Xem mẫu
- Câu 1: Phân tích điều kiện kinh tế xã hội, tiền đề lý luận, tiên đề
khoa học tự nhiên của sự ra đời chủ nghĩa Mác?.
Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
* Điều kiện kinh tế-xã hội
- Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đây là thời kỳ phương thức sản xuất
tư bản ở Châu âu phát triển mạnh mẽ mở đường cho LLSX phát triển đánh dấu
một bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công sang sản xuất đại công nghiệp,
lượng của cải sản xuất ra bằng tất cả những năm trước đó cộng lại. Cùng với sự
ra đời của gia cấp tư sản, giai cấp vô sản cũng được hình thành và phát triển
mạnh mẽ.
- Khi ra đời giai cấp tư sản củng cố địa vị của mình và thiết lập một quan
hệ bóc lột mới, từ sự bóc lột đó đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.
Sau khủng hoảng kinh tế 1825 chủ nghĩa tư bản tăng cường bóc lột đã dẫn
đến mâu thuẫn giữa những người lao động và các nhà tư bản, xuất phát từ mâu
thuẫn đó các cuộc khởi nghĩa của phong trào công nhân nổ ra ở khắp các nước
châu âu.
Khởi nghĩa của công nhân Pháp 1831 – 1834.
Hiến chương của công nhân Anh 1835 -1848.
Khởi nghĩa của công nhân Đức 1844…v.v…
Phong trào công nhân cần một hệ tư tưởng soi đường. Xuất phát từ thực
tiễn chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó Cũng từ thực tiễn đã trở
thành tiền đề lý luận của chủ nghĩa Mác.
* Tiền đề lý luận:
- Triết học cổ điển Đức: Mác – Ăngghen phê phán tư tưởng siêu hình của
Phoiơ Bắc, chủ nghĩa duy tâm của Hê Ghen đồng thời kế thừa chủ nghĩa duy vật
của Phoiơ Bắc, Phép biện chứng của Hê Ghen hình thành lên phép biện chứng
duy vật của mình.
- Kinh tế chính trị học cổ điển Anh : Mác kế thừa tư tưởng của các nhà
kinh tế chính trị cổ điển Anh như: A. Xmít, Đricacđô kế thừa những yếu tố khoa
học trong lý luận về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ. Mác đã giải
quyết những bế tắc mà các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt
qua để xây dựng lên học thuyết giá trị thặng dư của mình.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: các nhà tư tưởng Pháp như: Ôoen,
H. Xanh Ximông, S.Phuriê. Các nhà không tưởng đã nêu cao tinh thần nhân đạo và
chỉ ra cảnh khốn cùng của người lao động trong nền sản xuất TBCN. đồng thời
phê phán mạnh mẽ, vạch trần bản chất bóc lột của CNTB. Tuy nhiên các ông
không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản,
cũng như không thấy được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trên cơ sở
1
- phê phán và kế thừa Mác đã xây dựng lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội của
mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên.
Mác đã kế thừa những thành quả của khoa học tự nhiên như : Định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; Thuyết tế bào, Thuyết tiến hoá.
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh về sự
không tách rời nhau, chuyển hoá lẫn nhau được bảo toàn các hình thức vận động
của vật chất.
Thuyết tế bào đã chứng minh mọi cơ thể sống đều có nguồn gốc từ tế
bào, đồng thời giải thích rõ nguồn gốc cấu tạo của tế bào.
Thuyết tiến hoá đã chứng minh sự phát sinh, phát triển của các loài động,
thực vật, phát triển từ vật chất đến vật chất sống từ động, thực vật bậc thấp đến
động, thực vật bậc cao.
Căn cứ vào các học thuyết trên Mác đã chứng minh được tính đúng đắn
quan điểm duy vật biện chứng về thế giới vật chất của mình.
Câu 2: Định nghĩa vật chất của lênin, và ý nghĩa của định nghĩa này?
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất, nội dung cơ bản ý nghĩa của nó:
+ Kế thừa tư tưởng của Mác và Ăng nghen.
