Xem mẫu
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực
hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó
có qui luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình
phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối
mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó
là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu kém.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên của
ASEAN, APEC, sắp trở thành thành viên của WTO, rồi mở cửa hội nhập AFTA
vào năm 2006) thì nước ta cần có một nền kinh tế với sức cạnh tranh đảm bảo cho
quá trình phát triển kinh tế để đạt được mục đích trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020. Muốn như vậy chúng ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế với các đối tượng cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt cần phải nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát huy
các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn.
Với mục tiêu như vậy thật không dễ dàng cho Việt Nam, khi mà nền kinh tế
hiện nay không có gì làm đảm bảo, các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, còn trì
trệ, tình trạng thang nhũng và thất thoát vốn nhà nước tăng cao. Các doanh nghiệp
nhà nước không phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế khi mà
nhận được nhiều hỗ trợ từ phía nhà nước, ngành nghề kinh doanh, chế độ tín
dụng,… Trong tay nắm hầu hết các nguồn lực quan trọng như: 100% mỏ dầu, 80%
rừng, 90% lao động được coi trọng, có phần xem nhẹ ưu điểm của các doanh nghiệp
tư nhân. Vừa qua, ngày 13/10/2004, chúng ta đã thành lập được hiệp hội các doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam, điều đó cho thấy có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò
của tư nhân, doanh nghiệp tư nhân đang dần nhận được sự quan tâm từ phía nhà
nước và đóng vai trò quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó là
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế nhưng nó không
phải là vấn đề quan trọng. Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh
1
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới
nền kinh tế chúng ta cũng đã áp dụng qui luật này và một số thành tựu đã đến với
chúng ta: Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển
ổn định… những lợi ích ấy chưa phải là lớn lao nhưng cũng đã giúp chúng ta định
hướng cho chính sách phát triển kinh tế.
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty, hoặc một tổ
chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định.
Nguyên nhân dẫn tới độc quyền thường do cạnh tranh không lành mạnh đem lại.
Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền có hiệu
quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng hiện nay của nước ta.
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay như thế nào? Và
nước ta cần làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền? Chúng ta sẽ tìm
hiểu cụ thể ở dưới đây.
2
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
PHẦN 2
CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao gồm
các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường các
nhà sản xuất, người tiêu dùng, những người hoạt động buôn bán kinh doanh, quan
hệ với nhau thông qua hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá. Như vậy thực chất thị
trường là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu thông
hàng hoá và mối quan hệ về kinh tế giữa người với người.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá. Kinh tế h là
một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi và
buôn bán trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là hình thứuc phát triển cao của nền
kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều
được qui định bởi thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn muốn có được
những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như: thuê được lao động rẻ mà có
kĩ thuật, mua được nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị trường các yếu tố đầu ra tốt.
Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dể chiếm lấy, nắm giữ lấy
những điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi nó được đánh dấu bởi
một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy vậy cạnh tranh không bao giờ mất đi
trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp. Muốn
tồn tại được buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí sản
xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật… Điều này sẽ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, đồng thời cũng làm cho xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển,
khoa học - kĩ thuật phát triển do đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của doanh
nghiệp, cải tiến khoa học - kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi
sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao
3
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng
của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho
người tiêu dùng.
Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho
xã hội. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực
hiện các bước nhảu thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc
thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên, tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh
với nhau để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá,
nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là
môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai
trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội
bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh
tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản
phẩm. Do đó kết quả của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của
từng loại mặt hàng. Đó là giá trị của hàng hoá được tính dựa vào điều kiện sản xuất
trung bình của toàn xã hội. Nếu như doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất dưới
mức trung bình sẽ bị thiệt hại hay bị lỗ vốn. Còn những doanh nghiệp có điều kiện
sản xuất trên mức trung bình của xã hội sẽ thu được lợi nhuận thông qua sự chênh
lệch về điều kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành với
nhau. Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác nhau.
Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các doanh nghiệp tự do
di chuyển TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh này dẫn đến hình
4
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản
xuất.
Việc hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình
quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Với giá trị thị trường của hàng
hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó sẽ có
những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi nhuận
bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho dù đầu tư vào
những ngành khác nhau với lượng TB như nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả
nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng hoá cạnh tranh
nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm trong quá trình cạnh
tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động cao hơn
thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn nguyên vật
liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho
các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn
lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội đem lại không cao, chi phí cho sản xuất tăng
cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích
thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu
tư vào sản xuất trên thị trường, khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì
làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các doanh
nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản
xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những
doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh
nghiệp đó mới thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải
giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng
dụng đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.
Ngược lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị
trường điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng
hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích
các doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học -
5
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
công nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng hoá tung
ra thị trường. Điều này làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng
cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là động lực này hoàn
toàn tự nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ
quan quản lý nhà nước.
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những người lao
động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều đó khiến
cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình.
Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh tranh đóng
góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới thông
minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng và
người thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị
phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực.
Bởi vì có như vậy thì các nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những
nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng
phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao buộc
chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản
này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong kinh
doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết định đến việc
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình. Nhưng cạnh tranh trên thị trường
đã không cho phép họ làm như vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn muốn xoá bỏ
cạnh tranh và độc quyền đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ. Độc quyền trong kinh
doanh là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những điều kiện kinh tế chính trị,
xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch
vụ. Độc quyền thường dẫn đến xu hướng cửa quyền, bạo lực và trong một số trường
hợp nó cản trở sự phát triển của khoa học kĩ thuật, làm chậm thâm chí lãng phí các
nguồn lực xã hội. Bởi lẽ với thế độc quyền các doanh nghiệp sản xuất không cần
6
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
quan tâm đến việc cải tiến máy móc kĩ thuật, không cần tìm cách nâng cao năng
suất lao động mà vẫn thu được lợi nhuận cao nhờ vào độc quyền mua và độc quyền
bán. Độc quyền là sự thống trị tuyệt đối trong lưu thông và sản xuất nên dễ nảy sinh
giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn cao,... Do vậy, sự phục vụ của người tiêu dùng
nói riêng và cho xã hội nói chung là kém hiệu quả hơn so với cạnh tranh tự do.
Trong nhiều trường hợp độc quyền áp đặt sự tiêu dùng làm cho xã hội. Chính do
cung cách ấy mà độc quyền thường làm cho xã hội luôn luôn ở tình trạng khan hiếm
hàng hoá, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng
kinh tế.
Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trường. Để có sự cạnh
tranh hoàn hảo, nhiều quốc gia đã coi chống độc quyền và tạo nên cạnh tranh hoàn
hảo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước. Để tạo nên cạnh tranh lành
mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có những điều kiện nhất
định.
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh doanh
Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế pháp lý
không chỉ do nhà nước ban hành mà nó còn được ban hành bởi các tổ chức quốc tế
hoặc do một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu tố pháp lý thể chế
nhân tố quan trọng trong hình thành nên môi trường kinh doanh - là đất sống của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Mõi yếu tố pháp lí - thể chế đều tác động vào một
lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó được dùng để điều
chỉnh các hành vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các chủ thể kinh tế
muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa
vào các thể chế - pháp lí đã được ban hành đối với lĩnh vực nào đó để tham gia hoạt
động kinh tế. Như vậy sẽ hình thành nên một môi trường kinh doanh ổn định khoa
học. Mặc dù chỉ có định hướng trong một lĩnh vực nhất định, song trong một nền
kinh tế thống nhất để tạo nên sự hoạt động đồng bộ cho guồng máy kinh tế thì các
yếu tố thể chế - pháp lí này đều phải đảm bảo các điều kiện sau:
Thứ nhất: Đảm bảo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh vực
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy mọi lĩnh vực
7
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
của hoạt động sản xuất kinh doanh đều được điều chỉnh bởi các thể chế - pháp lí,
đièu này sẽ tạo nên tính hài hoà trong nền kinh tế. Nếu như không đảm bảo được sự
đồng bộ thì trong nền kinh tế sẽ có những lĩnh vực không bị tác động của các thể
chế pháp lí, việc hoạt động trong các lĩnh vực này sẽ dễ dàng, tự do hơn so với các
linh vực có các yếu tố pháp lí - thể chế tác động, bởi vì nó không chịu ảnh hưởng,
không chịu bất kì tác động nào từ Nhà nước. Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ từ đó
sản xuất tiêu thụ sản phẩm theo ý muốn của mình. Điều này sẽ tạo nên sự lộn xộn
trong nền kinh tế bởi vì mục đích sản xuất của mỗi người là khác nhau, do đó sẽ dẫn
đến mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất với nhau, tạo điều kiện cho độc quyền hình
thành để tránh sự cạnh tranh.
Thứ hai: Các thể chế - pháp lí do Nhà nước ban hành phải phù hợp với tình
hình thực tế. Để có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngoài ra các qui định này phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh việc hiểu theo nhiều
nghĩa hướng khác nhau, điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả trầm trọng. Việc ban
hành các thể chế - pháp lí này sát với thực tế, không rõ ràng thì không những thực
hiện được mục đích mà còn gây thêm ra những hoạt động sai lệch, làm đảo lộn trật
tự.
Thứ 3: Hiệu lực pháp luật của các qui định pháp lí - thể chế phải thống nhất
trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế, không được có sự phân biệt đối xử khi
thực hiện các qui định. Việc này sẽ tạo nên tính công bằng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, nâng cao hiệu lực của các qui định.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng như nhà nước khi ra các qui định pháp
lí - thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này đảm bảo tính
sát thực của các qui định. Nhà nước dựa vào các qui định để điều hành quản lý nền
kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản lý, chỉ đạo giám
sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc các qui
định pháp lí - thể chế được thực hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản
lý kinh tế của nhà nước đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có đủ trình độ chuyên
môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường với môi trường
cạnh tranh gay gắt. Việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều
8
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
dễ dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản
lý kinh tế non kém thì nhà nước sẽ không thể quản lí được nền kinh tế, các bản qui
định không thể đưa vào áp dụng trong thực tế, hoặc nếu có đưa vào áp dụng được
thì khó lòng mà giám sát, chỉ đạo việc thực hiện. Điều này sẽ gây ra việc làm thất
thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ
bản việc đầu tư dàn trải không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu tư. Trong các dự
án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng, ăn
dơ với nhau giữa các chủ đầu tư và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ
máy quản lý còn non kém. Chưa đưa ra được những qui định pháp lí - thể chế để
điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc
đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao.
Điều này cũng tương tự đối với thị trường bất động sản.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới nên
việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để tạo nên
cạnh tranh và chống độc quyền.
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các chủ
thể kinh doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tượng tác động của các văn bản pháp lí - thể chế.
Nhà nước ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định
của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định được thực hiện tốt thì ngoài vai trò
quản lí tốt của Nhà nước còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và nhân
dân. Ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ thể khi tham gia hoạt động
kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong kinh doanh.
Năng lực của các cơ quan quản lí là có hạn cho nên trong quá trình quản lý không
thể khong mắc những sai lầm, thiếu sót. Khi đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền lợi dụng sai sót của cơ quan quản lý
để hoạt động. Trong những tình huống như vậy để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và
chống độc quyền rất cần có tinh thần, ý thức của các chủ thể kinh doanh cũng như
của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tốt của các chủ thể kinh doanh góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý.
9
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
II. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM
1. Sự chuyển biến về nhân thức đối với cạnh tranh
Sau chiến tranh đất nước thống nhất, cả nước hăng hái bắt tay vào công cuộc
xây dựng, kiến tạo đất nước đưa đất nước tiến thẳng lên CNXH. Trong khi đó trong
tay chỉ có mô hình kinh tế sau chiến tranh để lại - nền kinh tế tập trung bao cấp của
cải xã hội bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Việc áp dụng mô hình kinh tế này
trong chiến tranh đã đem lại hiệu quả cao, và được coi như mô hình ưu việt. Nhưng
trong thời bình, nó đã không còn phù hợp và Việt Nam đã phải trả giá cho việc áp
dụng nền kinh tế này đó là: nền kinh tế suy thoái trầm trọng chi vượt thu, lạm phát
cao, đồng tiền mất giá, phương tiện kĩ thuật ngày càng lạc hậu, chậm được đổi mới,
năng lực sản xuất trong nước kém. Trong nền kinh tế cũ - nền kinh tế tập trung bao
cấp thì mọi hoạt động kinh tế của xã hội đều do Nhà nước đảm nhiệm, nhà nước
bao tiêu hết quá trình sản xuất của các doanh nghiệp kể cả việc tiêu thụ sản phẩm do
đó mà nó gây ra sức ì đối với các doanh nghiệp được nhà nước bao cấp. Các doanh
nghiệp cứ ung dung thực hiện theo kế hoạch của nhà nước để sản xuất, không cần
quan tâm đến việc phải cạnh tranh với ai. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
dường như chỉ biết đến khái niệm cạnh tranh trên lí thuyết chứ chưa được thấy thực
tế cạnh tranh là như thế nào. Điều đó gây ra lãng phí nguồn lực xã hội, cạnh tranh
không được coi trọng.
