967), thơ hay chen lẫn vô số thơ không hay, dở Foucaul chỉ ra rằng, chứng điên là một sản dang. Biết đâu đấy lại chẳng phải là thi phẩm được kiến tạo bởi xã hội chứ không pháp ‘điên rực rỡ’ của thi nhân họ Bùi: phải là sản phẩm tự nhiên. Trước thế kỉ những câu thơ hay nhất, xuất thần nhất, XVI, sự thác loạn tinh thần không bị coi là độc đáo nhất cũng tương tự như những lời đồi bại về mặt xã hội, và người điên được minh triết, sáng suốt thường lẫn vào trong tự do đi lại, không bị quản thúc. Sau thời mớ rơm rác đáng vứt đi trong lảm nhảm điểm này, người điên bị quản thúc trong liên miên của kẻ điên khùng? Phải chăng các nhà thương điên, bị ‘nhốt nơi gác mái’, Bùi Giáng ‘điên’ và ‘thơ điên’ của Bùi bị giam giữ bằng nhiều hình thức khác Giáng là một tự giác nhằm đối lập với toàn nhau, bị ‘nhìn’ bằng một con mắt khác, bị bộ diễn ngôn duy lí, thực dụng, vụ lợi, bị ‘xã hội hắt hủi’. Bởi vì, nền văn minh hiện công thức hóa và hàng hóa hóa nhan nhản đại đề xuất các quy chuẩn chung về mặt tri trong thời đại văn minh của chúng ta? thức và xã hội làm cơ sở để hình thành các 3. Kết luận cộng đồng. Người điên, người già, người Là một nhà thơ ‘điên rực rỡ’, ý thức rõ bệnh, phạm nhân, nghệ sĩ…thường bị tách về tài năng và phẩm giá của người nghệ sĩ khỏi các chuẩn tắc này, tồn tại đồng thời và trong xã hội hiện đại, Bùi Giáng thuộc về song song với phần còn lại, bị xã hội ‘lành một ‘nền văn học thiểu số’, diễn ngôn thơ(*) mạnh’, ‘lí trí’, ‘tỉnh táo’ quản chế và ‘hắt của ông là biểu hiện của kiểu ‘diễn ngôn hủi’. Thái độ và cơ chế ứng xử thiên lệch, tâm thần phân lập’ (discours bất công này dần dần biến thành ‘vô thức schizophrénique). Đây là thuật ngữ do hai tập thể’, trở thành quan điểm chung được triết gia và nhà nghiên cứu văn học người thừa nhận rộng rãi đến mức xem đây là Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất biểu hiện của trình độ văn minh. Foucault trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa và tiếp đó, Deleuze và Guattari coi đây là tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống biểu hiện rõ ràng nhất tình trạng ‘bệnh Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. hoạn’ của nền văn minh tư sản. L’Anti-Œdipe). Hai ông cho rằng nghệ sĩ Cũng theo M.Foucault, diễn ngôn phản ‘đích thực’ tất phải là một ‘cá nhân bị tâm ánh và kiến tạo tri thức, đạt hiệu lực tác thần phân lập’. Ngôn ngữ của những nghệ động làm đổi thay xã hội, vì vậy, nó đồng 48
  9. nhất với quyền lực. Sức mạnh tác động và mang tính ý thức hệ cụ thể với tư cách là điều sự nguy hiểm của diễn ngôn/quyền lực kiện và cơ chế mà từ đó diễn ngôn sản sinh, vận khiến nó phải được/bị kiểm soát và điều hành và tác động (Xem Graham Allen, (2000), Intertextuality, Routledge, London, p 206-210). khiển. Một trong những cơ chế kiểm soát và điều khiển đó là đối lập giữa điên rồ và TÀI LIỆU THAM KHẢO lí tính, xác lập cơ chế bất bình đẳng, theo 1. Jacques Dournes (2007), Trần trụi điên, in đó diễn ngôn của người điên bị diễn trong Phân tâm học và tính cách dân tộc (Đỗ ngôn/quyền lực thống trị loại trừ nhằm đạt Lai thúy biên