+ Tổng kết thành quả của khoa học tự nhiên.
+ Xuất phát từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm bảo
vệ chủ nghĩa duy vật. Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất.
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, mang lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
- Những nội dung cơ bản và ý nghĩa của nó.
Thứ nhất: Vật chất là một phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát
hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật hiện
tượng nó phản ánh cái chung, cái vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
Thứ hai: Đặc trưng quan trong nhất của vật chất là thuộc tính khách quan
là cái tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, ý thức chỉ là bản sao, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Thứ ba: Mang lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ánh: Lênin khảng định vật chất là cái gây nên cảm giác
ở con người, được giác quan chúng ta nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp.
2
- Con người nhận thức về vật chất từ thấp đến cao, từ nhận thức cảm tính,
đến nhận thức lý tính.
- Ý nghĩa của định nghĩa
Một là: bằng việc tìm ra thuộc tính khách quan Lê nin đã phân biệt vật chất
với vật thể, khái quát được thuộc tính bản chất phổ biến nhất của vật chất là tồn
tại khách quan độc lập với ý thức con người.
Cung cấp căn cứ cho khoa học xác định những gì thuộc về vật chất. Tạo lý
luận cho việc xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Hai là: Định nghĩa đã giải quyết đúng đắn về vấn đề cơ bản của triết học
về bản chất thế giới trên lập trường duy vật khẳng định: vật chất có trước, ý
thức có sau. Khẳng định khả năng của con người có thể nhận thức được thế giới
khách quan.
Định nghĩa đã khắc phục được tính chất siêu hình của CNDV trước Mác về
vật chất, đồng thời chống CNDT và tôn giáo.
Định nghĩa đã mở đường cho khoa học phát triển tạo niềm tin cho con người
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Lênin đã cống hiến cho khoa học một phương pháp định nghĩa mới.
Câu 3: Ý thức là gì? Trình bày quan điểm triết học Mác –Lênin về
nguồn gốc, bản chất của ý thức?
Nguồn gốc của ý thức
Khái niệm: Ý thức là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người
về thế giới và mối quan hệ của con người trong thế giới.Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thể giới khách quan.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
+Ý thức có nguôn gốc từ bộ não người: Ý thức là một dạng thuộc tính
của vật chất có tổ chức cao nhất là bộ não con người, là chức năng của bộ não, là
kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não (bộ não phải là bộ óc sống, bộ
não đang hoạt động bình thường) . Bộ não con người có khoảng 14-15 tỷ nơ ron
thần kinh, các nơ ron thần kinh có sự kích thích, cảm ứng. Bộ não của con người
phải có quá trình hoạt động, tác động vào thế giới khách quan thì mới hình thành
lên sự phản ánh của ý thức.
+ Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não của con người thông
qua hoạt động của các giác quan, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Qúa trình phản ánh diễn ra như sau:
3
- Bộ não của con người là cái phản ánh, thế giới khách quan là cái được phản
ánh. Cái phản ánh tác động lên cái được phản ánh, Cái phản ánh ghi lại thông tin
của cái được phản ánh. Cái phản ánh xử lý thông tin của cái được phản ánh.
Các hình thức của phản ánh.
Phản ánh vật lý, hoá học: là hình thức phản ánh thấp đặc trưng cho vật
chất vô sinh.
Phản ánh sinh học: là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới hữu
sinh.
Phản ánh tâm lý: là phản ánh của động vật có hệ tần kinh trung ương.
Phản ánh năng động sáng tạo: là hình thức cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện dưới dạng vật chất phát triển cao là bộ óc
người.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ .
- Lao động: Khi vượn người sử dụng những vật có sẵn trong tự nhiên cho
mục đích kiếm ăn có kết quả thì nó nhiều lần lặp lại hành động ấy và trở thành
phản xạ có điều kiện dẫn đến hình thành thói quen sử dụng công cụ. Tuy nhiên
công cụ ấy không phải lúc nào cũng có sẵn. Do đó đòi hỏi loài vượn phải có ý
thức chế tạo công cụ lao động mới. Việc chế tạo công cụ lao động mới đã làm
cho hoạt động kiếm ăn của vượn người là hoạt động lao động. Đó là cái mốc
đánh dấu sự khác biệt giữa con người với con vật.
