Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016 Chất dân gian của Truyện Kiều The folk quality of Kieu Tale TS. Nguyễn Thị Kim Ngân, Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Nguyen Thi Kim Ngan, Sai Gon University Tóm tắt Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều trường tồn và được phổ biến rộng rãi. Từ khóa: chất dân gian, Truyện Kiều, Nguyễn Du, chất bác học… Abstract Kieu Tale is a masterpiece of traditional literary. It is a tale of classical poetry that marries the folk poetry with the savant. The folk substances of Kieu Tale can be found in the manners how the narrators and the literary characters tell and perceive in term of poetics and thoughts and feeling as well. The perfect aggregation of the savant and folk quality makes the Kieu Tale everlasting and widespread. Keywords: folk substance, Kieu Tale, Nguyen Du, the savant… Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác gũi với công chúng và được yêu mến phẩm lớn của văn học dân tộc. Một trong rộng rãi. những đặc điểm quan trọng của Truyện Kết thúc Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Kiều là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính dân Lời quê chắp nhặt dông dài gian và tính bác học. Đặc điểm này đã tạo Mua vui cũng được một vài trống canh nên giá trị và tính phổ biến của tác phẩm, “Lời quê”ở đây có thể hiểu là cách nói làm cho Truyện Kiều được lưu truyền rộng khiêm tốn của Nguyễn Du, nhưng đồng rãi trong nhân dân từ đời này sang đời khác. thời cũng có thể hiểu là ông nói thực khi Chất dân gian trong Truyện Kiều bộc lộ qua không làm thơ bằng chữ Hán mà bằng chữ cách nói, cách cảm và cách nghĩ của Nôm, khi không sử dụng những thể thơ tứ Nguyễn Du, của người tường thuật cũng tuyệt hay thất ngôn với niêm luật chặt chẽ như của các nhân vật trong tác phẩm. Tìm mà dùng thể thơ lục bát mà chắc chắn cho hiểu chất dân gian của Truyện Kiều sẽ giúp đến lúc đó vẫn còn được xem là tiếng nói chúng ta hiểu thêm vì sao tác phẩm của của người dân quê. Việc chọn thể thơ lục Nguyễn Du trường tồn qua thời gian, gần bát để kể lại Kim Vân Kiều truyện đã đưa 14
  2. tác phẩm của Nguyễn Du vào hàng các Lại còn bưng bít dấu quanh truyện Nôm và vì vậy ngay từ đầu nó đã Làm chi những thói trẻ ranh nực cười mang chất dân gian rất rõ. Bây giờ đất thấp trời cao Vì sao một ông quan, một nhà Nho Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? dòng dõi, tác giả của Nam trung tạp ngâm, Bề ngoài thơn thớt nói cười Bắc hành tạp lục lại chọn dịch một truyện Mà trong nham hiểm giết người không dao tài tử - giai nhân như Kim Vân Kiều truyện Đặc biệt có những câu đúng là lời quê và chọn một thể thơ “quê” như lục bát? Có vì ở đây có những chữ, những cách nói mà lẽ bởi vì Nguyễn Du thuộc lớp “nhà nho tài có lẽ chỉ người dân quê mới biết, mới tử” (chữ của Trần Đình Hượu), muốn tìm dùng, ví dụ: một chút phóng túng trong những câu Ông bà càng nói càng đau chuyện tài tử - giai nhân và trong một thể Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa thơ bình dân, thoải mái, thoát khỏi “luật (Bản của Đào Duy Anh chép:.. “càng rầu thơ nghiêm như luật hình” (Phạm Quỳnh) như dưa”) để thõa mãn một phần cái chất phi chính Hay: thống, ý thức tự do trong con người nghệ sĩ Kẻo khi sấm sét bất kỳ của nhà thơ. Cũng có lẽ vì những năm trẻ Con ong cái kiến kêu gì được oan tuổi Nguyễn Du đã từng sống ở Tiên Điền, Cho gươm mời đến Thúc Lang thường sang Trường Lưu chơi và hát Mặt như chàm đổ mình dường giẻ (dẽ) run phường vải. Những câu hát dân