Xem mẫu
- Câu 1: Cơ sở hình thành của hệ thống tư tưởng Việt Nam:
Qúa trình hình thành và phát triển của tư tưởng Việt Nam được tính
từ thời sơ cổ đến năm 1958.
Được chia làm các thời kỳ :
Thời kì bắc thuộc từ 110 TCN đến năm 938.
Thời kì phục hồi và xây dựng quốc gia độc lập từ năm 939 đến hết thế kỉ XIV.
Thời kì ổn định thịnh vượng của chế độ phong kiến Việt Nam thế kỉ XV .
Thời kì khủng hoảng chia cắt và sụp đổ của chế độ phong kiến từ thế kỉ XVI
đển thế kỉ XVIII.
Thời kì nhà Nguyễn thế kỉ XIX.
Thời kì tiếp nhận tư tưởng phương tây đầu thế kỉ XX.
Với sự phát triển KT-XH, VH tinh thần ở hai thời kì đầu đã tạo cơ sở cho sự hình thành
và phát triển của tư tưởng triết học của dân tộc- triết học Việt Nam trong các thời kì lịch sử
tiểp theo.
Cơ sở xã hội
Vào cuối giai đoạn văn minh sông Hồng, trên cơ sở văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ,
nhà nước Văn Lang ra đời, mặc dù đó là nhà nước phôi thai, kết cấu cộng động nguyên thủy
vẫn chưa hoàn toàn bị tiêu diệt. Nếu phát triển bình thường, nghĩa là quốc gia đó sẽ đi theo
qui luật phân hóa giai cấp, phân công lao động, phát triển chế độ tư hữu... nhưng những quá
trình đó chỉ mới bắt đầu thì nhà Tần, rồi đến nhà Hán xâm lược đặt ách nô dịch hơn 1000
năm. Và cái cộng động mang đậm màu sắc nguyên thủy đáng lẻ bị phá vỡ một cách tự nhiên
trong quá trình phát triển của nhà nước Văn Lang thì nay lại phải cố kết lại để tạo nên sức
mạnh chống xâm lược và đồng hóa.
Với chiến thắng Bạch Đằng chấm dứt 1000 năm bắc thuộc, không lâu nước ta lại rơi vào
loạn 12 sứ quân. Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, nhưng chẳng mấy chốc Lê Đại Hành
lại phải đem quân chống Tống . Từ đó, qua Lý- Trần- Hồ không có triều đại nào không có
kháng chiến chống xâm lược. Tưởng chừng sau kháng chiến chống quân Minh, nước ta có
một nền hoà bình lâu dài, nhưng chỉ 90 năm sau đã xảy ra chiến tranh Nam Bắc Triều , rồi
tiếp đến Trịnh Nguyễn phân tranh. Tây Sơn lên chưa được bao lâu thì nhà Nguyễn thay thế.
Nhà Nguyễn thống nhất được gần nửa thế kỉ thì Pháp đã nổ súng xâm lược.
Đã chiến tranh thì không thể có sự phát triển bình thường được. Sức sản xuất, khoa học
kỹ thuật chậm phát triển. Sự phát triển không bình thường của xã hội Việt Nam còn thể hiện
- ở cấu trúc kinh tế xã hội. Nhìn đại thể, xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp với xã
họi làng xã, chế độ đem lại cho mỗi đơn vị nhỏ bé một cuộc sống cô lập, biệt lập. Làng xã
này tổ chức theo lối gia đình tự cấp, tự túc, bị trói buộc bởi những xiềng xích nô lệ của các
quy tắc cổ truyền, từ đó đã làm hạn chế lý trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp
và đôi khi trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín. Những làng xã này, nếu nhìn từ trên cao
xuống , chúng giống như những ốc đảo độc lập, như những mảnh nhỏ của con giun sau khi
chặt ra nhưng chúng vẫn sống và tồn tại. Và cũng nhờ tinh chất đó mà ở một số thời kì, đặc
biệt là thời Bắc thuộc, nước mất nhưng còn làng, và nhờ còn làng mà cuối cùng còn nước.
Theo C.Mac, công xã hay làng này là cơ sở bền vững cho chế độ chuyên chế phương đông;
còn cái xã hội truyền thống đó, mang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi, kéo dài từ
những thời hết sức xa xưa cho đến những năm đầu của thế kỉ XIX
Đặc điểm về địa lý, kinh tế và thế giới quan của người Việt trong
quá trình hình thành tư tưởng Việt Nam
Trước khi tiếp xúc với tam giáo là Phật- Nho- Lão và bất cứ tư tưởng ngoại lai nào khác
tư tưởng Việt đã hình thành. Lý do đơn giản là khi các tôn giáo trên được thành lập ( khoảng
200- 500 năm TCN) người Việt đã hợp thành xã hội văn minh từ lâu và đã hình thành quốc gia
ít ra cũng trên 200 năm trước . Đó là chỉ kể tổ tiên người Việt tụ tập lại lần thứ hai ở đồng
bằng Sông Hồng để lập nên nhà nước Văn lafg. Sau khi nước biển đã xuống thấp ( nước
biển dâng khoảng 10 năm trước; từ 8000- 6000 năm trước, miền đồng bằng sông Hồng bị
nước biển tràn ngập ; nước chỉ lui dần từ 6000 năm trước . Tổ tiên người Việt đã tiến theo
đất đai tái xuất hiện do nước biển lui để lập nên nhà nước Văn Lang ). Từ khoảng 10000 năm
đén trên 30000 năm về trước, tổ tiên người Việt đã tụ tập lần thứ nhất ở đồng bằng sông
Hồng, lúc đó nước biển thấp hơn ngày nay gần 100 thước, bờ biển rút tận đảo Hải Nam, nên
người thời đó đã chiếm hữu một đồng bằng tuyệt đẹp. Những tư tưởng đầu tiên chắc đã hình
thành từ thời này. Ta có thể dựa vào huyền thoại kết hợp với khảo cổ và các hình thức lễ hội
dân gian cùng ca dao, tục ngữ để tìm cốt lõi tư tưởng của tổ tiên người Việt khi chưa tiếp xuc
với các nền văn hóa khác.
Thời đại đồ đá kéo dài từ mấy triệu năm đến mấy nghìn năm cách ngày nay đánh dấu
bước chuyển từ hái lượm, săn bắn sang chăn nuôi, trồng trọt hình thành nên một nền nông
nghiệp lúa nước phát triển qua các thời đại cho tới ngày nay. Qua những tư liệu khảo cổ cho
ta thấy người Việt cổ bước đầu đã có ý niệm về sự cân xứng đã có tư duy phân loại, có lòng
tin ở thế giới bên kia, mà ở đó người chết vẫn tiếp tục lao động. Cư dân Hòa Bình đã biết
chọn nơi cư trú, biết dùng lưu hoàng để vẻ lên người, biết đến nhịp điệu, dùng ký hiệu để
ghi. Đây là quá trình hình thành hoạt động đếm và phạm trù số lượng, từ đó ra đời các số đếm
tách khỏi vật đếm. Họ có quan niệm về thời gian, vũ trụ. Họ tôn thờ sức mạnh tự nhiên như
mưa, gió, đặc biệt là Mặt Trời đã trở thành thần linh của họ.
Cách đây khoảng 4000 năm, người Việt đã bước vào giai đoạn đồng thau - thời kì tiền
Đông Sơn. Đến thời kì Đông Sơn, kĩ thuật đồng thau phát triển cao với sự ra đời của những
trống đồng.
- Thời kì Đông Sơn đã hình thành tư duy lưỡng hợp giữa khô và ướt, lửa và nước, nhật và
nguyệt, chim và rắn, thấp và cao...Văn hóa, phong tục, thần thoại, trống đồng,... Ở đây đều
biểu hiện tính lưỡng hợp, giao tranh, giao hòa giữa các yếu tố đối lập. Đặc điểm này in đậm
dấu ấn của nó trong các mặt thể hiện của văn hóa nhận thức, nghệ thuật, tính ngưỡng dân
gian Việt Nam. Chẳng hạn như thần thoại phản ánh thế lưỡng hợp trong các cặp rồng – tiên,
núi - biển trong Sơn Tinh - Thủy Tinh. Triết lý âm dương, tính ngưỡng Mẫu, tam phủ và tứ
phủ trong quan niệm về vũ trụ thiên nhiên, tách biệt sự sống và cái chết trong các di tích mộ,
tín ngưỡng phồn thực...Tiêu biểu nhất cho quan niệm về thế giới là truyện Bánh Chưng-
Bánh Dày.