- Nhờ kết quả lao động cơ thể của con người, đặc biệt là bộ óc và các giác
quan ngày càng hoàn thiện dần cả về cấu tạo và chức năng.
- Nhờ có lao động mà con người đã dần chuyển hóa từ vượn thành người.
- Nhờ có lao động con người đã thoát khỏi cuộc sống bầy đàn và tri thức
của con người ngày càng phát triển.
- Nhờ có lao động mà ngôn ngữ được hình thành.
- Trong hoạt động lao động, con người cần phải quan hệ với nhau, phối
hợp hành động với nhau tạo ra nhu cầu phải nói với nhau. Như cầu đó dẫn đến
xuất hiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trở thành phương tiện để diễn đạt tư tưởng và trao đổi giữa
người với người. Nhờ có nguôn ngữ sự phản ánh của con người trở thành sự
phản ánh tri giác. Như vậy là trong lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó
là hai sức kích thích chủ yếu để hình thành nên ý thức của con người.
Tóm lại, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội là hai điều kiện cần và
đủ cho sự ra đời của ý thức. Nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy không thể có ý
thức.
Bản chất của ý thức
Thứ nhất: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức
không phải là bản sao đơn giản, thụ động, máy móc của sự vật mà ý thức là sự
4
- phản ánh có tính năng động, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não người qua hoạt
động thực tiễn.
Với tư cách là hình ảnh chủ quan ý thức được hiểu là ý thức của con
người, thuộc về con người. Con người phản ánh thế gới vật chất, nhận thức về
thế giới vật chất, đúng hay sai là theo ý chủ quan của con người.
Ý thức của thế giới khách quan nghĩa là: nguồn gốc của ý thức và đối
tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan, bị thế gới khách quan
quy định.
Bộ não của con người thuộc về thế giới khách quan.
Đối tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan
Vật chất là cái được phản ánh - tồn tại KQ bên ngoài và độc lập với cái
phản ánh.
+ Ý thức là cái phản ánh, ý thức mang tính chủ quan, Thế giới vật chất là
cái được phản ánh, cái được phản ánh là TGKQ, cái chủ quan bị cái KQ quy định
nên nó không có tính V/c, không được lẫn lộn đồng nhất V/c & Ý thức.
Thứ hai: Ý thức mang bản chất sáng tạo Khi ý thức là hình ảnh chủ quan
của TGKQ thì có thể nói ý thức là của con người mà con người là một thực thể
XH năng động, sáng tạo cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo
hiện thực theo nhu cầu thực tiễn của XH được thống nhất trên 3 mặt:
+ Trao đổi thông tin hai chiều theo cách chọn lọc.
+ Mô hình hóa các đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực KQ.
Bản chất của ý thức có 2 mặt (phản ánh và sáng tạo). Ý thức ra đời và tồn
tại gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của quy luật XH nên ý thức
mang tính XH.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của TGKQ nên trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Do đó, cần phải chống
lại bệnh chủ quan duy ý chí.
- Ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo, hiện thực nên cần phải chống lại
tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều, xa rời thực tiễn.
Câu 4. Trình bày nội dung quy luật mâu thuẫn, ý nghĩa của phương
pháp luận.
Vị trí của quy luật: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
quy luật cơ bản và quan trọng nhất – hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy
luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Nội dung của quy luật:
5
- Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau,
tức những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển của sự vật.
Khái niệm mặt đối lập, thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của
các mặt đối lập:
Mặt đối lập là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính có đặc điểm hoặc
có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau trong một chỉnh thể.
Thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc nhau,
quy định nhau mặt này lấy mặt kia làm tiền cho sự tồn tại của nhau.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo khuynh hướng
phủ định lẫn nhau, bài trừ lẫn nhau.