Yêu cầu phát triển xây dựng đất nước buộc chúng ta phải chuyển đổi nền
kinh tế và nền kinh tế thị trường đã được áp dụng nhưng nó chịu sự quản lý của Nhà
nước. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường với
qui luật cạnh tranh đã không còn chỗ cho sự ỉ lại, trông chờ vào trợ cấp, nó buộc các
chủ thể kinh tế phải luôn luôn hoạt động để tìm lấy vị trí tồn tại trong nền kinh tế.
Do tính chất khắc nghiệt của cạnh tranh nên việc yêu cầu nhận thức về cạnh tranh
một cách đúng đắn là điều cần thiết. Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh theo
pháp luật đã dần dần được chấp nhận ở nước ta như một động lực đảm bảo hiệu
quả, tiến bộ xã hội, nhưng chịu sự điều tiết của nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành một số văn bản pháp lí điều chỉnh hành vi có liên quan đến cạnh tranh trên
thị trường như:
10
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và sửa đổi vào các năm
1990, 2000.
Cạnh tranh trên thị trường có 4 cấp độ: cạnh tranh về hình thức sản phẩm,
cạnh tranh về loại sản phẩm, những loại sản phẩm có thể thay thế và cạnh tranh về
ngân sách.
Cạnh tranh về hình thức sản phẩm là cấp độ thấp nhất của cạnh tranh. Hình
thức này chủ yếu tập trung vào sản phẩm hiện tại của các doanh nghiệp mà không
tập trung vào cái có thể xảy ra trong tương lai. Các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau về nhãn hiệu nằm trong cùng một chủng loại sản phẩm và sẽ thoả mãn nhu cầu
của cùng một đoạn thị trường. Loại hình cạnh tranh này dựa trên thị hiếu của khách
hàng. Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất dầu ăn như: Tường An, Bình An,
Neptune… họ đều sản xuất và tiêu thụ dầu ăn trên thị trường Việt Nam do đó để
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này là điều tất nhiên. Họ đều cố gắng đưa ra
những loại sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp đáp ứng được thị hiếu của khách hàng để
chiếm lĩnh thị trường.
Cấp độ thứ 2 của cạnh tranh là cạnh tranh về loại sản phẩm. Loại hình này
dựa trên những sản phẩm và dịch vụ với những đặc điểm tương tự được xác định
như là đặc tính chứ không phải giá trị cao hay thấp. ví dụ như hãng sản xuất điện
thoại di động liên tục cải tiến mẫu mã cũng như đặc tính, chức năng, công dụng để
có thể đưa ra những sản phẩm có tính năng sử dụng cao, kết hợp nhiều chức năng:
xem ti vi, nghe nhạc, đọc sách… Loại hình cạnh tranh này rộng hơn so với cạnh
tranh về hình thức sản phẩm. Nhưng cạnh tranh về loại sản phẩm hay hình thức sản
phẩm vẫn thuộc quan điểm ngắn hạn.
Cấp độ thứ ba của cạnh tranh là tập trung vào những sản phẩm có thể thay
thế, loại hình này tập trung dài hạn hơn. VD: cửa hàng bán đồ ăn sẵn cạnh tranh với
các cửa hàng bán đồ tươi sống.