gian đã để Tuy nhiên nếu nói đến chất gian trong lại trong Nguyễn Du ấn tượng sâu sắc và cách nói của Nguyễn Du, phải thừa nhận thị hiếu thẩm mỹ của nhà thơ đã chịu ảnh rằng việc sử dụng tục ngữ và thành ngữ hưởng một phần của thị hiếu dân gian. Có trong Truyện Kiều là yếu tố gây ấn tượng lẽ chính vì thế mà Nguyễn Du đã chọn “lời hết sức mạnh mẽ. Nhiều thành ngữ như “ăn quê” để kể câu chuyện về đời Kiều và nhờ xổi ở thì”, “miệng hùm nọc rắn”, “mèo mả “lời quê” ấy, tác phẩm của nhà thơ đã gà đồng”... đã đi vào câu thơ của Truyện nhanh chóng đi vào quần chúng và bước Kiều một cách tự nhiên thoải mái: vào quỹ đạo của những giá trị văn hóa Phải điều ăn xổi ở thì truyền thống đậm đà bản sắc dân gian. Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày Lục bát là “lời quê", nhưng “lời quê” Ra tuồng mèo mả gà đồng không chỉ thể hiện trong lối nói bằng câu Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào thơ lục bát. Trong Truyện Kiều chúng ta Thân ta ta phải lo âu bắt gặp rất nhiều câu thơ gần với lời ăn Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này tiếng nói hàng ngày của người bình dân: Đáng chú ý nhất là Nguyễn Du đã sử Quá niên trạc ngoại tứ tuần dụng tài tình cách tổ chức lời thơ dựa trên Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao tinh thần hay kết cấu của tục ngữ, làm cho Cò kè bớt một thêm hai cách diễn đạt của tác giả gần với cách nghĩ Hồi lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm của người nghe, người đọc bình dân và câu Lo gì việc ấy mà lo thơ cũng trở nên gần gũi quen thuộc với Kiến trong miệng chén có bò đi đâu họ. Trong Truyện Kiều có khá nhiều câu Thậm chí có những câu không khác gì như vậy. Có trường hợp Nguyễn Du mượn những lời nói dân dã: ý của tục ngữ để nói, ví dụ như: 15
  3. Sống làm vợ khắp người ta Thứ nhất là tính chất và cấu trúc lời Khéo thay thác xuống làm ma không chồng thơ: Có nhiều trường hợp câu thơ Kiều Thôi con còn nói chi con giống với câu ca dao. Đầu tiên là những Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người câu giống nhau gần như hoàn toàn: (Tục ngữ: "Sống gửi thác về”) Vầng trăng ai xẻ làm đôi Hay: Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng Tẻ vui bởi tại lòng này (Ca dao) Hay là khổ tận đến ngày cam lai Vầng trăng ai xẻ làm đôi (Tục ngữ: “Khổ tận cam lai”) Nửa in gốc chiếc, nửa soi dặm trường Nhưng nhiều trường hợp Nguyễn Du (Truyện Kiều) gần như đưa nguyên câu tục ngữ vào mà lời Hay: thơ vẫn ngọt ngào, không chút khiên cưỡng: Lặng nghe lời nói như ru Hổ sinh ra phận thơ đào Đêm thu dễ khiến nét thu ngại ngùng Công cha nghĩa mẹ, kiếp nào trả xong (Ca dao) (Tục ngữ: “Công cha nghĩa mẹ”) Lặng nghe lời nói như ru Vợ chàng quỉ quái tinh ma Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau (Truyện Kiều) (Tục ngữ: “Kẻ cắp gặp bà già”) Về những trường hợp này các nhà Sợ khi ong bướm đãi đằng nghiên cứu đã có ý kiến nhận xét: “Thực ra Đến điều sống đục sao bằng thác trong quả là khó mà xác định được rằng ở đây (Tục ngữ: “Sống đục sao bằng thác trong”) Truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của thơ ca Chút riêng chọn đá thử vàng dân gian hay là thơ ca dân gian đã chịu ảnh Biết đâu mà gửi can trường vào đâu hưởng của Truyện Kiều” (Đinh Gia Khánh)(1). (Tục ngữ: “Đá thử vàng”) Tiếp theo là những trường hợp giống Cùng với việc sử dụng thể thơ lục bát nhau một phần: và lời ăn tiếng nói dân gian, Nguyễn Du đã Trăm năm đá nát vàng phai chọn cách tổ chức lời thơ theo thi pháp của Lời nguyền với bạn nhớ hoài không quên