Khái niệm Mâu thuẫn, mâu thuẫn biện chứng
Mâu thẫm là sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Mâu thuẫn biện chứng là sự quy định nhau, ràng buộc nhau, bài trừ nhau,
phủ định nhau của các mặt đối lập.
Cứ có hai mặt đối lập là tạo thành một mâu thuẫn biện chứng
+ Trong một mâu thuẫn có sự thống nhất của các mặt không tách rời sự
đấu tranh của chúng, bất cứ một sự thống nhất nào của các mặt đối lập mang
tính chất tạm thời tương đối còn sự đấu tranh là tuyệt đối. Đấu tranh giữa các
mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát triển.
+ Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản
thân sự vật – tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của
sự vật.
- Các tính chất của mâu thuẫn
Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất.
Vật chất tồn tại khách quan nên mâu thuẫn cũng tồn tại khách quan.
Tính phổ biến biểu hiện: Trong bất kể sự vật hiện tượng nào, ở bất cứ địa
điểm nào, ở bất cứ thời gian cũng tồn tại các mặt đối lập
Tính đa dạng phong phú: Thế giới vật chất có vô vàn các dạng khác nhau
chúng có một không gian khác nhau, thời gian khác nhau, mối liên hệ khác nhau
cho nên chúng có những mâu thuẫn khác nhau, không có một dạng mâu thuẫn nào
chúng khít lên dạng mâu thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong tự nhiên, có mâu thuẫn
trong xã hội, có mâu thuẫn trong tư duy…
6
- + Các hình thức của mâu thuẫn
Căn cứ vào quan hệ đối với các sự vật được xem xét người ta phân loại mâu
thuẫn như sau: Có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản,
mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn đối
kháng mâu thuẫn không đối kháng…
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn do sự tác động giữa các mặt, các khuynh
hướng trong cùng một sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó
với sự vật khác.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chát của sự vật quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất
định của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời tồn tại trong một giai đoạn phát triển
nào đó của sự vật, nhưng không phải đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ
yếu chi phối.
. quá trình vận động của mâu thuẫn
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động
khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện
chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự
thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu
tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển.
+ Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát
triển và giải quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì
đấu tranh của các mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động và
làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều
kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể
thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật
mới ra đời thay thế.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự
vật và là khách quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn
7
- của sự vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn
và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn – phù hợp với từng loại
mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn.
Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi
điều kiện đã chín muồi.
Câu 6: Trình bầy nội dung quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất.
Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở
các thời kì nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ
thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng
nhất là công cụ lao động.
lượng sản xuất của một xã hội. Bất cứ xã hội nào không thể chỉ có người
lao động. Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải gồm có người lao động và
tư liệu sản xuất. Do đó hai yếu tố này tạo thành cái gọi là lực lượng sản xuất .
Trong mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất thì người lao
động đóng vai trò quyết định.
Tư liệu sản xuất bao gồm: - công cụ lao đông:
- Đối tượng lao động.
- Phương tiện lao đông.
Trong mối quan hệ giữa 3 yếu tố TLSX, ĐTLĐ, CCLĐ thì công cụ lao
động đóng vai trò quyết định, công cụ lao động là lực lượng động nhất của lực
lượng sản xuất.
- Công cụ lao động quyết định khả năng chinh phục tự nhiên của con
người, công cụ lao động của con người càng phát triển con người càng thoát khỏi
giới tự nhiên, càng không phải lệ thuộc vào giới tự nhiên.
- Công cụ lao động thể hiện trình độ phát triển của một dân tộc nhất định,
vì vậy Mac viết "Khi xem xét trình độ phát triển của một dân tộc không cần biết
8
- xã hội đó sản xuất ra cái gì mà phải xem xã hội đó sản xuất bằng cách nào? với
công cụ sản xuất nào?