soạn và giới thiệu), Nxb Tri mục tiêu ổn định trật tự xã hội [8, tr 45-57]. thức, Hà Nội. Cũng như các loại diễn ngôn bị trị/loại trừ 2. Bùi Giáng (2011), Bùi Giáng đười ươi chân khác như diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn kinh, thơ văn tinh tuyển (Thiên Hải Đoạn hậu thực dân, diễn ngôn tính dục đồng Trường Nhân tuyển chọn và giới thiệu), Nxb giới… diễn ngôn tâm thần phân lập là đối Hội nhà văn, Hà Nội. tượng nhận được sự quan tâm phân tích từ 3. Trần Mạnh Hảo, Đây thôn Vĩ Dạ cũng là thơ nhiều phía. Bởi vì, theo quan niệm của điên – một phát minh mới của ông Chu Văn Sơn, http://giaitri.vnexpress.net/tin- G.Deleuze và F.Guattari, diễn ngôn tâm tần tuc/sach/lang-van/day-thon-vi-da-cung-la-tho- phân lập là nhân tố cách mạng, vừa đối lập dien-mot-phat-minh-moi-cua-ong-chu-van- với sự thống trị của diễn ngôn văn hóa son-1973773.html được chấp nhận chung, vừa giải phóng cá 4. Giao Hưởng, Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa nhân nghệ sĩ khỏi sự áp chế của diễn ngôn Bùi Giáng vào nhà thương điên, duy lí và trật tự thông thường. Bài viết này, http://www.thanhnien.com.vn/van-hoa-nghe- ở một góc độ nào đó, muốn khẳng định thuat/chuyen-doi-bui-giang-ai-dua-bui-giang- rằng, Bùi Giáng và kiểu thơ Bùi Giáng vao-nha-thuong-dien-363191.html chính là biểu hiện thú vị nhất của diễn 5. Ilin và Tzurganova (2003), Các khái niệm và ngôn tâm thần phân lập. Chứng điên và thơ thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX, (Đào Tuấn điên của ông, không nghi ngờ gì nữa, dĩ Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), nhiên thuộc về phía cách tân: cách tân Nxb ĐHQG, Hà Nội. ngôn ngữ thi ca. Đến đây, xin mượn thơ 6. Đoàn Cầm Thi, Sáng tạo văn học giữa mơ và điên Bùi Giáng kết thúc bài viết này, với hi (Đọc “Thoạt kì thủy” của Nguyễn Bình Phương), vọng thơ ông sẽ tiếp tục được đọc từ những http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang- góc độ khác: Doáng booao diêu tuổi van/sang-tao-van-hoc-giua-mo-va-dien-doc-thoat- Doáng giòa/Điêng booao diêu tuổi gọi lòa ky-thuy-cua-nguyen-binh-phuong-2140778.html điêng non/Người còn thì của hãy còn/Còn 7. Đỗ Lai Thúy, Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ, thèng Bùi Doáng hãy còon cái điêng! http://khoavanhoc- Chú thích: ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_c (*)Diễn ngôn (discourse) là một thuật ngữ ontent&view=article&id=4301%3Aybui-giang- được hiểu theo những cách khác nhau tùy thuộc nha-th-ca-cac-nha-th&catid=133%3Ata-am- vào các ngữ cảnh và chuyên môn cụ thể. Trên đại khoa-hc-v-bui-giang-&Itemid=199&lang=vi thể, diễn ngôn được xem là thực tiễn nói/viết của 8. Trần Văn Toàn (2015), “Dẫn nhập lí thuyết chủ thể ngôn từ cá thể hóa, hành chức và đạt hiệu diễn ngôn của M.Foucault và nghiên cứu văn lực trong những bối cảnh xã hội xác định, luôn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5 (519), phản ánh những mã, những sức ép, những mong tr 45-57. đợi, những chuẩn tắc và những tiền giả định Ngày nhận bài: 04/11/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015 49
nguon tai.lieu . vn