thơ ca trữ tình dân gian, thi pháp ca dao và (Ca dao) điều đó đã làm cho âm điệu và màu sắc dân Thẹn mình đá nát vàng phai gian của Truyện Kiều càng thêm nổi bật. Trăm năm dễ chuộc một lời được sao Người bình dân vốn quen với những câu (Truyện Kiều) hát dân gian, vì vậy những câu thơ có kết Trăm năm nước chảy đá mòn cấu nhịp điệu và hình ảnh tương tự với ca Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thương dao dân ca dễ mang lại cảm giác gần gũi (Ca dao) thân thuộc. Ấn tượng về chất dân gian sâu Dẫu rằng sông cạn đá mòn đậm của Truyện Kiều có lẽ một phần cũng Con tằm đến thác cũng còn vương tơ bắt nguồn từ đây. (Truyện Kiều) Không có điều kiện đi sâu phân tích Có trường hợp câu Kiều và câu ca dao sự tương đồng về thi pháp của Truyện Kiều chỉ giống nhau một chữ: và ca dao, ở đây chúng tôi chỉ dừng lại nêu Thân em như hạt mưa sa lên mấy điểm sau. Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày (Ca dao) 16
  4. Hạt mưa sá nghĩ phận hèn Có thể nói đây là những khuôn hình Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân phổ biến của câu lục bát dân ca, đồng thời (Truyện Kiều) cũng là cách cấu trúc phổ biến của câu thơ Dù chỉ giống nhau ở chữ “hạt mưa” Kiều. Trong Truyện Kiều chúng ta bắt gặp nhưng câu Kiều vẫn phảng phất hơi ca dao dày đặc những câu theo dạng thứ nhất: Hoa do gắn với nỗi buồn về thân phận người phụ trôi bèo dạt/ Rung cải rơi kim/ Bèo nổi mây nữ chồng chất trong biểu tượng “hạt mưa”. chìm/ Gió kép mây đơn/ Bướm chán ong Trong Truyện Kiều không hiếm những câu chường/ Sớm đào tối mận/ Bể Sở sông như vậy. Chẳng hạn khi Nguyễn Du viết: Ngô/ Muôn oán nghìn sầu/ Gió thảm mưa Khóc than khôn kiếp sự tình sầu/ Ve ngân vượn hót... Khéo vô duyên bấy là mình với ta Đòi phen gió tựa hoa kề Chúng ta như nghe đâu đó âm điệu Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu câu ca dao: Chị dù thịt nát xương mòn Mình về có nhớ ta chăng Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Ta như lạt buộc khăng khăng đợi mình Cũng như những câu theo kiểu thứ hai: Nhưng có lẽ ấn tượng về âm lượng ca Rắp mong treo ấn từ quan dao của câu thơ Kiều hiện lên rõ nét nhất Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha trong cách cấu trúc câu thơ. Chúng ta đều Nàng thì dặm khách xa xăm biết lục bát là thể thơ giàu chất nhạc. Nhạc Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây điệu của câu thơ lục bát bộc lộ trong nhịp, Dập dìu lá gió cành chim trong vần, đặc biệt là trong lối tổ chức câu Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh thơ theo nguyên tắc đối xứng và song Sự tương đồng về cấu trúc câu thơ làm hành. Câu lục bát ca dao thường có hai lối cho nhiều câu Kiều đọc lên nghe như câu đối xứng và song hành chủ yếu. Thứ nhất ca dao. Điều này cũng giải thích vì sao là kiểu: Ong bay bướm lượn/ Trăng tắt sao Truyện Kiều dễ đi vào lòng quần chúng lao thưa/ Én liệng nhạn bay/ Gừng cay muối động, được nhiều người thuộc. mặn/ Vàng tan ngọc nát/ Sông cạn đá mòn/ Kiểu cấu trúc lời thơ như trên, ngoài Đá nát vàng phai: yêu cầu về tính nhạc, còn gắn với yêu cầu Tay nâng chén muối đĩa gừng về nghĩa và cái nghĩa này thường hiện ra Gừng cay muối mặn xin đừng có quên dưới hình thức các biểu tượng: Một lòng chỉ quyết lấy anh Hoa trôi bèo dạt đã đành Ong bay bướm lượn chung quanh mặc Trời Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi Nửa đêm trăng tắt sao thưa Tái sinh chưa dứt hương thề Em mong thầy mẹ ngủ, em đưa anh về Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai Dạng thứ hai là kiểu: Tình kia chưa Nào người phượng chạ loan chung trả, nghĩa này chớ quên/ Khi trăng đang tỏ, Nào người tiếc lục tham hồng là ai khi hoa đang thì/ Ngày thì dãi nắng, đêm Trong Truyện Kiều có rất nhiều câu thì dầm sương: mang biểu tượng như vậy. Theo thống kê Nước vơi rồi lại nước đầy của các nhà nghiên cứu, ca dao truyển Tình kia chưa trả, nghĩa này chớ quên thống có khoảng trên dưới 100 biểu tượng Một niềm vàng đá khăng khăng về thiên nhiên(2). Trong Truyện Kiều, theo Ba thu cũng đợi, chín trăng cũng chờ khảo sát ban đầu của chúng tôi có gần 40 17
  5. biểu tượng như vậy. Đó là các biểu tượng đồng cảm của người bình dân với Truyện như: Ong bướm, Gió trăng, Hoa trôi bèo Kiều chủ yếu không nằm ở đó. Cách nói là dạt, Đá vàng, Phong Nguyệt, Nước non, cái để dễ tiếp cận ban đầu, nhưng cách Nguyệt hoa, Yến oanh, Vườn hồng (Chim cảm, cách nghĩ mới là cái chính. Bởi vậy xanh), Trúc mai, Đào mận, Đào liễu, Hoa khi tìm hiểu chất dân gian của Truyện bướm, Nhện tơ, Đèn trăng, Tằm tơ, Thuyền Kiều, nếu chỉ xem xét cách nói của Nguyễn bến, Thuyền sóng, Cá chim, Rồng phượng, Du thể hiện trong lối sử dụng thể thơ lục Phượng loan, Cá nước, Bèo sóng, Bèo bát, sử dụng thành ngữ, tục ngữ, biểu mây, Hoa đèn… tượng, hay lối cấu tạo lời thơ thì không đủ. Vẻ chi một đóa yêu đào Nhận xét về thơ ca trữ tình dân gian, Vườn hồng đâu dám ngăn rào chim xanh nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh nói rằng (Truyện Kiều) trong ca dao “Âm điệu nhớ, thương, buồn, Bây giờ mận mới hỏi đào thường lặp đi lặp lại”, phản ánh tâm trạng Vườn hồng đã có ai vào hay chưa của con người trong hoàn cảnh xã hội còn (Ca dao) nhiều điều ngang trái, nghèo nàn và lạc Càng trông mặt càng ngẩn ngơ hậu, bất công(3). Quả đúng như vậy, đọc ca Ruột tằm đôi đoạn như tơ rối bời dao chúng ta bắt gặp không biết bao nhiêu (Truyện Kiều) chữ buồn, chữ nhớ, chữ thương, và những Ruột tằm bối rối tơ vương câu thơ mang âm điệu ấy: Như ai để nhớ để thương trong lòng Ra về nhớ bạn khóc thầm (Ca dao) Nằm thân áo vải ướt đầm cả năm Gìn vàng giữ ngọc cho hay Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai (Truyện Kiều) Lời thề chứng có nước non Thương cha thương mẹ có khi Vàng tan ngọc nát vẫn còn thương nhau Thương em lúc đứng lúc đi lúc ngồi (Ca dao) Thương thương nhớ nhớ sầu sầu Biểu tượng là những hình tượng mang Một ngày ba bận ra cầu đứng trông ý nghĩa tượng trưng được cố định hóa, lặp Anh buồn có chốn thở than đi lặp lại nhiều lần, chứa đựng một nội Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya dung qui ước. Chính nhờ có nhiều biểu Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu tượng trùng hợp hoặc gần gũi với ca dao Để ai trăng tỏ hoa sầu vì ai truyền thống mà câu thơ Kiều dễ đi vào Đọc Truyện Kiều chúng ta như bắt gặp lòng người, nhanh chóng được người nghe cũng tâm trạng ấy. Tác phẩm của Nguyễn người đọc tiếp nhận theo kiểu nói ít hiểu Du giống bản đàn mà Thúy Kiều gẩy cho nhiều vì có cùng chung một “ngôn ngữ”, Kim Trọng buổi đầu gặp gỡ: một cách nói, cách cảm, cách nghĩ. Rằng: Hay thì thật là hay Ở trên chúng tôi đã phân tích một số Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào đặc điểm thuộc về cách nói của Nguyễn Và dù Nguyễn Du có cố tình “mua Du. Những đặc điểm này thường gây ấn vui” (Mua vui cũng được một vài trống tượng trực tiếp về sự gần gũi của Truyện canh) thì đọc Truyện Kiều cũng chẳng ai Kiều với văn học dân gian. Tuy nhiên, sự vui được. Âm điệu chính của Truyện Kiều 18