- Công cụ lao động quyết định năng suất lao động mà năng suất lao động
lại quyết định sự sống còn của một chế độ xã hội nhất định. Sự thay thế từ hình
thái kinh tế xã hội sang hình thái kinh tế xã hội khác, xét cho đến cùng là sự thay
thế của công cụ lao động, vì vậy Các Mác viết " Cái cối xay chạy bằng tay thì
cho ra đời lãnh chúa phong kiến, cái cối xay chạy bằng hơi nước thì cho ra đời xã
hội tư bản".
Khi xem xét trình độ sản xuất của một xã hội nhất định thì không cần biết
xã hội ấy sản xuất ra cái gì mà phải xen xã hội ấy sản xuất bằng cách nào? Với
công cụ lao nào?
* Quan hệ sản xuất là nhưng mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất;
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất;
- Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong 3 mặt trên thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất,
nó đóng vai trò quyết định và chi phối quan hệ tổ chức quản lí, phân công lao
động và quan hệ phân phối. Bởi vì nắm đựợc TLSX nghĩa là nắm được CCLĐ,
ĐTLĐ, PTLĐ. Người nắm được yếu tố này thì có quyền phân công lao động,
quản lý lao động và phân phối sản phẩm lao động làm ra.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, có 2 hình thức sở hữu
+ Sở hữu tư nhân;
+ Sơ hữu tập thể.
Sở hữu tư nhân là tư liệu sản xuất tập trung trong tay một người hoặc một
số ít người, nó là phạm trù lịch sử, nó được hình thành từ khi chế độ chiếm hữu
nô lệ ra đời. Sở hữu tư nhân là nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp, giữa giai cấp
thống trị và những người bị trị.
Sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất ra đời từ khi có xã hội nguyên thủy,
hình thức cao nhất của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
9
- b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
Quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản
xuất lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt ,hai phương thức cơ bản
của quá trình sản xuất ra của cải vật chất ;chúng không tồn tại độc lập tách rời
nhau mà có mối liện hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thanh
quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất.
* Lực lượng sản xuất, quyết định quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực
không có một lực lượng sản xuất nào lại có thể diễn ra bên ngoài những hình
thức kinh tế nhất định. Ngược lại cung không có một quan hệ sản xuất nào mà
không có nội dung vật chất của nó.
Trong mọi quá trình của lực lượng sản xuất, cũng tất yếu đòi hỏi phải có
quan hệ sản xuất phù hợp, quan hệ sản xuất lỗi thời hoặc đi trước lựuc lượng
sản xuất đề kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập
và phát sinh mâu thuẫn.
Quy luật cơ bản nhất của quá trình vận động và phát triển xã hội. Khuynh
hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển; Trong mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất là cái
tương đối ổn định, còn LLSX là cái thường xuayên biến đổi. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuấtờt chỗ phù hợpổtở thành không phù
hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX
phát triển yêu cầu khách quan sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn
đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, lúc này để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng qua hệ sản xuất mới có nghĩa là sẽ
có một phương thức sản xuất khác ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ.
* Sự tác động trở lại của QHSX
10
- Lực lượng sản xuất thay đổi và quyết định đến quan hệ sản xuất nhưng
bản thân quan hệ sản xuất cũng có sự độc lập tương đối của nó và tác động trở
lại qua hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất mới quy định mục đích sản xuất ,tác động đến thái độ
của người lao động trong qua trình lao động ,đến tổ chức phân công lao động xã
hội. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc
"tiên tiến " hơn trình độ lực lượng sản xuất một cách giả tạo thì sẽ kìm hãm, hạn
chế sự phát triển của lực lượng sản xuất.
c. Ý nghĩa của phương pháp luận
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất: Vì vậy trong hoạt động
thực tiễn phải đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất. Trong mối quan hệ giữa
hai mặt của lực lượng sản xuất giữa người lao động và tư liệu sản xuất thì
người lao động đóng vai trò quyết định vì vậy muốn phát triển kinh tế thì việc
đầu tiên phải ưu tên phát triển con người, lấy con người làm trung tâm. Chỉ có
phát triển con người thì đất nước mới giầu mạnh. Muốn phát triển con người
phải ưu tên phát triển giáo dục và y tế.
