Xem mẫu

Câu hỏi ôn tập môn qlnnn về an ninh quốc phòng 26. Tại sao phải giáo dục quốc phòng cho các cấp lãnh đạo và thế hệ trẻ? Liên hệ thực tiễn? Phải giáo dục quốc phòng cho các cấp lãnh đạo và thế hệ trẻ vì: ­ đây là 2 lực lượng nòng cốt giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. ­ nêu cao tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc ­ xây dựng lập trường chính trị vũng vàng ­ giáo dục rèn luyện để sẵn sàng chiến đấu khi có giặc ngoại xâm ­ ngăn chặn các thế lực thù địch, phản động lôi kéo chống phá đảng và nhà nước. Liên hệ thực tiễn Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng, Nhà nước luôn coi trọng công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân. Để công tác này hoạt động hiệu quả, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương, nhất là hệ thống giáo dục quốc dân thực hiện công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho các đối tượng là cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và học sinh, sinh viên. Ngày 19­11­1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 511­TTg về chế độ của sĩ quan tại ngũ biệt phái thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự tại các trường đại học. Tiếp đó, ngày 28­12­1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 219/CP về Huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị và dân quân tự vệ. Chủ trương của Đảng được thể chế hóa bằng các nghị định của Chính phủ nêu trên, kịp thời đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Lực lượng sinh viên đông đảo và lực lượng dự bị, động viên, dân quân tự vệ được huấn luyện quân sự để có thể vừa trực tiếp chiến đấu tại chỗ, vừa bổ sung cho Quân đội và lực lượng thanh niên xung phong, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khi đất nước hòa bình, thống nhất, Đảng, Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chỉ thị, nghị định nhằm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, trong đó có đối tượng học sinh, sinh viên, nhất là nghị định 116/2007/NĐ­CP của Chính phủ và Chỉ thị 12 ­ CT/TW, ngày 03­5­2007 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, công tác giáo dục quốc phòng và an ninh đã thực sự đi vào hệ thống giáo dục quốc dân, phát triển vững chắc cả bề rộng và chiều sâu, chất lượng ngày càng cao. Hệ thống nhà trường đã tập trung giáo dục cho học sinh, sinh viên quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh; nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng và rèn luyện kỹ năng quân sự cần thiết tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để công tác giáo dục quốc phòng và an ninh tiếp tục được thực hiện nền nếp, hiệu quả và trở thành nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân, ngày 19­6­2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành “Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh”. Trong đó, Điều 4 của Luật xác định mục tiêu: “Giáo dục cho công dân kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Theo đó, công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong hệ thống các nhà trường được tổ chức chặt chẽ, duy trì nghiêm túc, đạt hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, bên cạnh mặt ưu điểm là cơ bản, công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay cũng còn một số hạn chế về công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên và nội dung, chương trình, v.v. 27. Nêu các hình thức quản lí nhà nước về an ninh quốc gia,trật tự an toàn xã hội.Liên hệ thực tế ở nước ta hiện nay. Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước hoặc các tô chức xã hội được nhà nước ủy quyền được tiến hành trên cơ sở pháp luật để thi hành pháp luật nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng quản lý nhà nước về an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội. ­ các hình thức quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ( Gt 90­ 91) Liên hệ thực tế ở việt nam ­ Những năm gần đây, tình hình thế giới, trong nước diễn biến hết sức phức tạp. Các nhân tố gây mất ổn định chính trị ngày càng gia tăng. Song, Đảng ta đã kịp thời có những chủ trương, đối sách quan trọng chỉ đạo lực lượng công an nhân dân đấu tranh có hiệu quả với số đối tượng xâm nhập từ bên ngoài vào nội địa; ngăn chặn hoạt động chống đối của các đối tượng cực đoan trong tôn giáo; vô hiệu hoá hoạt động của số cơ hội chính trị, không để liên kết, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Tập trung đấu tranh ngăn chặn, dập tắt vụ bạo loạn chính trị xảy ra ở một số tỉnh Tây Nguyên tháng 2­2001 và tháng 4­ 2004; phá rã âm mưu, ý đồ công khai hoá tổ chức Nhà nước "Đềga độc lập" và các vụ gây rối trật tự của các đối tượng ở Tây Nam Bộ... Tập trung giải quyết ổn định nhiều vụ tranh chấp khiếu kiện về đất đai, nhất là các vụ có yếu tố tôn giáo như ở 178 Thái Hà, 42 Nhà Chung, Hà Nội, không để kẻ địch kích động quần chúng biểu tình, gây rối ­ Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực tuyên truyền, báo chí xuất bản, đào tạo, hoạt động văn hoá nghệ thuật, phát hiện và xử lý kịp thời những cá nhân lợi dụng thông tin, báo chí, xuất bản để công khai quan điểm đối lập, đưa tin sai lệch về tình hình, kích động dư luận, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước. ­ Song song với lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh quốc gia, Đảng ta rất chú trọng lãnh đạo công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn đất nước đổi mới. Nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng chỉ đạo công tác này được ban hành và tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc như Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; Chỉ thị số 54­CT/TW ngày 30­11­2005 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS; Chỉ thị số 21­CT/TW ngày 26­3­2008 của Bộ Chính trị khoá X về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới... Với những chỉ đạo sát sao đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có nhiều chuyển biến tích cực, đã phát huy được sức mạnh của toàn dân tham gia Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Với