  6. cũng tương tự như ca dao trữ tình, tràn đầy Hay: nỗi nhớ, buồn, thương: Buồn trông chênh chếch sao mai Tìm đâu cho thấy cố nhân Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương Nhưng cái điệu tình cảm NHỚ, Chạnh lòng nhớ cảnh tha hương THƯƠNG, BUỒN chỉ là một phần trong Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê những thứ tạo nên chất dân gian trong cách Không chỉ Thúc Sinh nhớ. Thúy Kiều cảm của Nguyễn Du. Quan trọng là bên càng nhớ nhiều hơn. Nhớ Kim Trọng, nhớ cạnh cái giọng tình cảm ấy, trong cái ruột Thúc Sinh, nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ của nó, chúng ta thấy tấm lòng của Nguyễn em. Trăm năm nỗi nhớ vây lấy người con Du thương xót con người, đồng cảm với gái bán mình, lưu lạc, xa quê. Và cùng với thân phận người phụ nữ, thậm chí Nguyễn nhớ là thương. Du còn như đau hơn, phẫn uất hơn ca dao Thương cha thương mẹ: chỉ nói: Xót thay huyên cỗi xuân gìà Thân em như tấm lụa đào Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai Thương nhớ người yêu: Nhưng trong Truyện Kiều, số phận Sông Tương một dải nông sờ người phụ nữ như cay nghiệt hơn: Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia Đau đớn thay phận đàn bà Thương mình: Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Cái câu “Lời rằng bạc mệnh cũng là Giật mình mình lại thương mình xót xa lời chung” này có ý nghĩa khái quát rất lớn. Thương, nhớ và buồn: Nó nói lên rằng “bạc mệnh” không chỉ có Buồn trông phong cảnh quê người Thúy Kiều, không chỉ có những người tài Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa sắc mà là với “phận đàn bà” nói chung. Và Nỗi buồn theo chân Kiều suốt chặng đã là “lời chung” thì cũng không phải chỉ đường mười lăm năm lưu lạc: “phận đàn bà” mà còn là của kiếp người. Sen tàn cúc lại nở hoa Nguyễn Du nhiều lần than về kiếp người Sầu dài ngay ngắn đông đà sang xuân đau khổ: Buồn ám ảnh Kim Trọng, Thúc Sinh, Khéo là mặt dạn mày dày cha mẹ Thúy Kiều và bám chặt đời Kiều: Kiếp người đã đến thế này thì thôi Sầu này dằng dặc muôi đời chưa quên Thương thay cũng một kiếp người Nỗi buồn xuyên suốt Truyện Kiều như Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi! khúc “đoạn trường Tân Thanh, như tiếng Xét về một phương diện nào đó, có kêu não ruột. Âm điệu chung của Truyện thể nói Truyện Kiều không phải là bức Kiều cũng như âm điệu chung của ca dao tranh về hiện thực xã hội phong kiến thối trữ tình truyển thống. Cái điệu tình cảm nát, cũng không phải câu chuyện oan trái trong câu thơ Kiều”. về tài và mệnh mà chính là câu chuyện về Buồn trông cửa bể chiều hôm kiếp người, những thăng trầm trong kiếp Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa… làm người. Thúy Kiều chỉ là hình ảnh Nghe như phảng phất âm điệu câu ca dao: tượng trưng cho nỗi khổ chung của kiếp Chiều chiều én liệng nhạn bay người. Nỗi khổ ấy hiện diện đầy đủ nhất ở Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai thân phận người phụ nữ và càng rõ nét hơn 19
  7. ở người phụ nữ có tình, có sắc, có tài, của tình yêu thương, lòng vị tha. Sự phán nhưng trên hết nó là nỗi khổ chung của xét dựa trên lòng yêu thương, sự khoan kiếp người và cái lớn của Nguyễn Du, cái dung ấy của Nguyễn Du cũng như của các làm nên tính phổ biến của Truyện Kiều nhân vật của Truyện Kiều cũng là một nét chính là nêu lên được nỗi đau chung ấy. chung của văn hóa Việt. “Lòng nhân ái, “Cái ám ảnh ông không phải là những cuộc khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa đời cụ thể mà là cái số kiếp chung” (Trần là truyền thống quí báu của nhân dân ta. Đình Hượu)(4). Người bình dân yêu mến Tính nhân bản này được này sinh từ tính ôn Truyện Kiều không chỉ vì cảm thương số nhu của người làm nông nghiệp lúa nước, phận hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều hẳn đã được hình thành từ thời Đông Sơn” mà cái chính là qua nỗi đau của người con (Hà Văn Tấn)(6). gái tài sắc, qua thân phận của người phụ nữ Tấm lòng thương người, sự thông cảm họ thấy được cái tình với nỗi đau chung với nỗi đau khổ của người phụ nữ và của của kiếp người, cái kiếp người mà họ vẫn kiếp người là mẫu số chung của Truyện thường than vãn trong ca dao: Kiều và ca dao, của Nguyễn Du và quần Bắc thang lên hỏi ông Trời chúng nhân dân. Cái tình ấy, lòng nhân ái Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay(5) ấy là cái lõi của chất dân gian trong tác Cái tình ấy lớn đến mức nhiều lúc nó phẩm Nguyễn Du. vượt lên trên cái lí thông thường, biến Cái lõi ấy lại được nhân lên, được tô thành lòng vị tha, khoan dung, có sức đậm bởi sự gần gũi trong cách nghĩ, cách thuyết phục hơn cả mọi lý lẽ. Trong hành xử của các nhân vật, của người kể Truyện Kiều, khi Sư Tam Hợp nói rằng chuyện trong Truyện Kiều với cách nghĩ và Thúy Kiều “Mắc điều tình ái khỏi điều tà lối hành xử của người dân quê. Dân gian dâm” thì đó chính là sự phán xét không tìm thấy trong Truyện Kiều không chỉ sự phải dựa trên cái lý của đạo đức phong đồng điệu trong cách nói, cách diễn tả, trong kiến mà dựa trên cái lí của chữ tình. Điểu cách nhớ, cách thương mà cả trong cách coi này lại càng rõ hơn nữa khi chúng ta nghe cái gì là trọng là khinh, cái gì là hợp với đạo Kim Trọng lý giải về chữ Trinh. Đáp lại lời lí, cái gì đáng ca ngợi cái gì không. Chẳng từ chối của Thúy Kiều khi tái hợp, muốn hạn hành động Thúy Kiều bán mình chuộc “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” với lí do cha và câu thơ của Nguyễn Du: Thiếp từ ngộ biến đến giờ Để lời thệ hải minh sơn Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa Làm con trước hãy đền ơn sinh thành Kim Trọng khăng khăng một mực Chắc chắn rất gần gũi với suy nghĩ của không bằng lòng với lí lẽ rằng: quần chúng lao động thể hiện trong câu ca dao: Xưa nay trong đạo đàn bà Công cha như núi Thái Sơn Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Và vì “nàng lấy hiếu làm trinh” nên Tấm lòng hiếu nghĩa của Thúy Kiều “Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”. Nói đã được một đại diện của dân gian là Vãi rằng “lấy hiếu làm trinh” và “chữ trinh kia Giác Duyên đánh giá rất cao: cũng có ba bảy đường" thì cũng có cái lí Người sao hiếu nghĩa đủ đường của nó, nhưng đó có lẽ không phải là cái lí theo cách nghĩ thông thường; nó là cái lí 20
  8. Cái hiếu của Thúy Kiều cũng chính là gọi Từ Hải là anh hùng. Hình ảnh Từ Hải cái hiếu được đề cao trong các truyện cổ phần nào phản ánh chất phi chính thống tích, trong ca dao: của nhà Nho tài tử Nguyễn Du, nhưng chắc Con ơi cho trọn hiếu trung cũng có một phần in dấu quan niệm anh Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy hùng nghĩa hiệp mà Nguyễn Du chịu ảnh Chữ trung thì để phần cha hưởng qua sáng tác dân gian. Đọc câu thơ Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình trong Truyện Kiều: Trung hiếu ở đây không còn là đạo đức Một đời được mấy anh hùng phong kiến mà chính là đạo đức làm người Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi! theo quan điểm của nhân dân lao động, là Hay: đạo lí bình dân. Bởi vậy người bình dân khi Anh hùng đã tiếng gọi rằng đọc Truyện Kiều thấy trong thái độ và cách Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha nghĩ của Nguyễn Du trong cách hành xử Chúng ta thấy như phảng phất hơi ca dao: của Thúy Kiều một cái gì đó gần với mình, Của đời muôn sự của chung dễ chia sẻ được. Ngay cái cảnh Thúy Kiều Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi báo ân báo oán gây nhiều tranh cãi, theo Đặc biệt trong Truyện Kiều chúng ta chúng tôi cũng không xa lạ với tâm lí của bắt gặp rất nhiều chữ Trời, Phật, Đạo, Tiên người dân quê. Khi Từ Hải nói: gắn với hình ảnh hai nhân vật Vãi Giác … Ân oán hai bên Duyên và sư cô Tam Hợp. Có thể nói với sự Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh hiện diện của Giác Duyên và sư Tam Hợp, Và Kiều khẳng định “báo ân rồi sẽ trả thế giới tín ngưỡng của Truyện Kiều gần thù” thì hành động của Kiều cũng giống với sinh hoạt tín ngưỡng dân gian hơn là tôn như hành động của cô Tấm trừng phạt Cám giáo chính thống. Ở đây cũng có báo mộng, và mẹ ghẻ trong truyện cổ tích. Ở đây cách bói toán, lập đàn cúng bái, ở đây Trời, Phật, hành xử của Thúy Kiều và Tấm hoàn toàn Đạo, Tiên cũng tồn tại, gần gũi với con phù hợp với đạo lí dân gian, đúng như ý người. Nhân vật của Nguyễn Du cũng hành kiến của Đinh Gia Khánh khi viết về cái động như con người trong ca dao, cũng có chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện chung một kiểu tín ngưỡng như nhau: Tấm Cám: “Biết yêu và biết ghét, đó là hai Phải điều cầu Phật cầu Tiên mặt khăng khít trong tình cảm của nhân Tình kia hiếu nọ ai đền cho ai dân”(7). Cái lí lẽ mà Kiều dựa vào đó để (Truyện Kiều) báo oán: Lên chùa cầu Phật cầu Trời Nàng rằng: Lồng lộng trời cao Xét cho mọi việc ở đời bất công Hại nhân nhân hại sự nào tại ta! (Ca dao) Cũng chính là lí lẽ của dân gian được Đặc biệt cái lối nghĩ về Trời trong đúc kết trong tục ngữ: “Ác giả ác báo”, Truyện Kiều rất giống lối nghĩ về Trời “Trời quả báo, ăn cháo gãy răng”, “Ai bảo thường gặp trong truyện cổ tích và ca dao. trời không có mắt”. Tương tự như quan niệm dân gian, trong Trong Truyện Kiều, nếu xem xét kỹ, Truyện Kiều, Trời hiện ra như đấng tối cao chúng ta sẽ nhận thấy có khá nhiều dấu vết vô hình, quyết định tất cả: của quan niệm, cách nghĩ dân gian. Chẳng …Ngẫm hay muôn sự tại Trời hạn trong Truyện Kiều có 8 lần Nguyễn Du …Trời còn để có hôm nay 21
  9. …Người dầu muốn quyết Trời nào đã cho ta thấy cách nghĩ, quan niệm của người …Biết thân chạy chẳng khỏi Trời tường thuật và của các nhân vật về đạo lí, (Truyện Kiều) cách sống, tín ngưỡng, rất gần với người Giống như trong ca dao: bình dân thể hiện qua truyện cổ tích, ca Nhờ Trời hòa cốc phong đăng dao. Điều này cũng không có gì lạ. Chính Cấy lúa, lúa tốt, nuôi tằm, tằm tươi Nguyễn Du trong bài thơ chữ Hán “Thanh Nhờ Trời mưa thuận gió hòa minh ngẫu hứng” đã từng viết: Lờ rọ bán được, cảnh nhà thêm vui Thôn ca sơ học tang ma ngữ Lạy Trời cho cả gió lên Dã khốc thời văn chiến phạt thanh Cho manh chiếu rách lên trên toàn vùng (Câu ca nơi thôn dã giúp ta biết được (Ca dao) tiếng nói của người trồng gai trồng dâu. Ai làm gì sai sẽ cảm thấy có tội với Trời: Trong tiếng khóc nơi đồng nội như nghe Trăm điều ngang ngửa vì tôi thấy tiếng chiến tranh). Thân sau ai chịu tội Trời ấy cho Bên cạnh tài năng, những năm tháng (Truyện Kiều) sống gần gũi với thôn quê đã giúp Nguyễn Hay gì lừa đảo kiếm lời Du học được cách nói của những bài “thôn Một nhà ăn uống tội Trời riêng mang ca”, hiểu và chia sẻ với cách cảm, cách (Ca dao) nghĩ của những người bình dân mà ông Trời là chỗ để người ta than vãn, kêu tiếp xúc cũng như với những gì đã