Cấp độ cạnh tranh chung hơn theo Kotler là cạnh tranh về ngân sách. Đây là
quan điểm rộng nhất về cạnh tranh vì nó cho rằng tất cả các sản phẩm hay dịch vụ
cạnh tranh với nhau đều nhằm vào túi tiền của người tiêu dùng. Loại cạnh tranh này
bao gồm một lượng lớn các nhà cạnh tranh nên gây khó khăn cho việc thực hiện về
mặt chiến lược của các doanh nghiệp. Khách hàng với một số tiền nhất định họ có
11
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
thể tự do lựa chọn sản phẩm tiêu dùng họ có thể mua sắm những hàng hoá lâu bền
hoặc có thể mua sắm chi tiêu cho kì nghỉ hoặc họ có thể dùng cho việc chăm sóc
sức khoẻ v.v..
Trong kinh doanh tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà các doanh nghiệp
lựa chọn cấp độ cạnh tranh cho phù hợp với tình hình thực tế và chính sách cạnh
tranh của công ty.
- Xoá bỏ cơ chế hai giá và các hình thức bao cấp. Ban hành pháp lệnh hợp
đồng kinh tế năm 1988.
- Ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân; pháp lệnh về chất
lượng hàng hoá năm 1990.
- Năm 1992 ra đời hiến pháp mới cho phép cá nhận được thực hiện quyền sở
hữu tài sản do thu nhập tạo ra.
- Ban hành luật phá sản 1993
- Ban hành bộ luật dân sự 1995
- Năm 1996 qui định chế độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong bộ luật
dân cự.
- Ban hành luật thương mại 1997
- Ban hành thuế giá trị gia tăng và huỷ bỏ việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu
năm 1998.
- Ban hành luật doanh nghiệp năm 1999.
Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, Nhà nước đã
từng bước nới lỏng cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay các mục tiêu phát triển ổn
định và việc làm được đặt lên trên mục tiêu hiệu quả.
Nhà nước tôn trọng các qui luật khách quan của nền kinh tế thị trường, trong
đó có qui luật cạnh tranh và hạn chế bớt tiêu cực của thị trường. Trong kinh tế thị
trường cạnh tranh tự do bao gồm tự do hành nghề theo pháp luật, tự do quyết định
của người kinh doanh và tự do lựa chọn của người tiêu dùng. Cạnh tranh trên thị
trường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Cạnh tranh về thị trường phân phối,
cạnh tranh về khách hàng, cạnh tranh về nhân công, cạnh tranh về nguyên vật liệu,
cạnh tranh về công cụ marketing… Cạnh tranh xảy ra giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành hoặc giữa các ngành với nhau. Mỗi cấp độ khác nhau thì có hình
12
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
thức cạnh tranh khác nhau. Các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh cần phải có
nhận thức đúng về cạnh tranhvà các cấp độ của cạnh tranh để từ đó đề ra các chính
sách cho sự phát triển của mình. Dưới đây là một số cấp độ cạnh tranh của thị
trường.
2. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta
chưa nhất quán, chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế,
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khoát về ủng hộ
cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà nước chưa có
những qui định cụ thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các hành vi
liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Bên cạnh đó tư tưởng chưa coi trọng khu
vực kinh tế tư nhân và việc thành lập hàng loạt các tổng công ty 90, 91 cũng ảnh
hưởng không tốt đến môi trường cạnh tranh. Do những tồn tại đấy mà thực trạng
cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Thể hiện:
a) Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhfa nước
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp
trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà
nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư,
thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ,… Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập
trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nước, than, dầu lửa,
bưu chính viễn thông, giao thông vận tải…, các doanh nghiệp tư nhân không được
coi trọng. Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo một qui chế riêng, không
được ưu đãi từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi về một số doanh
nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, chây ì, trông chờ vào nhà nước gây ra lãng phí
nguồn lực xã hội, trong khi các công ty tư nhân hoạt động năng nổ và hiệu quả hơn.
Ngoài ra do những qui định không hợp lí trong hoạt động của các doanh nghiệp
nước ngoài gây nên sự e ngại về đầu tư vào nước ta của các công ty nước ngoài sự e
ngại về đầu tư vào nước ta của các công ty nước ngoài.
b) Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp
13
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận của
mình mà không vấp phải những khó khăn cản trở nào. Do đó mà gây nên những
hành vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp. Cụ thể:
- Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp khác
bằng cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt động kinh
doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản phẩm hoặc
dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải tham gia vào hiệp hội hoặc cho phá sản.