Sang thời kì xây dựng và tồn tại của nước Văn Lang, người Việt đã bước ra khỏi thời kì
sơ sử, mà đã bước vào thời kì con người đã có kiến thức và quan điểm chính xác về nhân sinh
quan, vũ trụ quan, nhận thức về âm dương, ngũ hành, tam tài. Chính ngay thời đại này, các
nền tảng chính của tư tưởng yêu nước dân chủ,nhân đạo đã bắt đầu có nền móng vững vàng
và đã định hình rõ nét qua một loại các thần thoại và truyền thuyết trước và trong giai đoạn
Văn Lang, có sức sống vĩnh cữu trong lòng dân tộc.
Những phương diện thể hiện của tư tưởng bản địa thời kì này thường nằm trong thần
thoại Việt Nam đã xuất hiện trước và trong thời Hùng Vương, qua đó đã thể hiện tư tưởng
yêu nước, ý thức cộng đồng dân tộc ban đầu được thẻ hiện qua các thần thoại và truyền
thuyết:
Thần thoại họ Hồng Bàng: là nơi phát tích của khái niệm “đồng bào” (cùng một
cái bọc mà ra) của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhấn mạnh rằng người Việt dù ở đâu trên lãnh
thổ Việt Nam cũng đều có cùng một gốc; thần thoại Kinh Dương Vương cũng nói lên Việt và
Hán cùng có chung một tổ tiên – đó là Viêm Đế họ Thần Nông, chứ không phản Hán là Hạ
mà Việt là Man Di.
Thần thoại sơn thần núi Tản (thần Tản Viên, thần núi Ba Vì, Sơn Tinh): Tương
truyền đây là một trong 50 vị thần theo cha xuống biển, sau đó nhớ mẹ, thần đã qua cửa Thần
Phù, ngược sông Hồng lên ngự đỉnh Ba Vì, trở thành vị đệ nhất phúc thần của người Việt khi
thần đã đảm nhiệm công việc trông nom cuộc sống của dân, cứu dân khỏi nạn yêu tinh, bệnh
hoạn đói khổ. Thần còn là con rể vua Hùng, người đã chiến thắng Thủy Tinh (đại diện cho
thế lực mưa lũ, lụt lội).
Truyền thuyết Thánh Gióng: cho thấy tư tưởng yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cuộc hành trình của tư tưởng Việt Nam: yêu nước là dựng nước và giữ nước. Thánh Gióng
mang đậm màu sắc Việt Nam, không phải là một vị thần bạo lực như kiểu thần phương Tây.
Sức mạnh của Gióng là sức mạnh gom góp lại của toàn dân tộc (ăn cơm của cả làng). Đứa
trẻ trong nôi 3 năm vụt trưởng thành trong trách nhiệm của người anh hùng, tiếng nói đầu tiên
là tiếng nói yêu nước. Tiếng nói yêu nước ấy chính là nền tảng cho sức lớn phi thường, tiếp
nhận thêm sức mạnh dân tộc, trở thành con người kì vĩ sau một cái vươn vai.tầm vóc kì vĩ ấy
đủ sức đáp ứng cho một nhiệm vụ cực kì khó khăn, nhưng cả thiên nhiên, đất nước đều cùng
- ủng hộ ( ngựa sắt, roi sắt, tre ngà...). Xong nhiệm vụ, thần bỏ áo mũ bay lên núi Sóc Sơn rồi
biến mất, thể hiện tinh thần vô vị lợi tong sáng trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Các sự tích Bánh Dày- Bánh Chưng, Trầu Cau, Mai An Tiêm, Phật mẫu Man
Nương... thể hiện các nhận thức về mối quan hệ của con người và vũ trụ. Đặc biệt, các thần
thoại, các sự tích về sau thường có liên quan đến cuộc sống dời thường và những vấn đề về
ý thức của con người trong quan hệ gia đình, xã hội của con người trong cuộc sống ( vợ
chồng, anh em, cha mẹ, con cái...)
Tóm lại, tư tưởng Việt Nam được hình thành trên cơ sở xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
vươn tới cuộc sống tốt đẹp của con người. Tư tưởng thể hiện nổi bật qua các truyền thuyết,
truyện cổ tích lưu truyền tới ngày nay để cho thấy rõ cha ông ta đã có những tư tưởng phong
phú trong quá trình xây dựng đất nước bảo vệ Tổ quốc.
Câu 2: Trình bày nội dung của tư tưởng yêu nước và nhân nghĩa Việt
Nam qua các thời đại:
ạThời kì Văn Lang – Hùng Vương : (660 – 204 BC, 456 năm , 18 đời)
Giai đoạn này, người Việt đã bước ra khỏi thời kì sơ sử, mà đã bước vào thời kì con
người đã có kiến thức và quan điểm chính xác về nhân sinh quan, vũ trụ quan, nhận thức về
âm dương, ngũ hành, tam tài ( thiên- địa- nhân). Hùng Vương quốc tổ đã chọn Phong Châu làm
kinh đô, với một tổ chức hành chính khá hoan chỉnh.
Đặc điểm nổi bật của xã hội ta lúc ban đầu là mỗi ông vua không có tên riêng và chỉ gọi
chung là Hùng Vương thứ nhất, Hùng Vương thứ hai... cho đến Hùng Vương thứ 18. Xây
dựng được nguyên tắc đó không phải dễ nếu không có tinh thần vì nước vì dân, Tổ quốc trên
hết, trước hết, đặt cái chung lên trên cái riêng, không có cái cá nhân chủ nghĩa. Khác hẳn với
xã hội Trung Hoa- một tổ chức phong kiến, cha truyền con nối, có tước có lộc, có chức vụ
hẳn hoi trong triều đình và ngoài xã hội, có phân biệt rõ ràng các giai cấp, không được phép
lẫn lộn.
Xã hội Giao Chỉ thời Hùng Vương nói chung là công xã thị tộc có tổ chức cao, còn mang
tính dân chủ tự do.Vua quan và dân cùng cày ruộng, tắm sông, cùng múa hát. Ngôi vua không
nhất thiết phải truyền cho con mà vẫn có thể truyền cho người có đức có tài qua thi tuyển
( còn di tích của chế độ mẫu hệ, phụ nữ có quyền có nhiều chồng, nên vua không nhất thiết
phải truyền ngôi cho con, nên trong truyền thuyết không thấy có hoàng hậu của vua Hùng mà
chỉ có con gái của vua có tên chung là Mị Nương). Người thời Hùng Vương chưa có họ, theo
văn hóa trọng tình, thờ cúng người chết là một đạo riêng của người Giao Chỉ đã xuất
hiện.Các vua Hùng đã là những người có học thức và biết chữ Hán.
Chính ngay từ thời đại này, các nền tảng chính trị tư tưởng yêu nước; dân chủ; nhân đạo;
tính bản địa sâu sắc trong nhận thức đã bắt đầu có nền móng vững vàng và đã được định hình
- rõ nét qua một loạt các thần thoại, truyền thuyết trước và trong giai đoạn Văn Lang, có sức
sống vĩnh cữu trong lòng dân tộc.
Thần thoại họ Hồng Bàng: là nơi phát tích của khái niệm niệm “đồng bào” (cùng
một cái bọc mà ra) của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhấn mạnh rằng người Việt dù ở đâu trên
lãnh thổ Việt Nam cũng đều có cùng một gốc; thần thoại Kinh Dương Vương cũng nói lên
Việt và Hán cùng có chung một tổ tiên – đó là Viêm Đế họ Thần Nông, chứ không phản Hán
là Hạ mà Việt là Man Di.
Về nguồn gốc họ Hồng Bàng của Tổ tiên ta rất cao đẹp. Theo tục truyền thì
vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Nghĩa Lĩnh
thuộc tỉnh Phú Thọ bây giờ gặp nàng tiên, lấy nhau đẻ con lấy tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh
phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là KInh Dương Vương.
Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm
nối ngôi làm vua xưng danh là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ đẻ một lần được một trăm
quả trứng nở ra một trăm con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ “ Ta là dòng dõi Long Quân còn
hậu là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì hậu đem
50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải”
Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là
Hùng Vương. Đó là ông vua đầu tiên của họ Hồng Bàng.
Kinh Dương Vương là một nhân vật có tâm tính cao thượng và độ lượng hiếm
có là một vị vua có công dẫn bộ lạc vượt qua sông Dương Tử xuống vùng đồng bằng phì
nhiêu để xây dựng nền văn minh nông nghiệp. Vua đã ý thức được 3 tài nguyên cơ bản của
trời ( khí hậu, thời tiết, ngày đêm), đất và sức người để tự đặt cho mình cái tên Vương là
thông minh thấu suốt thiên nhân địa ấy. Cái bản của nền văn minh nông nghiệp của người
Bách Việt. Chữ Việt này là biểu tượng sự sinh sôi nảy nở của dân tộc ta, quả có nhiều hột
( Bách). Tượng hình cái quả ấy chính là chữ Việt mà người Việt thường dùng chứ không
phải là chữ Việt chiết tự như người Tàu xuyên tạc, bôi nhọa nước ta.
Thật vậy, nói đến chọn tên đặt, người Việt xưa rất thận trọng, đặt tên ít ra
phải nói lên ý nguyện cuả mình hoặc phải có một ý nghĩa gì. Thí dụ: Đế Minh chứng tỏ là
người có sự thông hiểu triết lý, người chỉ huy sáng suốt, yêu dân, yêu nước; Lộc Tục là người
sáng suốt và thương yêu dân như con đẻ thì phải lo kinh tế cho dân, lo sau cho lộc cõi trời trên
mặt đất còn mãi để nuôi lấy con dân. Bởi vậy, khi Lộc Tục làm vua xưng là Kinh Dương
Vương. Kinh là đường thẳng, Dương là ánh sáng, Vương là sự thông suốt Thiên- Nhân Địa;
Sùng Lãm, Lãm là ngắm, Sùng là cao xa bao quát. Sùng Lãm là con người có mắt nhìn xa trông
rộng. Sùng Lãm xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân- Lạc là con sư tử, Long là rồng.
Dòng dõi của rồng tượng trưng cho năng lực hiền diệu, lớn được, nhỏ được, biến được, hóa
được. Khi lớn thì làm mây làm mưa, khi nhỏ thi ẩn bóng dấu hình, khi ẩn khi hiện trong bất
- cứ hoàn cảnh nào rồng cũng thích ứng cho nên rồng tượng trưng cho sự bất diệt, tồn tại mãi
mãi. Còn chữ Hồng Bàng có nghĩa là ý thức của con người như chim bay giữa không gian và
thời gian, bay không có thời gian và cây số. Chữ Hồng Bàng chiết tự từ chữ Hán, Bàng là ngôi
nhà lớn tượng trưng cho không gian. Chữ Hồng, một bên có chữ giang là sông- tượng hình cho
thời gian luôn luôn chảy và chữ điểu một bên là chim, tượng hình cho ý thức.
Nhìn lại, tổ tiên ta đã nghĩ ra những cái tên thật có ý nghĩa và thông hiểu mọi sự
trên đời đã cách đây gần 5000 năm. Và tổ tiên ta bằng ngần ấy thời gian đã đóng góp cho sự
tồn tại vì hòa bình và phát triển, xây đắp trên cơ sở tình nhân ái, tính cộng đồng. Mầm mống
của nền văn minh Việt Nam mà tổ tiên ta để lại thật không thể có tưởng tượng nào cao đẹp
hơn, lý thú hơn tượng hình một bọc trăm trứng nở thành trăm con, sau này sinh hóa ra toàn thể
con dân Việt Nam. Cùng trong một bọc sinh ra không có kẻ trước người sau, trăm trưng đều
thụ hưởng cùng tình yêu thương rộng rãi như Trời Đất bao la hùng vĩ. Trăm người con sống
chung với nhau, một mà là trăm, trăm mà là một, kẻ ở trên núi cao, kẻ ở dưới biển sâu không
chỉ là một gốc rồi chia ra ngành lớn, ngành nhỏ, nhánh đầy nhánh vơi mà là chung cùng một
bọc.
Từ khởi đầu cho đến Hùng Vương thứ 18 không có việc tranh chấp địa vị,
không chém giết nhau vì đất đai, không ganh ghét nhau vì quyền lợi. Không cần chờ đến lúc
xung khắc để ghét nhau, biết tiên liệu trước sự việc như không ở được với nhau lâu thì chia
con ra mà đi mỗi người một phương để giữ nguyên vẹn cái tình với nhau (như Lạc Long
Quân), không biết lấy cớ gì để giải bày nổi oan khi thấy anh về thì thà chết còn hơn(như em
nhà họ Cao);nhẫn nhục chịu đựng(như Chử Đồng Tử);lấy nghĩa cha con làm trọng(như Chử
Đồng Tử)lấy tình vợ chồng thì hơn(như cây trầu và cây cau).
Những sản phẩm nói trên không đơn thuần là trí tưởng tượng mà là hồi quang
của hiện thực xã hội Việt Nam ,Tổ tiên ta ngày trước.Có thể nói những câu chuyện về thời
đại Hùng Vương là một thể sử thi trong thời đại lập quốc.
Thần thoại sơn thần núi Tản (thần Tản Viên, thần núi Ba Vì, Sơn Tinh): Tương
truyền đây là một trong 50 vị thần theo cha xuống biển, sau đó nhớ mẹ, thần đã qua cửa Thần
Phù, ngược sông Hồng lên ngự đỉnh Ba Vì, trở thành vị đệ nhất phúc thần của người Việt khi
thần đã đảm nhiệm công việc trông nom cuộc sống của dân, cứu dân khỏi nạn yêu tinh, bệnh
hoạn đói khổ. Thần còn là con rể vua Hùng, người đã chiến thắng Thủy Tinh (đại diện cho
thế lực mưa lũ, lụt lội).
Truyền thuyết Thánh Gióng: cho thấy tư tưởng yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cuộc hành trình của tư tưởng Việt Nam: yêu nước là dựng nước và giữ nước. Thánh Gióng
mang đậm màu sắc Việt Nam, không phải là một vị thần bạo lực như kiểu thần phương Tây.
Sức mạnh của Gióng là sức mạnh gom góp lại của toàn dân tộc (ăn cơm của cả làng). Đứa
trẻ trong nôi 3 năm vụt trưởng thành trong trách nhiệm của người anh hùng, tiếng nói đầu tiên
là tiếng nói yêu nước. Tiếng nói yêu nước ấy chính là nền tảng cho sức lớn phi thường, tiếp
nhận thêm sức mạnh dân tộc, trở thành con người kì vĩ sau một cái vươn vai.tầm vóc kì vĩ ấy
đủ sức đáp ứng cho một nhiệm vụ cực kì khó khăn, nhưng cả thiên nhiên, đất nước đều cùng
- ủng hộ ( ngựa sắt, roi sắt, tre ngà...). Xong nhiệm vụ, thần bỏ áo mũ bay lên núi Sóc Sơn rồi
biến mất, thể hiện tinh thần vô vị lợi tong sáng trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Các sự tích Bánh Dày- Bánh Chưng, Trầu Cau, Mai An Tiêm, Phật mẫu Man
Nương... thể hiện các nhận thức về mối quan hệ của con người và vũ trụ. Đặc biệt, các thần
thoại, các sự tích về sau thường có liên quan đến cuộc sống dời thường và những vấn đề về
ý thức của con người trong quan hệ gia đình, xã hội của con người trong cuộc sống ( vợ
chồng, anh em, cha mẹ, con cái...)
Tư tưởng yêu nước của người Việt Cổ:
-Tự hào về nguồn gốc cao quý của mình.
-Tự hào về nền văn hiến của đất nước mình.
-Người Việt là con cháu của những thân linh có chiến công hiển hách trong việc tiêu diệt
các thế hệ đen tối làm hại đến đời sông nhân dân (lực lượng quân đánh ngư tinh, hồ tinh, mộc
tinh...)
-Yêu nước bảo vệ đất nước trước những thế lực ngoại xâm.
-Khai phá các giống vật lạ cho đất nước.
ớThời kỳ Lý -Trần: (1010 – 1399)
Từ thế kỷ X (939) đến hết thế kỷ XIV(1399) là thời kỳ phục hội và xây dựng đất nước,
nó trải dài qua năm triều đại:Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, trọng đó quan trọng nhất là thời Lý -
Trần(1010-1399). Đây là thời kỳ các xu hướng tư tưởng triết học Việt Nam hình thành và phát
triển gắn liền với những chiến công xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhìn chung, trong giai
đoạn này, hai khuynh hướng tư tưởng quan trọng đã xuất hiện trong sự vận động và phát
triển của tư tưởng Việt Nam là tư tưởng chính trị xã hội gắn liền với quá trình dựng nước và
giữ nước( thể hiện tập trung qua tư tưởng yêu nước và tư tưởng phật giáo mang màu sắc
ViệtNam trong giai đọan này).
Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm để bảo vệ tổ quốc cũng như những
giá tri tinh thần của tổ quốc hòa quyện vào trong ba luồng tư tưỏng Nho, Phật, Lão.Nét đặc
biệt: bản địa hóa sâu sắc; kết hợp chặt chẽ với tinh thần yêu nước, tư tưởng tự chủ, độc lập
dân tộc, người Việt Nam không tách rời những yếu tố này khỏi tam giáo.
Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo
Sau khi giành độc lập, các triều đình phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đầu ( nhất
là Lý-Trần) đều tôn trọng Phật giáo. Thời Lý, bản thân vua xuất thân từ chùa(Lý Công Uẩn).
Phật giáo gần như là quốc giáo. Đây là thời kỳ xuất hiện của các cao tăng Việt Nam có tầm
lịch sử, tiêu biểu như Giác Hoàng Trần Nhân Tông, người đã sáng lập ra phái thiền Trúc Lâm.
Các thiền sư có vai trò đặc biệt sư Vạn Hạnh, Minh Không, Không Lộ, Mãn Giác(có những
bài thơ thiền, xuân đáo, bách khoa lạc...). Dấu ấn của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam vô
cùng sâu sắc, bởi nó đáp ứng được cả hai nhu cầu, vừa nhân văn vừa siêu việt.
- Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý - Trần chủ yếu là tư tưởng của phái Thiền tông. Nó bao
gồm các tác phẩm về triết học và những cảm hứng Phật giáo, cùng là những tác phẩm về lịch
sử Phật giáo thời Lý - Trần. Nhiều bài thơ phú, kệ, minh do các sư tăng trí thức viết, bàn về
các khái niệm sắc - không, tử - sinh, hưng - vong, quan hệ giữa Phật và Tâm, đạo và đời, con
người và thiên nhiên, phản ánh sự minh triết và niềm lạc quan của cá nhân trong cuộc sống và
thời đại. Sư Mãn Giác để lại những câu thơ nổi tiếng về cảm hứng đó.
"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
(nghĩa là : Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Một số nhà vua và quý tộc sùng Phật đã biên soạn những tác phẩm về giáo lý nhà Phật
như các cuốn Khóa hư lục, bài Thiền tông chi nam của Trần Thái Tông, Thiền lâm thiết chủy
ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung.
Dòng thơ văn yêu nước, dân tộc cũng đã giữ một vị trí rất quan trọng trong thơ văn Lý - Trần.
Nó phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc, lòng trung quân ái quốc cũng như lòng
tự hào dân tộc qua những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Thuộc loại này có thể kể bài
thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài Phú sông
Bạnh Đằng của Trương Hán Siêu, hoặc những bài thơ của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng
Nguyên như 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Nhân Tông:
"Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng)
Một số tác phẩm đã nói lên ý thức tìm về cội nguồn, sưu tập những truyền thuyết, thần
tích nói về lịch sử và nhân vật lịch sử thời quốc sơ Văn Lang - Âu Lạc cũng như các thời kỳ
sau. Hai tác phẩm tiêu biểu là Việt Điện u linh của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của
Trần Thế Pháp.
Tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam thế kỷ X – XIV : Triết học Phật giáo thời kỳ
này tập trung ở hai vấn đề: bản thể và con đường trở về bản thể.
-Bản thể luận:Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi đã có một loạt khái niệm có tính chất
bản thể như “thể”, “diệu bản”, “chân tính”, “chân thân”, “pháp tính”, “hư vô”, “tâm
ấn”,...Bản thể là bất sinh, bất diệt, không được không mất. Dòng Vô Ngôn Thông còn dùng
những khái niệm sau để chỉ bản thể: “chân như”, “phật tính”, “ pháp thân”, “hư không”. Các
quan niệm này được thể hiện và sáng tác của các thiền sư nổi tiếng thời kì này. “Con người
là kẻ ăn mày và không biết mình là một hạt minh châu mai giấu trong lai áo và hạt minh châu
đó chính là bản thể.”
Thời Lý Trần có nhiều minh quân, quan chức vừa đạo đức vừa anh hùng. Có song
hành thì bảo vệ đất nước (bản thân Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đều cầm quân đánh
giặc xâm lăng). Vua Thái Tông bộc bạch: “Miễn cưỡng trở lại triều mà lên ngôi báo. Ròng rã
- 10 năm trời mỗi khi có việc nước nhàn rỗi, trẫm lại tụ họp các bậc kỳ đức để học đạo
thiền... Trong phổ khuyến phát bồ đề tâm, về bản chất của cuộc đời ngày viết : “rõ ràng thời
gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyển tư đại đâu thể lâu dài. Mổi ngày chìm đắm
trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức cáng mênh mong vô tận. Công danh cái thế là một trường
đại mộng, phú quý kinh nhân khó thoát vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc
thành không, khoe giỏi khoe hay cứu cánh chẳng thật...” Tính giả tạm và mong manh của
mọi khái niệm ở thời gian:
Hoàng thân Tuệ Trung thượng sĩ cũng tu thiền sau khi tham gia bảo vệ đất nước.
Thơ văn của ngài thể hiện sự đạt đạo, thấu suốt những nguyên lý vê bản thể :
Ý định triết lý phật pháp của thời gian:
Tâm tức Phật, Phật tức tâm Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh
Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông Khác nào tìm ảnh mà quên kính
Xuân đến, tự hoa xuân mỉm miệng Nào hay ảnh vốn tự gương ra
Thu về, đâu chẳng nước thu trong Chẳng biết vọng do từ chân hiện...
Hay bài “Đăng Bảo đài sơn” của Giác Hoàng Trần Nhân Tông, vị sư tổ của phái thiền
Trúc Lâm Yên Tử là một phối hợp đẹp giữa giác ngộ và tiêu dao trong không gian đậm đà bản
sắc Việt Nam :
Thái độ sống không nhủ lòng:
Đất vắng đài thêm cổ Muôn việc nước xuôi nước
Ngày qua xuân chửa nồng Trăm năm lòng nhủ nồng
Gần xa mây núi ngất Tựa lan, nâng ống sáo
Nắng rợp ngõ hoa thông Đầy ngực ánh trăng trong.
Cuối bài của “ Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông cũng vậy :
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
(Sống tùy duyên, không xao động chân tâm) (Trong nhà có vật quý còn đi kiếm ở đâu)
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
(Nhất định rằng tất cả các Pháp đều do tâm mà ra)( Đứng trước cảnh mà vô tâm thì còn hỏi thiền làm
chi nữa )
“Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh” là quan điểm duy tâm theo đúng nghĩa của nó.
Quan điểm này chi phối toàn bộ Phật giáo Viêt Nam thời Lý Trần và cả sau này.
Ở Trần Thái Tông, bản thể còn là “ Bồ đề giác tính”, “Bản lai diện mục” (là khuôn
mặt suốt đời của mình tứ hay nhất dể chỉ bản thể . Những cái này ai ai cũng có nhưng vì
tham sân xi mà đánh mất chúng.
- Tuệ Trung Thượng Sĩ( 1230 – 1291) đã dùng khái niệm“ bản thể” và cho rằng “bản
thể như nhiên tự không tịnh”. Như vậy, bản thể tự không tịnh, tồn nhiên như nhiên, hồn
nhiên muôn đời, chẳng được chẳng mất. Ông còn nói : “Bản thể như như chỉ tự nhiên”, tức
bản thể là cái tự nhiên như thế là như thế, không phải cầu ở đâu cả.
Để chỉ bản thể, Trần Nhân Tông dùng khái niệm “ bản” vì khuây bản( quên mất gốc )
nên mới tìm Bụt vì Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa. Và bản cũng chính là tâm, lòng, Phật,
báo vật trong mỗi người mà họ không biết. Phật, Tịnh độ là lòng trong sạch. Nếu ở Trần Thái
Tông dùng Bồ đề giác tính thì Trân Nhân Tông dùng tính sáng, đối lập với vô minh. Ông kêu
gọi trở về một lòng nhất tâm.
-Con đường trở về bản thể: là con đường tụ tập, diệt bỏ vọng tưởng tham- sân- si
để tìm lại giác tính. trở về bản thể bằng con đường tu tập giới- định- tuệ .
Để trở về bản thể, Trần Thái Tông đưa ra hệ thống luyện tập gọi là “ lục thì xám hối
khóa nghi tự” chia một ngày đêm làm sáu buổi , mỗi buôi xám hối một căn, hết ngày này qua
ngày khác, tháng này qua tháng khác, dần dần nó biến tâm hành giả thành hư vô- cái bản thể
nó không thể hiện ở mỗi con người. Để trở về bản thể, thượng sĩ dùng phương pháp vong
nhị kiến, buông bỏ tất cả ( phá chấp) từ đó sẽ có một cuộc sống ung dung tự tại ( phóng
cuồng). trở về bản thể đối với Trần Nhân Tông là phải đến một lòng, nhất tâm, nhiệt vô
minh ( giữ tính sáng).
Tuy nhiên, trong thực tế tồn tại, phật giáo Việt Nam không bao giờ tồn tại như một
xu hướng xuất thế tuyệt đối, mà ngược lại, có khi còn mang tính xã hội cao. Các thiền sư nổi
tiếng thời Lý Trần thường tham gia chính trị và có khi đóng vai trò hoặc giữ trọng trách khá
cao trong những công việc quan trọng của đất nước (nuôi dạy vua, đối ngoại, tư vấn cho
triều đình ... như Vạn Hạnh, Đa Bảo...)
Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo
Trong lịch sử truyền bá đầy phức tạp và mâu thuẩn, nho giáo nguyên thủy cũng không
giữ được tính chất dân chủ và lý tưởng của nó hồi đầu, mà nó được biến thể, nhào nặn nên
có rất nhiều thứ nho giá khác nhau, nhưng quan trọng nhất của bản lĩnh Việt Nam trong sự
tiếp nhận Nho giáo chính là sự phát triển của nhận thức bảo vệ nhà nước phong kiến Việt
Nam gắn bó chặt chẽ với tư tưởng nhân trị mang màu sắc bản địa Việt Nam. Sự phát triển
này được đánh dấu bằng sự hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời phong kiến, thể
hiện qua những mốc quan trọng là:
Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn năm 1010. Nội dung của bài chiếu đề cập
đến ý định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Việc dời đô gắn liền với việc dựng nước và phát
triển vững bền cho đất nước. Mà dựng nước cũng có nghĩa là cũng cố và duy trì độc lập dân
tộc. Chiếu dời đô cũng đánh dấu một bước phát triển quan trọng của dân tộc ta về những vấn
đề kinh tế, chính trị, văn hóa trong mối liên quan của nó với tiền đề của đời sống thực tiễn.
- Tư tưởng bản địa của Lý Công Uẩn:
+ Sự quan sát chính lịch sử của mình.
- + Lý do dời đô chính là vị trí “địa lợi” hiển nhiên của chính đất Thăng Long
+ Việc dời đô là sự tồn tại yên ổn, hạnh phúc cho nhân dân.
+ Câu hỏi “ các người thấy thế nào?” gần gũi với dân thể hiện sự hoài hòa bình đẳng.
Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt: Những cuộc chiến thắng oanh liệt của
quân và dân ta đối với đội quân xâm lược phương Bắc (Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán,
Lê Hoàn đánh tan quân Tống nhà Lý còn sang tận đất Tống chủ động đánh địch khi địch tiến
hành xâm lược nước ta, đặc biệt là ba lần đánh tan quân Nguyên của nhà Trần) đã thổi một
luồng sinh khí mới vào tư tưởng yêu nước, đã làm cho ý thức cộng đồng và lòng tự hào dân
tộc có bước phát triển mới... Điều này thể hiện rõ qua bảng tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
nước ta, bài “ Nam quốc sơn hà”. Ở đây vấn đề độc lập chủ quyền được trịnh trọng tuyên
ngôn một cách đanh thép. Đây là bảng tuyên ngôn độc lập đầu tiên đã ra đời, khẳng định nước
ta có vua ( Nam đế ) ngang hàng với Hoàng đế phương Bắc. Quyền độc lập, tự chủ, bình
đẳng giữa các nước là một điều thiêng liêng bất khả xâm phạm, hiển nhiên không một ai
chối cãi đựơc. Bất cứ kẻ thù nào động chạm tới nền độc lập tự chủ ấy đều không tránh khỏi
chuốc lấy thất bại thảm hại.
Nam quốc sơn hà nam đế cư
(Sông núi nước Nam, vua nam ở)
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
(Rõ ràng phân định tại sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
(Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư
(Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời).
Tư tưỏng Trần Quốc Tuấn qua Hịch tướng sĩ: nhằm xây dựng những tư tưởng đúng
đắn , những phẩm chất cao đẹp nằm trong ý thức về đất nước, về dân tộc, làm nền tảng cho
nhận thức về tinh thần chiến đấu bảo vệ đất nước, chống tinh thần cầu an hưởng lạc. Điều
quan trọng nhất là ông đã biến những khái niệm đạo đức như vinh dự, sĩ nhục, anh hùng của
Nho học trở thành một khối thống nhất với tinh thần yêu nước mang đậm sắc thái của hào
khí Đông A. Những tư tưởng chính trị quân sự của Trần Quốc Tuấn phản ánh những quy luật
cơ bản của cuộc chiến tranh giữ nước không phải chỉ ở thời Trần mà còn có nghĩa phổ biến
cho mọi cuộc chiến tranh giữ nước về sau của dân tộc Việt Nam. Từ thời Trần những tư
tưởng về sự lâu dài ( Vạn Xuân) của giang sơn đất nước, của núi sông nước Đại Việt ngày
càng được khẳng định. Chính lòng tự hào dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên những
chiến công hiển hách trước quân Tống, quân Nguyên. Và sự chiến thắng Tống- Nguyên làm
nức lòng mọi người, đưa lòng tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu nước Đại Việt lên một bước
mới.
- “Hịch Tướng Sĩ” nêu những tấm gương tốt ( trung thần nghĩa sĩ) trong lịch sử Trung
Quốc xưa va nay: “ ta thường nghe: Kỉ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao đế; Do Vu
chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ.
Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông
- thoát khỏi vòng vây Thế Sung, Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo
mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có?”
- Trình bày nỗi lòng Trần Quốc Tuấn: “ ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột
đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
Dẫu cho trăm thân này phơi vào nội cỏ, nghìn xác nayày gổi trong da ngựa ta cũng cam lòng”.
Ý nghĩa: giá trị của thái độ sống tích cực, nêu rõ quan hệ giữa nướ và nhà, xác định lại
lập trường của mình kêu gọi lòng yêu nước
Tư tưởng nho giáo thời Lý Trần được bản địa hóa, dược Việt Nam hóa một cách sâu sắc
mà yếu tố dân chủ, nhân đạo trong yếu tố nông nghiệp lúa nước phương Nam.
Tư tưởng nho giáo trong bài hịch được Việt Nam hóa những điểm:
-Quan niệm quân thần được xác lập một cách dân chủ và bình đẳng.
-Yêu tố dân chủ và nhân nghĩa của nền nông nghiệp lúa nước phương Nam.
-Tư tưởng yêu nước nhân nghĩa dân tộc và gắn bó chặt chẽ với nho giáo.
Tư tưởng nho giáo thời kì này dược Việt nam hóa sâu sắc( theo tinh thần) bằng yếu tố dân
chủ nhân đạo trong văn hóa nông nghiệp lúa nước phương Nam.
Những nét lớn của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời kì này
Lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập tự cường, chủ nghĩa yêu nước còn được thể
hiện ở những tư tưởng sáng suốt của các minh quân thời kì Lý-Trần. Yêu nước gắn liền với
thương dân , các triều Lý Trần đều coi “ý dân”, “lòng dân”là cơ sở của mọi quốc sách.
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn khắng định: “Trên vâng mệnh trời, dưới
theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”.
Trần Quốc Tuấn đưa ra chính sách Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là
thượng sách để giữ nước. Lòng thương dân còn được biểu hiện ở việc phát chuẩn thóc hoặc
giảm thuế khi mất mùa. Không chỉ thương dân mà còn tôn trong dân, phát huy sứ mạnh của
dân. Điều đó thể hiện qua hội nghị Diên Hồng, hội nghị Bình Than đời Trần.
Chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện trong khí tiết khảng khái của các anh
hùng thời Lý Trần. Trần Quốc Tuấn trước vua tuyên bố “Bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi
hãy đầu hàng”. Trần Bình Trọng bị bắt vẫn hiên ngang thét vào mặt quân thú: “Ta thà làm quỷ
nước Nam chứ không làm Vương đất Bắc”.
Yêu nước có nghĩa là lấy ý muốn của dân làm ý muốn, mong muốn của
mình(Dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm). Đó cũng là tư tưởng của ông Vua,
vị thiền sư, nhà Phật tử Trần Thái Tông. Qua đây, ta thấy chủ nghĩa yêu nước thời Lý Trần
cũng mang đậm sắc thái ảnh hưởng của Phật giáo. Điều này cũng đúng với sự hình thành,
phát triển tư tưởng triết học ở thời kỳ lịch sử này và khác với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
ở những giai đọan sau.
ọThời kỳ Lê sơ: (TK XV)
- Thời Lê Sơ trị vì đất nước ta trong vòng 100 năm (1428-1527), trải qua 10 đời vua, bao gồm:
- Lê Thái Tổ(1428-1433)
- Lê Thái Tông(1434-1442)
- Lê Nhân Tông(1443-1459)
- Lê Thánh Tông(1460-1497)
- Lê Hiến Tông(1497-1504)
- Lê Túc Tông(1504)
- Lê Uy Mục(1505-1509)
- Lê Tương Dực(1510-1516)
- Lê Chiêu Tông(1516-1522)
- Lê Cung Hoàng(1522-1527)
Trứơc khi chấm dứt thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã trải qua những biến động, bi
thương (nhà Trần suy yếu, khủng hoảng chính trị, loạn lạc, đói kém, mất mùa...Cuối thế kỷ
XIV tể tướng Hồ Qúy Ly đã thực hiện nhiều cải cách về hành chính, kinh tế (như phép hạn
điền, hạn nô, cải cách tiền tệ, cho phát hành tiền giấy, tấn công Phật giáo, bắt nhà sư chưa
tới 50 tuổi phải hoàn tục...). Tuy nhiên, những cải cách này không thuận với nhân tâm lúc đó,
và còn nhiều hạn chế. Năm 1400 nhà Hồ thay thế nhà Trần, và xã hội Đại Việt vẫn tiếp tục
khủng hoảng. Năm 1406 giặc Minh xâm chiếm nước ta. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
của nhà Hồ thất bại ngay sau vài tháng, chủ yếu vì không được lòng dâ. Quân Minh xâm
chiếm Đại Việt đã thực hiện chủ trương một mặt biến nước ta thành quận huyện của Trung
Hoa, mặt khác ra sức vơ vét của cải và khủng bố tàn sát người Việt mà Nguyễn Trãi đã nói
trong Bình Ngô là “Gây binh kết oán trải 20 năm, bại nhân nghĩa nát cả càng khôn. Trong hơn
mười năm (1407 – 1427) cuộc khởi nghĩa chống Minh đã thành công, bắt đầu thời kỳ Lê sơ.
Phật giáo từ cuối thế kỷ XIV ngày càng suy yếu, bên cạnh đó là việc bị giới Nho gia
đã kích nặng nề. Đạo giáo ở thời Lê cũng bị đã kích.Nho giáo trở thành luồng tư tưởng chính
thống và độc tôn.
-Nhận thức về bản thể: (giải thích vũ trụ, vạn vật, hiện tượng cuộc sống) chủ
yếu là vay mượn.
-Tinh thần yêu nước: ý thức cội nguồn, tự hào dân tộc, lãnh thổ, văn hóa -
phong tục.
-Tư tưởng nhân nghĩa: thương dân, đề cao giá trị con người, bảo vệ con người.
Nói chung, thế kỷ XV là thế kỷ của chiến thắng. Chế độ phong kiến tập quyền đạt
đến đỉnh cao với tư tưởng Nho giáo được dùng ở phương diện tích cực của nó. Giành được
độc lập tự do chấm dứt 20 năm Minh thuộc, xây dựng nhà nước quân chủ thống nhất... đã tạo
nên hùng khí thời đại, tác động sâu sắc đến sự hình thành nhận thức về con người và dân tộc
trong mối quan hệ chặt chẽ với niềm tự hào về cộng đồng và với lịch sử. Cùng với việc
củng cố nền độc lập dân tộc, nhà Lê sơ đã phân chia lại các khu vực hành chính, vẽ bản đồ
cả nước và soạn ra luật pháp. Tuy không thể thiếu những khái niệm thiên đạo, thiên
mệnh...nhưng nổi bậc nhất vẫn là nhận thức của con người thực tại với phẩm chất nhân ái,
- nhân nghĩa, trách nhiệm an dân, sức mạnh của dân, từ đó đi đến xây dựng niềm tin vào con
người làm nền tảng cho việc phát triển tư tưởng độc lập dân tộc vẫn là yếu tố hàng đầu
trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV mà tập trung tiêu biểu nhất là tư tưởng Nguyễn Trãi
được thể hiện thông qua các tác phẩm của ông.
Một số vấn đề về tư tưởng Nguyễn Trãi
Tư tưởng Nguyễn Trãi là tư tưởng Nho giáo được Việt Nam hóa, thời đại hóa, lịch sử
hóa một cách sâu sắc và cụ thể.Tư tưởng Nguyễn Trãi thể hiện chủ yếu ở hai mặt: yêu nước
và tư tưởng nhân nghĩa với đầy đủ những nội dung như nó.
Tư tưởng Nho giáo thời Lê sơ ảnh hưởng tới khía cạnh đạo đức, ứng xử, văn học, còn
khía cạnh triết học, triết lý thì rất hạn chế. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã đưa
vấn đề con người, dân tộc nổi trội lên hàng đầu. Những điều đó sẽ dược nêu lên thông qua
những tác phẩm của Nguyễn Trãi (Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô, Ức Trai thi
tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí,...).
Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại. Ông coi thơ là nơi gửi gắm,
truyền đạt con mắt sự đời tinh tế để công phá quân giặc; là miền đất mơ ước mà ở đó tư
tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân thấm nhuần vào hành động, xuyên suốt, chủ đạo
như nguồn năng lượng hội tụ phát sáng kì diệu:
"Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng"
(Quốc âm thi tập)
Trong thơ Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" như một lời nguyền vang
vọng, trường tồn với năm tháng: Yêu nước, thương dân - danh là danh tổ quốc - lợi là lợi tổ
quốc. Sống để cống hiến, suốt đời quên mình vì dân vì nước, vì tư tưởng "nhân nghĩa". Rạo
rực, hùng hồn, sắc bén, đây "Quân trung từ mệnh tập" - vang dội khí phách, tinh hoa, cội
nguồn dân tộc đây, mãi là áng "Thiên cổ hùng văn" ấy là Bình Ngô đại cáo...
"Quân trung từ mệnh tập" tuy chỉ là một tập hợp gồm những thư từ gửi cho tướng
giặc và những giao thiệp với triều đình nhà Minh của Nguyễn Trãi.... nhưng nó lại là tập văn
chiến đấu "có sức mạnh bằng mười vạn quân" (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc
sảo, biến hoá, nhất quán của mưu sư “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý
Đôn). Mỗi bức thư là một khâu, một mắt xích quan trọng trong cả cuộc luận chiến kéo dài
giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý lẽ lúc thâm thuý, ý nhị, lúc biến hoá, sắc sảo
đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước, thương dân đã tạo cho “sức mạnh của ngòi bút
Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông cũng trúng đích” (Nguyễn Huệ Chi). Nếu
văn đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và văn học sáng rọi giữa Nam Quốc Sơn
Hà với chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt hay Hịch tướng sĩ với chiến
thắng chốg quân Nguyên lần thứ II thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự lặp lại một
lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng chính trị
- và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa một tác phẩm chính luận nào đạt tới, là
áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại - một “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng
hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội ác của kẻ thù, là
khúc tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền với
chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc
từ đây vững bền” ; lòng tự hào dân tộc sâu sắc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
(Bình Ngô đại cáo)
Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt
huyết, lúc âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúc nghẹn ngào, tấm tức … Nguyễn Trãi luôn
ước vọng nhà nước phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh
quê hương đất nước tươi đẹp hiện ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn:
“Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Giọng văn
chính luận của Nguyễn Trãi đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối
tượng, mục đích để có biện pháp khéo léo tạo nên kết cấu sức bén, nhất quán. Với tài năng,
đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi đã làm và cống hiến cho dân tộc, ông xứng đáng là
một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Phạm Văn Đồng
đã nhận xét: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thươn dân, để cứu nước phải dựa vào dân và
cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân.”
Quan niệm về quốc gia, dân tộc ở Nguyễn Trãi đã tiến lên một bước quan trọng khi
ông xác định “Quốc” bằng lãnh thổ, văn hòa, phong hóa và lịch sử.(Tư tưởng yêu nước qua “
Cáo Bình Ngô”).
Về lãnh thổ, ông cho rằng ngay từ xưa Giao Chỉ đã không phải là lãnh thổ của Trung
Quốc, ở ngoài cương giới Trung Quốc. Ông chỉ rõ: “Nước An Nam xưa bị Trung Quốc xâm
chiếm là từ Tần, Hán trở đi. Phương chi trời đã phân cách Nam Bắc có núi cao sông lớn, bờ
cõi rành rành”.
Về văn hiến, theo ông, tuy An Nam ở ngoài Ngũ Lĩnh mà có tiếng là nước thi thư,
những bậc trí mưu tài giỏi đời nào cũng có.
Về phong, tập quán là hoàn toàn khác Trung Quốc từ hàm răng mái tóc, cách thức ăn
mặc cho đến cưới sinh, ma chay, giổ tết, đình đám, hội hè, cách làm ăn sinh sống. Ông nói:
“Người nước Việt không được bắt chước ngôn ngữ và y phục các nước Ngô, Chiêm, Lào,
Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước” (Dư địa chí).
Lịch sử dân tộc ta rất oai hùng qua nhiều triều đại với những hoàng đế riêng và nhiều
anh hùng hào kiệt. Nước ta là một quốc gia độc lập. Ai xâm phạm tới, trước sau sẽ chuốc lấy
sự thất bại.
- “Xét nước Đại Việt ta
Là một nước văn hiến
Bờ cõi sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi đàng làm đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”.
Đây là quan niệm rõ ràng và tương đối hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc, về chủ quyền
ngang hàng với phương Bắc của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Đây cũng là bản tuyên ngôn độc
lập hào hùng của dân tộc ta ở thế kỷ XV.
Đặc điểm của tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm của Nguyễn Trãi:
Tư tưởng nhân nghĩa của ông luôn thiết tha, thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu,
bất an:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba.”
(Bảo kính cảnh giới – 1)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”
(Thuật hứng – 5)
Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác,
nhưng khi lộ thiên nó lại càng lấp lánh hơn bởỉ tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân
sáng ngời.
Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng “Bình Ngô đại cáo” hay “Quân trug
từ mệnh tập”…. chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau
thời thế, biết yêu, biết sống đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lý tưởng cao cả nhưng
Nguyễn Trãi xót xa và nghẹn ngào đau xót trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông
thương khóc cho “dân đen” đang rên xiết dưới gót giày quân giặc. Tình yêu thương đồng loại
cao cả, vĩ đại lắm thay là một phần xương máu, tâm can của con người anh hùng ấy!
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng
nên nỗi đau xót, buồn rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển
nhiên:
“ …. Càng một ngày càng ngặt đến xương
- …. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
…. Bui một lòng người cực hiểm thay”.
Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi,
khát khao tự do, thà chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:
“Một tấm long son ngời lửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng
Ung dung cứ nói điều ta thích
Uốn gối theo đời không thể vâng”.
Nhân nghĩa ở ông là một đường lối, chính sách cứu nước và dựng nước, trong kháng
chiến chống giặc cũng như trong bảo vệ hoà bình.”Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa
giả lấy ít địch nhiều”,”Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân làm thay đổi cường bạo”,
cao hơn nữa, nhân nghĩa còn là cơ sở của đường lối, chuẩn mực cách ứng xử, giải quyết mọi
việc, nó là phương pháp luận cho mọi suy nghĩ, hành động.” Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa
làm gốc, trí dũng làm của”:”Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to
phải lấy nhân nghĩa làm đầu”
Nhân nghĩa còn được thể hiện ở việc tha cho hàng binh để tuyệt mối chiến tranh sau
này, để tiếng thơm muôn thuở.Tư tưởng nhân nghĩa còn thể hiện ở viêc lên án chiến tranh,
yêu hoà bình:” Đồ binh khí là thứ hung bạo, đánh nhau là việc guy hiểm, thánh nhân bất đắc
dĩ mới dùng đến”.
Tư tưởng nhân nghĩa ở ông còn thể hiện ở tư tưởng lấy dân làm gốc: “chở thuyền và
lật thuyền cũng là dân”, “Dân như là nước”, “Theo ý mình mà ức lòng người, tất đến trăm
năm oán giận”. Từ đó “Dân tâm” (lòng dân) dã trở thành chủ nghĩa nhân đạo của ông. Như
vậy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã đạt đến tư tưởng nhân đạo cao cả. Chủ nghĩa
nhân đạo này dựa trên một sổ tư tưởng có tính chất duy vật ở ông, chẳn hạn “Đío rét thiết
thân thì không đoái gì đến lễ nghĩa”(Tấu cầu phong), “Một buổi không có ăn, cha con hết tình
nghĩa”(Lại thư cho Vương Thông), khiến cho nó mang tính hiện thực, tích cực, toàn
diện.Chính vì vậy, ông chủ trương dẹp xong quân giặc, chia nữa số quân về làm ruộng.
Đạo làm người ở ông là phải vươn tới mẫu người quân tử, hào kiệt, đại trượng phu ,
phải có ba đức tính: nhân, trí, dũng. Đạo làm người của ông được phát triển từ đạo làm người
của Nho, nhưng lại khác Nho ở chổ trung không phải là trung với một triều đại, một ông vua
mà là trung với nước, nhân không phải là lòng thương người chung chung, mà là hướng vào
người nghèo khổ, là yêu dân, cứu dân. Như vậy, ông đã phát triển đạo làm người của Nho
giáo trong điều kiện giữ nước và dựng nước lúc bấy giờ.
Tư tưởng thiên mệnh ( nho giáo)
- Ông đã tìm thấy mối quan hệ nhân quả giửa các sự vật hiên tượng, đặc biệt khi phân
tích nguyên nhân của chúng . “ Phúc hay hoạ đểu có manh mối từ lâu, không phải gây nên bởi
1 ngày”. Ông nói: “ xem việc làm như thế nào, xét duyên do vì sao lại như thế, sự vui vẻ do
đâu mà có. Thế thì nhân tình thực dối thế nào, mảnh mai cũng ko thể che dấu được” (lại thư
cho vương , thông, sơn thọ)
Nguyễn Trãi kết hợp mệnh trời với tư tưởng nhân quả
Ông đã nhìn thấy và giái quyết tốt mối liên hệ chằng chịt giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa
việc gần và việc xa, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, khi ông nói: “ không thấy việc
nhỏ mà hại việc lớn, ko lấy nhìn gần mà lãng nhìn xa” ( lam sơn thực lục). Sự vật, hiên
tượng con người luôn biến đổi( mệnh ko thường, việc đời phức tạp(trời khó khăn) nên phải
nghĩ chỗ khó mà mưu việc dễ. Công khó thành mà việc dễ hỏng nên phải cẩn thận lúc đầu
mà tỉnh về sau” phải coi chừng mối hoạ loạn có khi do yên ổn mà nên. phải đón ngăn ý kiêu
sa có khi do sung sướng mà đến.” Nếu cần phải “ nghĩ giữ nước từ khi chưa nguy”, “ phải
cẩn thận lúc trước để tính lúc sau, phải làm nên việc lớn từ việc nhỏ.
Nguyễn Trãi đã giải thích khái niệm mệnh trời trên tinh thần biện chứng
Giửa chủ quan ( lòng người, ý người, ý dân, sức người, sức dân), khách quan ( lẽ trời,
vận trời, sức trời, lòng trời, bằng xu thế lịch sử khách quan, xu thế thời đại,) có mối liên hệ
biện chứng. “ Trên hợp lòng trời dưới hợp lòng ngừơi” trong hai cái đó mặc dù dưới dạng
thần bí nhưng ông đã thấy ra. Cái thứ hai là cơ sở để quỵ định cái thứ nhất. “Phải thuận được
lòng trời mới hợp được lòng ngừơi”. Khi đã hiểu ra cái thứ hai thì phải lượng sức mình hiểu
đúng thực lực của mình, tự do nâng cao tính năng động để đạt đến mục đích. Chẳng hạn như
lê lợi dựng cơ nghiệp” biết nguoi biết mình, hay yếu hay mạnh”, đã do trơì mà biet thôi, lại
có trí để công thành ( phú núi chí linh). Chính cái này đã chống lại chủ nghĩa duy tâm về mệnh
trời thần bí trong nho giáo.
Quan niệm của nguyễn trãi về thời cơ, thời thế
Chính vì phân tích mối liên hệ chủ quan va khách quan đúng đắn mà ông tìm ra phát
hiện thời cơ là lúc hoàn cảnh khách quan thuận lợi để hoạt động chủ quan con ngươì dạt
được đến kết quả không ngờ. Ông kêu gọi :”thời sao, thời sao! Thực không nên lở. Từ hiểu
thời, thời mới thông biến. Đó là điều đáng quý ở người quân tử. Mặt khác, phải tạo dựng lực
lượng chủ quan để đón thời, tức tạo “thế”, vì có thời mà không có thế thì thời cơ bị bõ lỡ
mất. “Được thời có thế thì mất biến thành còn , nhỏ hoá ra lớn; mất thời không thế thì mạnh
hoá ra yếu, yếu lại thành nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay. Cho nên “Điều
đáng quý ở người tuấn kiệt là biết thời thế hiểu sự biến mà thôi”. Từ sự phân tích thời thế,
chủ quan khách quan ông đã đưa ra phương pháp lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, và đã
thành công. Điều đó chứng tỏ tư duy lý luận của ông ở thời đó là hoàn toàn đúng đắn và nó
vẫn còn có ý nghỉa lý luận về sau.