Cùng với việc phát triển con người là việc phát triển tư liệu sản xuất mà
đặc biệt ưu tiên phát triển công cụ lao động, muốn phát triển được công cụ lao
động thì phải đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ. Phải tìm tòi cải tiến
công nghệ mới chỉ có nâng cao phát triển cải tiến công nghệ thì hàng hóa của
chúng ta mới đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Trong quá trình nhập khẩu công nghệ phải nhập khẩu các công nghệ hiện
đại.
Nâng cấp các viện khoa học, phải có chính sách ưu tiên trong lĩnh vực phát triển
khoa học công nghệ, phải cóa những giải thưởng xứng đáng cho các nhà khoa
học, phải khẩn trương đưa các phát minh khoa học ứng dụng vào thực tiễn. Phải
có chính sách cụ thể để phát triển nền kinh tế tri thứ- Phải đạt được trình độ
công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ sinh học.
Phải tìm ra những nguồn nguyên liệu mới thay thế những nguồn nguyên
liệu đang bị cạn kiệt.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất tác động
trở lại đối với lực lượng sản xuất bằng sự phù hợp.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp.
Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc "tiên tiến " hơn trình độ lực lượng
sản xuất một cách giả tạo thì sẽ kìm hãm, hạn chế sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Vì vậy chung ta chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong các thành phần
kinh tế ấy có tư bản tư nhân và tư bản nhà nước.
11
- Trong giai đoạn hiện nay chúng ta chỉ có thúc đẩy các thành phần kinh tế
phát triển chứ không được đốt cháy giai đoạn.
Phải chú ý thật kỹ từng khâu đoạn trong tổ chức, quản lý, phân công lao
động cần phải thực hiện có quy trình, đúng luật hành chính, bởi vì nó tác động
trực tiếp đến thái độ của người lao động.
Phải trả lương cho người lao động phù hợp với điều kiện sống và sinh
hoạt, chỉ có như vậy người lao động mới cống hiến hết khả năng cho công việc.
Câu 7 : Trình bầy mối quan hệ biện chứng cơ sơ hạ tầng kiến trúc
thượng tầng.
Khái niệm CSHT, KTTT.
K/n: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm:
Quan hệ sản xuất thống trị (quan hệ sản xuất đương thời);
Quan hệ sản xuất tàn dư (quan hệ sản xuất của xã hội cũ);
Quan hệ sản xuất mầm mống (quan hệ sản xuất của xã hội tương lai).
- Mối quan hệ giữa các mặt của CSHT.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh
tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò
nhất định tác động trở lại của đối với quan hệ sản xuất thống trị bằng cách thúc
đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
Kiến trúc thượng tầng
- K/N: Kiến trúc thượng tầng là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ
hệ tư tưởng và các thiết chế tương ứng của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Cấu trúc của kiến trúc Thượng tầng.
Hệ tư tưởng: bao gồm triết học, tôn giáo, văn học – nghệ thuật, văn hóa-
đạo đức…
12
- Các thiết chế tương ứng: bao gồm nhà nước, pháp luật, các tổ chức đoàn
thể, đảng phái, các cơ quan bảo vệ pháp luật nhà nước.
Mối quan hệ giữa các mặt của KTTT.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận
động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và
đều hình thành trên cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp.
Quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương
ứng với nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng
quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong
lĩnh vực chính trị tư tưởng.
Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối
kháng trong đời sống kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền,
triết học, tôn giáo, v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng,
do cơ sở hạ tầng quyết định.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay
đổi theo.
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế -
xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế - xã hội, xét cho đến cùng là sự thay dổi của LLSX.
Mỗi yếu tố của cơ sở hạ tầng biến đổi cũng dẫn đến làm thay đổi những
yéu tố của KTTT. (những quan hệ về kinh tế thay đổi tất yếu dẫn tới pháp luật,
co cấu nhà nước, triế học, tôn giáo … cũng thay đổi theo.