Các doanh nghiệp thoả thuận với nhau để phân chia địa bàn hoạt động, thị
trường tiêu thụ hàng hoá làm cho sự lưu thông hàng hoá trên thị trường bị gián
đoạn, thị trường trong nước bị chia cắt. Sự câu kết giữa các doanh nghiệp dẫn tới
việc độc quyền chi phối một số mặt hàng trong một thời gian nhất định làm cho giá
cả một số mặt hàng tăng cao. Ví dụ như thuốc tân dược vừa qua ở nước ta giá đắt
gấp 3 lần so với mặt hàng cùng loại ở nước ngoài, làm thiệt hại cho người tiêu
dùng, triệt tiêu động lực cạnh tranh.
- Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường. Hành vi
này xuất phát từ một số tổng công ty đọc quyền hoặc các công ty lớn có khả năng
chi phối thị trường. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử dụng các
biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao túng thị
trường. Với sức mạnh độc quyền các công ty áp đặt giá cả độc quyền, độc quyền
mua thì mua với giá thấp, độc quyền bán thì bán với giá cao để thu lợi nhuận siêu
ngạch, hoặc để loại trừ đối thủ cạnh tranh họ có thể hạ giá bán xuống thấp hơn so
với chi phí sản xuất.
Sự lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp dẫn đến việc áp dụng các điều kiện
trong sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp yếu hơn, chi phối các doanh
nghiệp này. Hơn nữa việc lạm dụng này còn hạn chế khả năng lựa chọn của người
tiêu dùng, khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên tham gia kinh
doanh trong các lĩnh vực khác. Nó có thể dẫn đến việc áp đặt giá cả sản phẩm, loại
sản phẩm…
- Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp
14
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các công ty
thành viên lại với nhau, việc này diễn ra theo quyết định của nhà nước. Các công ty
sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mức độ tích tụ hay tập trung của thị
trường. Các công ty liên doanh sáp nhập hay hợp nhất với nhau đều làm cho thị
trường tập trung hơn, giảm bớt đối thủ cạnh tranh tăng khả năng chi phối độc quyền
thị trường của các tổng công ty hay các liên doanh, làm triệt tiêu cạnh tranh trong
kinh doanh.
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lí hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên việc
xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn. Điều đó tạo
điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phát triển mạnh.
Một số hành vi cạnh tranh khong lành mạnh như:
Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường. Việc
hàng giả, hàng nhái bán trên thị trường sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, làm
giảm uy tín của các công ty làm ăn chân chính có sản phẩm bị làm nhái.
Các hình thức quảng cáo gian dối, thổi phồng ưu điểm của hàng hoá mình
làm giảm ưu điểm của các hàng hoá khác cùng loại, rồi đưa ra những mức giá cao
hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm. Điều này cũng gây thiệt hại cho người
tiêu dùng và những doanh nghiệp sản xuất chân chính.
Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nước để cản trở hoạt động
của các đối thủ trong các ký kết hợp đồng , hối lộ các giao dịch kinh tế, lôi kéo lao
động lành nghề, những chuyên gia giỏi của các doanh nghiệp Nhà nước một cách
không chính đáng còn phổ biến trong nền kinh tế.
c. Độc quyền của một số tổng công ty.
Việc thành lập các tổng công ty 90 - 91 được coi là có ý nghĩa quan trọng đối
với nền kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc bộ ngành, địa phương. Các tổng công
ty này là tập hợp các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất cùng loại sản phẩm lại với
nhau, việc làm này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên
trường quốc tế.
15
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Thực tế, cho thấy rằng việc các tổng công ty 90, 91 ra đời đã gây cản trở cho
môi trường cạnh tranh mà các tổng công ty đó hoạt động. Tạo ra sự cạnh tranh bất
bình đẳng giữa tổng công ty và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác trong
cùng một lĩnh vực.
Thể hiện qua các hoạt động sau:
Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với chính
phủ thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp, lãi suất
ưu đãi để duy trì vị thế độc quyền của mình. Nhiều tổng công ty đã thể chế hoá
những ưu đãi đặc quyền của mình và đưa ra những quy định bất lợi cho các đối thủ
cạnh tranh nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh.