vai trò nòng cốt, lực lượng công an đã điều tra, triệt phá được nhiều băng, ổ, nhóm tội phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen; phát hiện, ngăn chặn và xử lý nhiều vụ phạm tội kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh thành tích đạt được, nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội còn có những hạn chế. Chúng ta chưa dự báo được đầy đủ, chính xác những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Các phương án đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự xã hội và cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp trong xử lý các tình huống phức tạp chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an ninh kinh tế, văn hoá tư tưởng, báo chí, Internet có nơi, có lúc còn buông lỏng. Công tác nắm tình hình từ xa, từ cơ sở cần được tăng cường hơn mới chủ động đập tan những mưu đồ và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. 28. Hãy phân tích và Liên hệ việc thực hiện Nội dung "Quản lý tiềm lực quốc phòng quốc gia" trong Quản lí Nhà nước về Quốc phòng ở nước ta hiện nay? Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Xây dựng tiềm lực chính trị ­ tinh thần là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố chất con người, trong truyền thống lịch sử ­ văn hoá dân tộc và trong hệ thống chính trị. Đây là khả năng tiềm tàng về chính trị tinh thần có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Tiềm lực này biểu hiện ở nhận thức, ý chí, niềm tin, tâm lý, tình cảm của nhân dân và lực lượng vũ trang trước nhiệm vụ quốc phòng của đất nước. Tiềm lực chính trị ­ tinh thần của quốc phòng Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình xây dựng lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự tiếp nối truyền thống dựng nước, giữ nước của cả dân tộc trong hàng nghìn năm lịch sử. Xây dựng tiềm lực chính trị ­ tinh thần đòi hỏi phải tiến hành giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng cho toàn dân, nhất là cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ­ an ninh cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành. Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Nhà nước có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế ­ xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo, xoá đói giảm nghèo để từng bước giảm bớt, tiến tới xoá bỏ chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền. Tiềm lực chính trị ­ tinh thần cũng được xây dựng thông qua thực hiện dân chủ rộng rãi theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, triệt để đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng tiềm lực kinh tế là khả năng tiềm tàng về kinh tế (bao gồm cả kinh tế quân sự) có thể huy động để phát triển kinh tế ­ xã hội, củng cố quốc phòng hoặc tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác, thể hiện ở khối lượng, năng xuất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất xã hội, ở nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, nguồn dự trữ tài nguyên, chất lượng, trình độ lực lượng lao động… Trong lĩnh vực quốc phòng, tiềm lực kinh tế được biểu hiện ở các mặt chủ yếu như khối lượng nhân lực, vật lực, tài lực của nền kinh tế có thể động viên cho việc xử lý các tình huống trong cả thời bình và thời chiến. Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân của đất nước được thực hiện thông qua kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế ­ xã hội với tăng cường quốc phòng ­ an ninh bảo vệ Tổ quốc; phát triển kinh tế ­ xã hội gắn liền với xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) theo quy hoạch, kế hoạch đã xác định. Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam liên tục đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong nước tăng đáng kể, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết cấu hạ tầng phát triển. Nhờ sự phát triển kinh tế những năm qua, việc xây dựng tiềm lực kinh tế cho nền quốc phòng toàn dân đã đạt những kết quả quan trọng. Việt Nam đã có lượng dự trữ hậu cần đáp ứng yêu cầu đối phó với mọi tình huống khẩn cấp; hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển ngày càng hoàn chỉnh và hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động quốc phòng. Mặc dù nền kinh tế còn có nhiều khó khăn trong quá trình phát triển, lại chịu tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng Nhà nước Việt Nam đã dành một phần cần thiết ngân sách quốc gia cho các nhu cầu quốc phòng nói chung và đảm bảo trang bị, vũ khí cho lực lượng vũ trang nói riêng. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ là khả năng tiềm tàng về khoa học và công nghệ (cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội ­ nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ...) có thể huy động nhằm giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của xã hội và xử lý các tình huống quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Tiềm lực khoa học và công nghệ là thành tố có vai trò ngày càng quan trọng trong tiềm lực quốc phòng. Tiềm lực đó được biểu hiện ở trình độ và khả năng phát triển khoa học; số lượng và chất lượng các nhà khoa học; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng khoa học và công nghệ vào lĩnh vực quốc phòng. Tiềm lực khoa học và công nghệ tác động trực tiếp đến sự phát triển của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang, công tác chỉ huy và quản lý bộ đội… Trong những năm qua, khoa học ­ kỹ thuật và nghệ thuật quân sự Việt Nam được quan tâm phát triển, tập trung nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và chiến thuật để đối phó có hiệu quả với chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao. Việt Nam chú trọng kế thừa và phát huy nghệ thuật chiến tranh nhân dân cả trong nghệ thuật tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật... đáp ứng các điều kiện chiến tranh hiện đại, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của con người và vũ khí trong chống chiến tranh xâm lược. Khoa học ­ kỹ thuật quân sự ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn