Xem mẫu

CHÍNH SÁCH ĐIỀU TIẾT GIÁ NHỮNG HÀNG HÓA QUAN TRỌNG, THIẾT
YẾU VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
PGS. TS. Ngô Trí Long

Nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung,
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã được
khẳng định. Trong quá trình đó, đòi hỏi vừa phải xây dựng những yếu tố, tiền đề của
kinh tế thị trường, vừa phải hoàn thiện những yếu tố đã có. Cùng với tiến trình chung
đó, cơ chế quản lý, điều tiết giá ở nước ta đã, đang từng bước được hoàn thiện và đổi
mới nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô: Đảm bảo sự tăng
trưởng ổn định, bền vững; Kiềm chế đẩy lùi lạm phát; Xây dựng ngân sách; Cán cân
thương mại lành mạnh; Đảm bảo sự công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế phát
triển có hiệu quả.
Đổi mới cơ chế quản lý, điều tiết giá là một trong những vấn đề quan trọng
trong công cuộc cải cách kinh tế trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam.
Chính sách điều tiết, kiểm soát giá của nhà nước thời gian qua và hiện nay đối
với một số hàng hóa quan trọng và thiết yếu như: giá điện, giá xăng dầu, giá nhà đất, giá
gas, giá sữa, giá thuốc Tây... là một trong những nội dung quan trọng trong việc bình ổn
giá , kiểm soát lạm phát, thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Nội dung chính sách
điều tiết giá được trình bày qua 2 nội dung sau:
- Chính sách điều tiết giá một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu của nước ta
- Kết luận và những khuyến nghị
I- Chính sách điều tiết giá một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu của nước ta
1- Giá bán điện
1.1- Thực trạng và chính sách giá bán điện
Tính đến nay, đa số các ngành trong nền kinh tế nước ta đã có sự cạnh tranh trên
thị trường, song ngành điện vẫn ở thế độc quyền, đang vận hành theo mô hình liên kết
dọc truyền thống. Hiện nay các bên tham gia vào thị trường phát điện tại Việt Nam là
các công ty Nhà nước như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam (PVN), Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (VINACOMIN) và các nhà sản
xuất điện độc lập (IPPs) và dự án BOT nước ngoài. Các công ty Nhà nước chiếm thị
phần rất lớn trong sản xuất điện.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) hiện đang sở hữu phần lớn công suất các
nguồn điện, nắm giữ toàn bộ khâu truyền tải, phân phối và kinh doanh bán lẻ điện.
EVN cũng giữ vai trò là đơn vị mua điện duy nhất, Tổng Công ty mua bán điện thuộc
170

EVN mua điện năng từ các nhà máy điện khác ngoài EVN như Tập đoàn dầu khí Việt
Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) v.v... để
phân phối và bán lẻ điện cho các hộ tiêu thụ điện. Có thể nói, cho đến nay EVN vẫn là
tổ chức độc quyền kinh doanh điện trong toàn quốc, chưa có sự cạnh tranh ở bất cứ
hoạt động nào trong các khâu của ngành điện.
Theo số liệu của Cục Điều tiết Điện lực, tính đến đầu năm 2011, tổng công suất
các nguồn điện toàn hệ thống là 21.542MW. Trong đó, EVN đang quản lý vận hành 24
nhà máy điện với tổng công suất là 14.233MW (chiếm 65,32%), PVN là 2.278MW
(chiếm 10,57%), TKV là 1.046MW (chiếm 4,86%), các nhà đầu tư nước ngoài là
2.115MW (chiếm 9,82%), tư nhân là 50MW (chiếm 2,32%), nhập khẩu là 1.000MW
(chiếm 4,64%), các loại hình khác là 370MW (chiếm 1,72%). Qua các số liệu trên cho
thấy: EVN nắm giữ phần lớn công suất phát điện, các thành phần khác như PVN, TKV
chiếm tỷ trọng rất nhỏ, với vai trò bổ sung thêm nguồn điện đóng góp vào nguồn điện
đang thiếu hụt phục vụ phát triển kinh tế xã hội, mà chưa hề mang một dấu ấn gì trong
phát điện cạnh tranh và kinh doanh bán điện độc lập.
Trong những năm gần đây hoạt động của EVN kém hiệu quả, sản xuất kinh
doanh thua lỗ, nợ hàng năm tăng cao, dẫn tới thiếu nguồn vốn cho đầu tư phát triển,
vay vốn rất khó khăn, thiếu minh bạch và mất lòng tin với khách hàng mỗi khi đề
xuất việc tăng giá điện. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do sự
phát triển chậm chạp thị trường điện cạnh tranh, EVN nắm giữ độc quyền kinh doanh
điện quá lâu.
Điện là loại hàng hóa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đặc
biệt đối với sản xuất và đời sống. Mỗi sự thay đổi của giá điện đều tác động đến chi
phí sản xuất, đến giá thành, giá cả của các hàng hoá khác và đến đời sống dân cư. Do
vậy, giá điện là vấn đề hết sức nhạy cảm và được quan tâm bởi người sản xuất, kinh
doanh điện, khách hàng tiêu dùng điện cho sản xuất và đời sống, các nhà đầu tư, người
lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu.
Giá điện ở Việt Nam, từ năm 1992 đến nay đã điều chỉnh tăng trên chục lần.
Nếu tính từ năm 2009 đến nay, giá điện đã 5 lần tăng. Cụ thể, năm 2009 giá điện tăng
8,92%, giá điện sinh hoạt tăng theo mức giá từ 600 đến 1.790 đồng/kWh (tùy bậc
thang). Đến năm 2010 giá điện tăng 6,8%, điện sinh hoạt tăng lên trong khoảng 6001.890 đồng/kWh. Năm 2011, từ ngày 1-3 giá điện tăng 15,3%, giá điện sinh hoạt tăng
lên từ 993 đến 1.974 đồng/kWh. Ngày 20-12-2011, giá điện tăng lần hai trong năm với
mức 5%, giá bán điện sinh hoạt tăng từ 993 đến 2.060 đồng/kWh. Kể từ ngày 1-72012, giá điện bình quân tăng từ 1.304 đồng/kWh lên 1.369 đồng/kWh (tăng 65
đồng/kWh, khoảng 5%).
Biểu giá bán điện đã được điều chỉnh nhiều lần, với sự cải tiến nhằm đáp ứng
những đòi hỏi mang tính khách quan của việc hình thành giá bán điện và yêu cầu
171