- Với ưu thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra những sản phẩm mà họ sản
xuất tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh doanh với nhau trên thị trường.
Ví dụ: cùng một loại hàng hoá dịch vụ tổng công ty áp đặt nhiều giá khác nhau đối
với từng loại khách hàng.
- Cạnh tranh trong nội bộ tổng công ty bị hạn chế. Được sự bảo hộ của chính
phủ, nhiều tổng công ty hoạt động trì trệ, ỷ lại gây tốn kém, lãng phí cho xã hội.
Như vậy với mục đích chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổng công ty
đã không thực hiện được, mà việc thành lập các tổng công ty này đã ảnh hưởng
không tốt, thậm chí cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Hiện nay cả nước có 17 tổng công ty 91 với 450 thành viên, 71 tổng công ty
90 của bộ với 1057 thành viên và 7 tổng công ty 90 của địa phương với 116 thành
viên, tổng công ty chiếm 27% số doanh nghiệp Nhà nước và 76,5% tổng giá trị tài
sản của doanh nghiệp Nhà nước cả nước.
d. Độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng:
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn
đầu tư lớn mà lợi nhuận đem lại chậm và không đáng kể. Ngoài ra độc quyền tự
nhiên còn tồn tại trong những ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến
chiến lược phát triển kinh tế của đất nước như: Điện, nước, dầu khí, đặc biệt này chỉ
có một hoặc một vài doanh nghiệp Nhà nước được phép hoạt động. Các doanh
nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép kín theo chiều dọc vừa thực hiện các
16
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
khâu đầu vừa thực hiện các khâu cuối. Do hình thức hoạt động như vậy nên hạn chế
cạnh tranh hay dường như không có đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Do vậy các
tổng công ty có thể đưa ra những mức giá chung cao hơn so với mức giá thực tế của
sản phẩm để thu được lợi nhuận siêu ngạch cao. Điều này làm cho người tiêu dùng
mất nhiều chi phí hơn để sử dụng các hàng hoá dịch vụ trong khi chất lượng không
tương xứng.
Thí dụ: giá điện ở Việt Nam là 0,07USD/kwh so với Thái Lan là 0,04 USD,
phí vận hành, cảng đối với 1 vạn tấn ở cảng Sài Gòn là 40.000USD, cảng Bangkok
là 20.000USD, cước viễn thông từ Hà Nội gọi đến Tokyo hết 7,92USD/3phút, từ
Bangkok hết 2,48USD.
Giá hàng hoá cao trong khi chất lượng phục vụ của hàng hoá thì lại còn bị
hạn chế: hệ thống giao thông kém phát triển, đường xá trật hẹp hạn chế khả năng đi
lại của người dân, tai nạn, ùn tắc giao thông xảy ra liên tục trên các con đường đặc
biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng ngập úng
trên các con đường khi có mưa là điều không hiếm. Kho tàng, bến bãi, cảng biển ít,
đường sắt kém phát triển, hệ thống cấp thoát nước thiếu, mất vệ sinh. Ở Việt Nam
chỉ có 25% mạng lưới đường bộ được rải nhựa.
Kết quả của độc quyền tự nhiên là năng suất lao động thấp, giá cả tăng cao
một cách bất hợp lý, buộc toàn bộ nền kinh tế phải chịu mức giá đầu vào cao, làm
tăng chi phí cho các doanh nghiệp kinh doạnh khác trong nền kinh tế quốc dân.
e. Một số yếu tố khác.
Nhà nước ta chưa có những quy định cụ thể và chưa có một cơ quan chuyên
trách nào theo dõi, giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền.
Chưa có những hiệp hội người tiêu dùng đủ mạnh dể hỗ trợ cho việc giám sát cạnh
tranh và độc quyền. Chính thông qua những hiệp hội này mà các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh sớm được quá ra xử lý.
III. CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN.
Từ thực trạng độc quyền ở Việt Nam ta thấy rằng: còn nhiều tồn tại cần tháo
gỡ.
17
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Từ thực trạng cho thấy cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có nhiều tồn tại, nguyên nhân của các
tồn tại đó là do:
- Hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
cạnh trạnh và độc quyền chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành pháp luật của mọi
người và của các doanh nghiệp chưa nghiêm minh, nên những hành vi cạnh tranh
không hợp thức còn tồn tại khá phổ biến.
- Quan điểm về vai trò của cạnh tranh và độc quyền chưa nhất quán nên nội
dung một số quy định pháp lý liên quan đến môi trường cạnh tranh còn mâu thuẫn
với nhau.
- Thủ tục hành chính chưa được cải thiện, đơn giản hoá kịp thời nên còn gây
nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh,
làm tăng chi phí giao dịch, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở trong nước so
với các nước khác.
- Hệ thống thông tin còn yếu kém, chưa kịp thời cân xứng thiếu minh bạch
đã gây ra sự bất bình đẳng trong các cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến
môi trường cạnh tranh.
- Quá trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra còn chậm.
Còn nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả nhưng vẫn bao
cấp, duy trì, bảo hộ…
Trong thời gian tới trước yêu cầu duy trì phát triển kinh tế với nhịp độ cao và
của quá trình hội nhập thì việc cải thiện môi trường cạnh tranh là yêu cầu cấp bách
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, thực
hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện tự do hoá thương mại
và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc
quyền chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất quan
điểm đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh tranh trong
nền kinh tế pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của
Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh
18
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà nước độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy
nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cải cách
doanh nghiệp Nhà nước. Độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được
giảm dần, các rào cản đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần
được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung
của toàn bộ nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời
giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý
Nhà nước, trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức,
phong cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền.
Muốn như vậy thì trước tiên cần phải đưa nội dung về cạnh tranh và độc
quyền vào chương trình giáo dục của các trường đại học thuộc khối kinh tế và kinh
doanh. Để có được đội ngũ cán bộ, các nhà kinh tế sau khi ra trường có một tầm
hiểu biết về cạnh tranh và độc quyền. Đào tạo các khoá ngắn hạn cho các doanh
nghiệp và công chức Nhà nước để nâng cao, trau dồi kiến thức về cạnh tranh và độc
quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền về cạnh tranh và
độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù hợp và việc thực hiện các
chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được vận
hành một cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên
thị trường. Nới lỏng các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trường để khuyến khích
các nhà đầu tư tham gia sản xuất kinh doanh. Như vậy việc hình thành nên khung
pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các khu vực kinh tế khác nhau là
điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh tranh cần phải sửa đổi từ quy trình ban
hành pháp luật:
Xây dựng luật: để đảm bảo tính chất khách quan về lâu dài cần chuyển việc
dự thảo luật từ cơ quan lập pháp sang cho cơ quan hành pháp. Trước mắt, việc soạn
thảo luật cần được tổ chức một cách dân chủ với sự tham gia của cơ quan có liên
quan.
Xây dựng văn bản dưới luật: phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và sự tham
gia rộng rãi của những người chịu ảnh hưởng của quy định.
19
- §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý kinh doanh cần xoá bỏ những
quy định hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị trường, với những cam kết
quốc tế nhằm mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế.
Bổ xung những luật và văn bản dưới luật còn thiếu, chưa hướng dẫn thi hành.
Trong tâm xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền. Sửa đổi
những điều khoản của bộ luật dân sự có liên quan đến quan hệ giữa luật Việt Nam
và luật nước ngoài.
Để thực hiện được những việc như trên thì trong quá trình sửa đổi luật, bổ
sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần có sự
phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương với sự tham gia
của các doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và người tiêu dùng. Việc
tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ đưa ra được các quy
định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc quyền hơn.
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành vi
liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh
vực độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần giám sát
chặt chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải đổi mới chế
độ chứng từ, kế toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát tài
chính của các doanh nghiệp.
Thứ tư: cải thiện môi trường thông tin và pháp luật theo hướng minh bạch và
kịp thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Cụ thể:
- Việc thành lập doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các doanh
nghiệp Nhà nước cần được chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại biểu của
nhân dân. Việc tăng cường kiểm tra giám sát từ các cơ quan này sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tích cực và có hiệu quả hơn, tiết kiệm được các
nguồn lực của Nhà nước .
Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành nghề
mà doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoải không được
đăng ký kinh doanh. Ngoài các mục này các doanh nghiệp được thành lập theo chế
20
nguon tai.lieu . vn