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng
cũng có tính độc lập tương đối tác động trở lai với CSHT thông qua vai trò lãnh
đạo của nhà nước.
Nhà nước đưa ra những quan điểm, đường lối đúng đắn thì xẽ đẩy mạnh các
cơ cấu kinh tế phát triến, ngược lại nhà nước đưa ra quan điểm sai lầm sẽ dẫn tới
làm suy thoái các cơ cấu kinh tế.
Các bộ phận của KTTT như triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật… cũng
có sự tác động mạnh mẽ đến sự phát triẻn các cơ cấu kinh tế (sự tác động đó
thong qua tư tưởng của người lao động).
13
- Ý nghĩa phương pháp luận
CSHT quyết định KTTT vì vậy muốn đưa đất nước phát triển, khi vạch ra
các đường lối chính sách trước hết phải xuất phát từ các quan hệ kinh tế.
KTTT tác động trở lại với CSHT thông qua vai trò lãnh đạo của nhà nước vì
vậy phải coi trọng vai trò của chính trị, tính năng động sáng tạo của chính trị trong
việc vận dụng vao các quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt đối hoá một mặt nào đó
cung dẫn tới sai lầm.
Câu 8: Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên :
Khái niệm, hình thái kinh tế xã hội:
K/n: Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những
quan hệ sản xuất đăc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định cua
̣ ̉
lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Tính lịch sử - tư nhiên của sự phát triển hình thái kinh tế xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ
thấp tới cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã hội.
Môt là: Sự vận động thay đổi của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử
không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo quy luật khách
quan. Đó chính là do sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất – quy luật cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Hai là: nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử
nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế xã hội suy cho đến cùng đều do nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Ba là: quá trình phát triển của hình thái kinh kinh tế xã hội là quá trình thay
thế nhau của hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại, và đó cũng là quá
trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể là do nhiều sự tác động của
nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định là: sự tác động của các
quy luật khách quan.
Ngoài các nhân tố trên còn có nhiều nhân tố khác như: điều kiện lịch sử, vị trí
địa lý, tài nguyên thiên nhiên, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người…
Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế –xã hội:
Một là: theo lý luận hình thái kinh tế xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở
của đời sống kinh tế xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ của nền
sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã
14
- hội, vì vậy khong thể xuất phát từ ý thức chủ quan của con người để giải thích
các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ thực trang đời sống xã
hội.
Hai là: theo lý luận của hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết
hợp một cách ngẫu nhiên mà là một cơ thể sống động, trong đó các phương diện
của đời sống xã hội tồn tại trong hệ thống cấu trúc chặt chẽ tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò cơ bản nhất quyết định các quan hệ
xã hội khác.
Ba là: theo lý luận của hình thái kinh tế - xã hội là quả trình phát triển của xã
hội là một quả trình lịch sử tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo quy luật khách
quan, chứ không theo ý muốn chủ quan do vậy muốn nhận thức và giải quyết
đúng đắn, các vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghin cứu các quy luật
vận động, phát triển của xã hội.
Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội
vạch rõ, nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, tìm ra những
nguyên nhân và cơ sở xuất hiện và biến đổi của những hiện tượng xã hội.
Ý nghĩa của học thuyết :
Cung cấp cho chúng ta một phương pháp luận khoa học để nghiên cứu sự
phát triển xã hội qua các chế độ khác nhau, hiểu rõ cơ cấu chung của hình thái
kinh tế – xã hội và những quy luật phổ biến tác động chi phối sự vận động và
phát triển của xã hội
Cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch
sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hóa xã hội. Học
thuyết này vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở
các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Chính vì vậy nó đem lại cho khoa
học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả, để
giải thích chứ không chỉ mô tả sự kiện lịch sử. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào,
từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể hiểu đúng khi gắn
với một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
15
nguon tai.lieu . vn