chính sách của Đảng và Nhà nước. Biểu giá điện hiện hành được xây dựng trên cơ sở
giá thành bình quân toàn ngành có tính đến yếu tố đầu tư phát triển và chính sách xã
hội. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi giá bán điện như thế nào để vừa
phát triển ngành điện, vừa đảm bảo phát triển các ngành sản xuất khác, cạnh tranh
được với các nước trong khu vực và thế giới.
Giá điện bình quân được xác định trên cơ sở của giá thành bình quân toàn
ngành và thuế thu nhập. Hệ thống biểu giá bán lẻ điện phân theo nhóm đối tượng
khách hàng (cho các ngành sản xuất, cho khối hành chính sự nghiệp, cho kinh doanh,
cho sinh hoạt, cho điện sinh hoạt dùng công tơ thẻ trả trước ); phân cấp theo điện áp,
theo giờ trong ngày.
Điện là một sản phẩm quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, nên
không thể tích trữ tồn kho. Điện còn là hàng hoá hết sức nhạy cảm, mỗi sự thay đổi
của giá điện đều có tác động đến sản xuất và đời sống. Đến 31/12/2002, 100% số
huyện trên toàn quốc đã có điện lưới và điện tại chỗ. Việc sản xuất và cung ứng điện
hiện nay chủ yếu do Tập đoàn Điện lực Việt Nam đảm nhiệm, do vậy mang tính độc
quyền cao. Chính vì vậy mà giá điện là một trong số ít giá đang được quản lý bằng các
mức giá cụ thể.
Hơn 6 năm qua, việc thi hành Luật Điện lực đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Cơ chế, chính sách về giá điện được thực hiện theo hướng có sự điều tiết của Nhà
nước. Có cơ chế bù giá hợp lý giữa các nhóm khách hàng, đặc biệt đối với nhóm
khách hàng là người nghèo, người có thu nhập thấp. Hoạt động cấp phép được triển
khai đồng bộ trên phạm vi toàn quốc. Các quy định về thị trường điện tại Chương IV
của Luật Điện lực là cơ sở pháp lý quan trọng, để triển khai việc chuyển các hoạt động
điện lực sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tính đến nay giá điện bình quân (kể cả thuế VAT) là 1.434 đ/kWh (tương
đương 7 UScent/kWh). Biểu giá điện sau mỗi lần điều chỉnh có được cải thiện, tuy
nhiên vẫn chưa đáp ứng được 3 mục tiêu chủ yếu của giá điện: hiệu quả kinh tế, công
bằng xã hội, khả thi tài chính.
Biểu giá điện và ban hành các kỳ điều chỉnh giá điện còn chưa thuyết phục, mang
nặng cơ chế hành chính, thiếu cơ sở khoa học, thiếu minh bạch nên khó thuyết phục được
sự đồng thuận của các khoa học, quản lý, đặc biệt các khách hàng sử dụng điện.
Giá điện hiện nay đang thực hiện theo Luật Điện lực ban hành ngày 14 tháng 12
năm 2004 bao gồm: (Điều 29. Chính sách giá điện. Điều 30. Căn cứ lập và điều chỉnh
giá điện. Điều 31.Giá điện và các loại phí.)
Tuy nhiên, về phương pháp xây dựng biểu giá điện hiện nay chủ yếu dựa trên
chi phí thống kê hạch toán giá thành của EVN (chưa đủ độ tin cậy), với mục đích bù lỗ
mà không tính đến nguyên nhân và các biện pháp giảm chi phí, chưa áp dụng phương
pháp phổ biến và hiện đại theo chi phí biên dài hạn, chưa xây dựng biểu giá 2 thành
172

phần: công suất và điện năng, điều chỉnh giá điện mới chú ý đến làm tăng giá điện mà
chưa quan tâm đến giảm giá điện như mùa nước và việc tăng công suất các nhà máy
thuỷ điện, giảm tổn thất, giá thành...
1.2- Những bất cập về giá điện hiện nay :
Với nhu cầu về vốn rất lớn để đầu tư cho hệ thống điện lực quốc gia, nhưng Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lại đang thiếu vốn trầm trọng. Trong khi đó, việc cổ
phần hóa các doanh nghiệp phân phối trực thuộc, một giải pháp huy động vốn hữu
hiệu bậc nhất, lại đang chững lại, mà theo lý giải của ngành điện, nguyên nhân cốt lõi
là do giá điện thấp. Giá bán điện thấp cũng là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư trong,
ngoài nước không mặn mà bỏ tiền vào các khâu của quá trình sản xuất điện. Đối với
việc cổ phần hóa, thì đây chính là một rào cản lớn. Cổ phần hóa bị ngưng trệ là thực
trạng chung của ngành điện. Trước những khó khăn trong quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp kinh doanh, phân phối điện, tại văn bản số 1332/TTg-ĐMDN, ngày 189-2007, liên quan tới việc thành lập Công ty mua - bán điện độc lập, Chính phủ cũng
đã chỉ đạo, tạm thời dừng cổ phần hóa các công ty phân phối điện tại EVN.
Về giá điện hiện nay chứa đựng nhiều điều bất hợp lý. Phân phối là khâu hiện
nay rất ít nhà đầu tư quan tâm, bởi giá bán điện thấp, hơn nữa, 28% sản lượng điện
thương phẩm thực hiện trợ giá đối với người dân ở nông thôn, hộ nghèo. Do khâu
phân phối điện chưa mang đặc trưng của thị trường, nguyên vật liệu đầu vào sản xuất
điện, như: dầu, than, khí... có giá biến động liên tục, nhưng giá bán điện cho khách
hàng lại cố định theo quy định của Chính phủ.
Giá điện không theo cơ chế thị trường mà tính theo chi phí bình quân dài hạn,
trên cơ sở kế toán nội bộ ngành, có sự điều tiết của Nhà nước. Cách tính giá trên nhằm
bảo đảm cân bằng cán cân kinh tế vĩ mô, cũng như các mục tiêu công ích. Bởi lẽ,
nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát nên EVN đã và đang phải bán
điện thấp hơn giá thành. Giá điện thấp đã khiến không chỉ EVN mà các đơn vị sản
xuất cung ứng điện khác như: PVN, TKV và các nhà đầu tư khác đang gặp nhiều khó
khăn về hoàn vốn, đảm bảo đủ chi phí trong hoạt động điện lực. Tuy nhiên, thời gian
qua, Chính phủ đang nỗ lực kiềm chế lạm phát nên ngành điện chưa thể tăng giá.
Song, chính sự định giá không căn cứ vào thị trường kéo dài quá lâu, nặng yếu tố chủ
quan, kế hoạch, dẫn tới sai lệch giữa giá thực sản xuất và giá bán. Giá điện thấp tạo
sức ì của nhiều ngành kinh tế.
Giá điện thấp của nước ta hiện nay so với một số nước thuộc khu vực vô hình
chung đang khuyến khích công nghệ lạc hậu, hao tổn năng lượng phát triển. Một số ngành
tiêu hao năng lượng rất lớn, do áp dụng nhiều công nghệ lạc hậu, như xi-măng, sắt thép...
nhưng hàng loạt dự án lớn vẫn được cấp phép, dù nhu cầu trong nước đã bão hòa. Bởi
vậy, lợi nhuận của những ngành tiêu tốn năng lượng lớn này (riêng hai ngành xi-măng, sắt
thép tiêu thụ điện năng chiếm 10% tổng điện năng cả nước), nhiều khi lại không bằng

173

khoản lỗ mà ngành điện phải bù do bán giá thấp. Điều này tạo ra lợi nhuận “ảo”, sự tăng
trưởng không thực chất.
Ngành điện ngoài chức năng kinh doanh, còn phải đảm đương nhiệm vụ công
ích, hỗ trợ giá điện cho các đối tượng có thu nhập thấp. Tuy nhiên, cách tính giá điện
lũy tiến như hiện nay, chúng ta đang bao cấp giá cho cả hộ nghèo lẫn hộ giàu và các
nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư, khi sản xuất sản phẩm giá rẻ vì hưởng lợi từ
giá điện thấp, nhưng xuất bán ra ngoài với giá cao. Tính công ích, xã hội trong giá
điện, như mục đích ban đầu của nó, đã không thể hiện rõ nét.
Bất cập của giá điện như trên là khó tránh khỏi khi cơ chế hoạt động của EVN
đang có sự chồng chéo giữa phần kinh doanh và công ích. Mặt khác, với cơ chế Nhà
nước không bù lỗ mà ngành điện tự bù chéo, lấy điện giá rẻ (chủ yếu là thủy điện) bù
nguồn điện giá cao hơn, khi xảy ra thiên tai, hạn hán, nguy cơ thiếu điện sẽ lại hiển
hiện cùng áp lực tăng giá điện.
Mô hình tổ chức theo dạng khép kín, vẫn giữ phần chi phối ở nhiều khâu có thể
tách ra độc lập của EVN cũng được coi là chưa phù hợp, dẫn tới sự thiếu cạnh tranh để
tạo giá điện hợp lý. Mặt khác, để điều hòa, ổn định nền kinh tế vĩ mô, vai trò điều tiết
của Nhà nước đối với giá điện rất quan trọng. Song về lâu dài, giá điện cũng cần chuyển
sang cơ chế thị trường, khi đó vai trò điều tiết của Nhà nước chủ yếu thể hiện ở các quy
định của Luật Điện lực, mà các bên tham gia thị trường điện phải tuân thủ chặt chẽ.
Những bất cập của giá điện cũng nảy sinh từ chính năng lực quản lý của EVN.
Hàng loạt dự án lớn về nguồn điện, như nhiệt điện Hải Phòng, Quảng Ninh, Mạo Khê...
đều bị chậm tiến độ so với quy hoạch gần hai năm, do việc lựa chọn nhà thầu chất lượng
kém, công nghệ nhà máy điện lạc hậu... Hậu quả của những chậm trễ trên khiến Quy
hoạch điện VI tới năm 2010 chỉ đạt 74% nguồn điện so với yêu cầu. Đây chính là một
trong những nguyên nhân lớn nhất gây tình trạng thiếu điện. Dư luận đang đặt dấu hỏi
lớn về trách nhiệm của chủ đầu tư những dự án này.
Hiệu quả kinh doanh thấp của các doanh nghiệp ngành điện một phần cũng do
sức ỳ lớn vì hoạt động quá lâu trong cơ chế cũ. Việc cổ phần hóa cũng đồng nghĩa với
áp lực lớn hơn về lợi nhuận, sự năng động trong sản xuất kinh doanh, do đó với sức ỳ
trên, nhiều doanh nghiệp... ngại cổ phần hóa. Như vậy, bất cập về giá điện đến từ cả hai
phía: cơ chế và năng lực quản lý, qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình cổ phần hóa.
1.3- Những khuyến nghị về chính sách điều tiết giá điện cho năm 2013
và những năm tới
Theo lộ trình Chính phủ phê duyệt, thị trường bán lẻ điện cạnh tranh sẽ được
thực hiện sau năm 2022. Trên lộ trình đó, giá điện sẽ dần được vận hành theo cơ chế thị
trường. Tuy nhiên để thị trường trên hoạt động, cần chuẩn bị, tạo dựng rất nhiều các
điều kiện.Trong giai đoạn trước mắt, giá điện thấp, cùng với khó khăn của ngành điện là
một thực tế rõ ràng. Việc tăng giá điện là điều khó tránh khỏi, thậm chí nên làm, vấn đề
quan trọng là cần thay đổi nhận thức về tăng giá điện và cách thức tăng ra sao. Việc tăng
174

nguon tai.lieu . vn