- Tuy nhiên, cũng như nhiều nhà Nho chân chính, ông cũng gặp nhiều hoạn nạn khi ra
làm quan. Và khi đó, Phật và Lão chính là nẻo về của ông hài hòa với niềm ưu thời mẫn thế
của Nho gia trong thơ Nôm của ông. Côn Sơn ca đậm đà màu sắc tiêu dao, và Hoa dâm bụt
cho thấy Nguyễn Trãi cũng hiểu biết rất sâu sắc về đạo Phật khi tả một đóa hoa không trực
tiếp , à tả qua bóng hoa soi xuống nước (Ánh nước hoa in một đóa hồng, vẫn nhơ không bén
bụt là lòng, chiều mai nở, chiều hôm rụng, sự lạ cho hay tuyệt sắc không).
ắThời kỳ đầu thế kỷ XX: (Từ 1900 đến những năm đầu của thế kỷ XX)
Bước vào nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều nước Châu Á như Trung
Hoa,Nhật Bản,Việt Nam…Đứng trước hoạ thực dân từ đó trổi dậy ý thức về dân tộc mình,
đã lần lượt đi vào một cuộc vận động làm biến chuyển mạnh bộ mặt phẳng lặng của châu Á
từ mấy ngàn năm mà tiên phong là Nhật Bản. Nhưng cũng chính ngay từ thời điểm đó, các
vua Việt Nam triều Nguyễn còn bị trói buộc cùng với cả một triều đình lạc hậu, bảo thủ với
chính sách “ toàn quốc đóng cửa” hậu qủa là dẫn đến sự suy sụp, lạc hậu và cụ thể nhất là
hoạ nô lệ thực dân, với 3 thể ch( bảo hộ ở miền Bắc, khâm sai cố vấn ở miền Trung va
thuộc địa ở miền Nam). Các nhà tri thức ở cả 3 miền đã nhiệt tình đi vào cuộc canh tân cứu
nước. Điều ấy thể hiện rỏ nét trong mảng thơ văn có nội dung yêu nước, duy tân bằng chử
quốc ngữ xuất hiện ở Nam Bộ và sau đó la cả nước từ những năm tháng sớm nhất của đầu
thế kỷ XX, thong qua các phương tiện quan trọng là báo chí và sau đó là in ấn thành tập sách.
Bắt đầu từ những năm tháng đầu tiên của thế kỉ XX và kéo dài cho đến 1945, văn
chương yêu nước, duy tân ở Việt Nam chịu( trực tiếp và gián tiếp) của tư tưởng Ánh sáng
Pháp (xuất vào đầu thế kỉ XVIII ở Pháp: Đả phá chế độ phong kiến độc quyền xây dựng nền
cộng hòa tư sản; Đả phá triết học kinh viện,chống lại sự thống trị của xã hội, cổ vũ tinh
thần tự do tư tưởng; Cổ vũ sự phát triển tri thức khoa học, tri thức hiện đại, đề cao con
người, cá nhân), đã dành rất nhiều dung lượng và thời lương hoạt động văn chương cho sự
hình thành một nền văn chương bao gồm thơ ca, văn chương chính luận và bút kí khi xã hội
cần nhiều hình thức đâu tranh để tồn tại, phát triển và khẳng dịnh mình.
Tính tư tưởng của thơ văn quốc ngữ duy tân, yêu nước thời kỳ này không đặt trên nền
tảng của ý thức hệ phong kiến, mà nó là sự kết hợp giũa những yếu tố tích cực của tư tưởng
Ánh sáng phương tây kết hợp với truyền thống yêu nước, nhân đạo của Việt Nam, tạo nên
một thứ tình cảm công văn mang màu sắc dân tộc và hiện đại thể hiện qua mảng văn chương
này. Nó là một hiện hữu, một thành tựu đáng kể cuả văn chương yêu nước chống thưc dân
trong một giai đoạn lịch sử đặt biệt trứoc khi Đảng Cộng sản ra đời và thưc sự lảnh đạo
thắng lợi cuộc cách mạng giành độc lập tự do của toàn dân tộc. Thời kỳ đầu là giai đoạn mà
văn chương yêu nước được dấy lên trong toàn xã hội bằng phương thức báo chí với sự khơi
mào của Đông kinh nghĩa thục ở miền Bắc,Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn và Đông Pháp
thời báo, là thời kỳ tương đối còn in đậm dấu ấn gián tiếp của tưởng khai sáng phương tây
ảnh hưởng qua các tân thư Trung Hoa và Nhật Bản.Giai đoạn sau là thời kỳ của văn chương
bút chiến trên báo chí cùng với các tác phẩm dài hơi của tác giả như Trần Hữu Độ, Nguyễn
An Ninh, Phan Ngọc Hiển. Đây là giai đoạn của tư tưởng khai sáng không còn là độc quyền,
mà cồn nhiều luồng tư tưởng khác được những trí thức yêu nước du nhập vào cũng với mục
- đích đổi mới để cứu nước. là một nét hiện đại của tư tưởng yêu nước Việt Nam so với
những thời kì trước đó.
Những nội dung chính của tư tưởng yêu nước VN đầu TK XX thời kỳ Duy Tân-
Đông Du:( mang tính mở rộng và hiện đại)
Kêu gọi đổi mới kinh tế làm tiền đề cho đổi mới hoàn cảnh dân tộc là nội dung chính
của những bài viết thuộc chủ đề “thương luận”, mà ngay từ đầu thế kỷ còn được gọi một
cách cụ thể là “thương cổ luận”.Theo cách gọi hiện nay, đó là ý thức “chuyển dịch cơ cấu
kinh tế”,từ thuần nông thụ động sang cơ cấu thương mại dich vụ, là một nhu cầu bức thiết
của giai đoạn phát triển thành thị ở miền Nam đầu thế kỷ XX.
Hàng năm bài thương luận liên tiếp xuất hiện trong 52 số đầu của Lục Tỉnh Tân Văn
đã có cùng nội dung hoặc nêu các ý nghĩa,nguyên nhân của tình trạng kinh tế yếu kém của
phương thức làm ăn cũ (không có chữ tín,làm ăn nhỏ lẻ cá thể,không huy động dược sức của
sức người,thói quen thủ phận…như các bài “Vật còn biết lỗi”của Hồ Lương Cang,”Cấp báo
lợi quyền”của Nguyễn Tử Thức);tranh luận,hô hào,hoặc vạch ra phương án và kêu gọi hợp
tác (“Hiệp bổn tranh lợi”của Tước Nguyên Hạ Sĩ,”Thương xảo kế”của Tước Nguyên Hạ
Sĩ).Đặc biệt , đây là thời gian các nhà Minh Tân ở miền Nam luôn luôn muốn biến các ý
tưởng trong các bài thương luận thành hiện thực.
Ở thập kỷ 30 đến 1945, nếu còn, thì chỉ có những bài viết ngắn vạch rõ tội ác của
mại bản, thực dân trong việc chèn ép kinh tế người Việt Nam..Chẳng hạn như Xung quanh
vấn đề độc quyền của Nguyễn An Ninh đăng trên báo Tiếng Chuông Rè, Mến dân thương
nước đồng bào không nên do dự nữa mau tán thành công ty xe điển An Nam, Vấn đề độc
quyền nước mắm của Phan Ngọc Hiển đăng trên báo Tân Tiến ở Sa Đéc trong các năm 1936-
1937. Văn chương chính luận chỉ còn tồn tại trong cuộc đấu tranh trên 2 bình diện văn hoá, xã
hội và chính trị.
Kêu gọi đổi mới về xã hội, nâng cao trình độ dân trí cũng là một nội dung quan trọng
của văn chương yêu nước thời kỳ này. Trước hết các bài văn hoá xã hội luận thời kỳ này đã
thể hiện nhận thức về thực trạng văn hoá, xã hội bảo thủ lạc hậu, và đó cũng là một sức ì
làm trì trệ con đường tiến hoá.
Về nguyên nhân nội tại, ngay từ những năm tháng đầu tiên của phong trào Minh Tân,
đã có nhiều bài viết nói về những tiêu cực trong những tính cách, lê lối phong tục tập quán
nhưng hạn chế trong các quan hệ gia đình va ngoài xã hội của người Việt Nam. Làm nên mọi
sự trì trệ tự thân trước khi nhưng tác hại từ bên ngoài đem đến. Tính nội quang.
Những nội dung này còn xuất hiện trở lại nhiều lần trong Đông Pháp thời báo của
thập niên 20 với các bài viết của Nam Kiều như Tây giả, Phong trao đi tây của người mình,
Tánh khiếp nhựơc, Người mình có biết cách dùng tiền đồng không ?... Trong mấy thập niên
đầu thế kỷ, văn chương chính luận but chiến trên báo chí ơ Nam kỳ đã thể hiện nội tâm bức
xúc của nhiều tác giả ve tình trạng nhân tâm siêu lạc, đạo lý gia đình rạng nứt, phong hoa tốt
nguon tai.lieu . vn