được oan, oán trách khi không còn biết dựa vào thể hiện qua các sáng tác dân gian. Điều đó đâu để trút nỗi khổ, nỗi bất công mà mình đã làm cho Truyện Kiều trở thành một hiện phải chịu: tượng đặc biệt, tổng hợp chất bác học và Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên chất dân gian thành một truyện thơ cổ điển Oan này còn một kêu trời nhưng xa của văn học dân tộc. Giá trị và sức sống (Truyện Kiều) Tôi làm tôi chẳng có chơi bền bỉ của Truyện Kiều, tính phổ biến và Nghèo đâu nghèo mãi Trời ơi hỡi Trời! bản sắc dân tộc của tác phẩm nằm trong sự Trời ơi Trời ở chẳng câu tổng hợp ấy. Kẻ ăn không hết người lần không ra Chú thích (Ca dao) 1) Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diện, Lịch sử Tuy nhiên tín ngưỡng “Đạo Trời” văn học Việt Nam: Văn học Dân gian, Tập I, trong Truyện Kiều (“Sư rằng: phúc họa đạo Nxb ĐH & THCN, Hà Nội, 1972, tr.291. Trời”, “Đạo Trời báo phục chỉn ghê”) cũng 2) Về biểu tượng thiên nhiên trong ca dao, xin giống như trong ca dao, không hoàn toàn xem thêm luận án Tiến sĩ Ngữ văn của mù quáng và yếm thế. Cái câu: “Có trời mà Nguyễn Thị Ngọc Điệp “Biểu tượng nghệ cũng tại ta”trong Kiều cũng không xa vời thuật trong ca dao truyền thống người Việt", cách nghĩ của người nông dân: và cuốn sách "Thiên nhiên với văn hóa vùng Được thua dù có tại trời qua ca dao trữ tình Trung Bộ" của Nguyễn Thị Kim Ngân, NXB Thời Đại, 2012, và NXB Chớ thấy sóng cả mà rời tay co KHXH, 2015. (Ca dao) Có thể nói trong Truyện Kiều có rất 3) Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân nhiều chi tiết, nhiều câu thơ mà ở đó chúng gian Việt Nam, Nxb.KHXH, HN, 1974, tr.179. 22
  10. 4) Trần Đình Hượu, tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo 3. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn dục, HN, 2007, tr.319. học dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 5) “Chủ thể trữ tình của ca dao, dù là chàng trai 4. Trần Đình Hượu (2007), Tuyển tập, tập 2, hay cô gái, người vợ hay người mẹ, người làm Nxb Giáo dục, HN. ruộng hay làm nghề sông nước …khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ 5. Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên (1972), và tiếng hát cất lên thành bài ca thở than về Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học Dân mọi nông nỗi khổ đau và bất hạnh của kiếp gian, Tập I, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội. người , “nghe rặt một điều hắt hiu, thương 6. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu nhớ…”(Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Tấm Cám, Nxb Văn học, HN. Giáo dục, HN, 1999, tr.197). 7. Nguyễn Xuân Kính (2001), Kho tàng ca dao 6) Hà Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt người Việt (2 tập), Nxb Văn hóa thông tin. Nam, Nxb Hội Nhà văn, HN, 2005, tr.159. 8. Nguyễn Thị Kim Ngân (2012), Thiên nhiên với 7) Đinh Gia Khánh, Sơ bộ tìm hiểu những vấn văn hóa vùng qua ca dao trữ tình Trung Bộ, đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám, Nxb Thời Đại (2012); và Nxb KHXH (2015). Nxb.Văn học, HN, 1968, tr.96. 9. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách TÀI LIỆU THAM KHẢO tiếp cận mới, Nxb Văn hóa thông tin, HN. 1. Nguyễn Du (2002), Truyện Kiều, Nxb Văn học. 10. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, HN. 2. Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, 11. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, HN. Ngày nhận bài: 07/01/2016 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016 23
nguon tai.lieu . vn