Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 Cảm quan Carnaval trong màn “Đại vũ hội của chúa quỷ Satan” (Tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita – M.Bulgakov) Carnivalesque in “Satan’s great ball” (Master and Margarita – M.Bulgakov) CN. Trần Lê Duy Trường Đại học Sư phạm TP.HCM B.A. Tran Le Duy Ho Chi Minh City University of Pedagogy Tóm tắt Dùng một số khái niệm cơ bản từ lý thuyết carnaval của M. Bakhtin soi chiếu vào một phân cảnh đặc sắc trong tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita, bài viết là một cách giải mã ý đồ nghệ thuật của Bulgakov, chứng minh cảm quan carnaval là phương thức hữu hiệu để nhà nghệ sĩ chuyển tải suy tư triết học của mình. Từ khóa: nghịch dị, carnaval, menippe, Bulgakov Abstract Being applied a number of fundamental concepts from M. Bakhtin’s carnaval theory focusing on a particular scene into “Master and Margarita” novel, the article is a way to decode artistic implications of Bulgakov, which proves that carnaval perception is a helpful method in order for the artist to convey his own philosophy thoughts. Keywords: grotesque, carnaval, menippe, Bulgakov 1. Cảm quan carnaval của Bulgakov cái quan trọng nhất là sự mô tả những đặc Việc hình thành cảm quan carnaval điểm đáng sợ của nhân dân tôi…”(1). Xu trong sáng tác của Bulgakov là một lẽ tất hướng ấy khiến ông chịu sự kiểm duyệt yếu. Ông chịu ảnh hưởng từ Gogol (6 tuổi gay gắt và khắc nghiệt của chính quyền đã đọc Những linh hồn chết). Quan trọng Soviet, dẫn đến việc ông tìm về cảm quan hơn cả là thiên hướng phản biện xã hội carnaval như một phương tiện giúp người trong sáng tác, mà ông tự nhận là “cái sắc nghệ sĩ mở rộng giác độ thế giới quan, để thái đen tối và thần bí”: “Những sắc thái truyền tải thế giới nghệ thuật của mình một đen tối và thân bí mà tôi dùng để mô tả vô cách trung thực và tự do. Bên cạnh đó, với số những điều quái dị trong đời sống của tư cách một nghệ sĩ với sức sáng tạo dồi chúng ta, cái chất độc địa trong ngôn ngữ dào, cảm quan carnaval chính là một sự của tôi, thái độ hoài nghi sâu sắc đối với dấn thân, một cách “chơi” trong thế giới quá trình cách mạng diễn ra trong đất nước nghệ thuật của Bulgakov, cả trong tiểu lạc hậu của tôi và việc đem đối lập nó với thuyết lẫn kịch. sự Tiến Hóa Vĩ Đại mà tôi ngưỡng mộ, và Đối tượng phản ánh của Bulgakov 53
  2. chính là xã hội Moskva những năm 1930, chất thiện-ác song tồn không thay đổi trong được xem là thời đại “carnaval mới”(2). người Moskva, thông qua phép thử là màn Không khí hội hè, vui tươi tràn ngập khắp Hắc ảo thuật của Chúa quỷ Voland (Nghệ Moskva, cuộc sống đổ ra những quảng nhân và Margarita). trường lớn với tranh cổ động, với các biển 2. Các yếu tố carnaval trong màn hiệu rực rỡ màu sắc. “Những năm này, một Đại vũ hội người dân bình thường cũng có tâm lý Màn “Đại vũ hội của chúa quỷ Satan” hăng say, bốc đồng… con người sống với là màn quan trọng nhất của tiểu thuyết sự đồ sộ, kì vĩ, huy hoàng, sự cao cả; con Nghệ nhân và Margarita, nó là sự hội tụ và người sống thường xuyên trong không khí cũng là đỉnh điểm của ba tuyến truyện, nó tưng bừng ngày hội lớn.” (14,495). Xã hội bộc đậm nét nhất tính cách nhân vật, là thời trong thời kì giao thời, những giá trị cũ bị điểm số phận của tất cả các nhân vật trung tiêu diệt nhưng những giá trị mới chưa tâm được phán quyết. Trong phân cảnh hình thành. Nhà phê bình Kasatkin viết: này, nghệ thuật carnaval nổi lên như một “Bản chất của cuộc sống cách mạng là bút pháp chủ đạo, thể hiện hệ thống tư thoắt biến thoắt hóa, rối ren đến mức độ tàn tưởng triết học của Bulgakov. nhẫn. Cứ ngoái nhìn từ phía những hiện 2.1. Thời gian và không gian carnaval tượng của sinh hoạt cách mạng thì chiếc Thời gian trong toàn bộ tác phẩm mũ chụp lệch trên đầu cũng không kịp Nghệ nhân và Margarita là thời gian lễ hội. sức… Và điều trước tiên ta thấy là dường Ở tuyến truyện Kinh thánh, đó là thời gian như một trong những chỗ dựa chủ yếu cần của lễ Vượt qua với sự kiện Yeshua bị bắt thiết của sự sáng tạo nghệ thuật là điển và bị hành quyết. Ở tuyến truyện Moskva, hình và tính điển hình thì nó biến đâu mất.” sự vận động cốt truyện cũng diễn ra từ (14,492). Văn học trong thời kì này loay chiều thứ tư tới lúc mặt trời lặn của thứ bảy hoay tìm đường đi cho mình, thơ ca chiếm thời gian của lễ Phục Sinh, đỉnh điểm của ưu thế, nhưng cũng “chỉ thấy phong trào nó là vào thứ sáu (thời gian xảy ra Vũ hội chưa thấy người”, toàn là niềm vui và của quỷ Satan), thời điểm trong Kinh thánh giọng điệu ngợi ca, nhưng thiếu đi sự kiện. xảy ra cái chết của Jesus và Satan được Bằng nghệ thuật carnaval, Bulgakov xem là có quyền lực mạnh mẽ nhất(3). Như đã lật tẩy bản chất thực sự ẩn dưới sự vui vậy, Voland và đoàn tùy tùng cũng chính là vẻ, hoan hỉ, ngất ngây men say chiến thắng lũ quỷ trong quỷ kịch của lễ hội giả trang, của xã hội đó. Thứ nhất, ông đã chỉ ra rằng, giễu hành khắp Moskva để thông báo về sự quan liên của xã hội Soviet đã thủ tiêu thời gian lễ hội. vai trò cá nhân của con người. Bi kịch con Thời gian lễ hội bảo trợ cho tính tự do, người xã hội lấn át con người riêng tư là dân chủ tuyệt đối của carnaval, thông qua một bi kịch phổ biến, không gian riêng tư, các truyền thống chính thống, đó là tiếng như căn phòng, bị xâm phạm một cách thô cười phục sinh, tiếng cười giáng sinh. bạo (Trái tim chó), và những bí mật riêng “Truyền thống cổ xưa cho phép ngày lễ tư cũng không được tôn trọng (Những quả phục sinh được cười đùa và pha trò thậm trứng định mệnh). Thứ hai, Bulgakov đã chí trong nhà thờ” (3,135), “người ta hát đặt câu hỏi về bản chất của con người sống trong nhà thờ những bài hát có nội dung trong không khí vui tươi hội hè của xã hội cực kì thế tục. Các bài thánh ca được hát Soviet. Sharikov (Trái tim chó) là ẩn dụ theo những môtíp phàm trần, thậm chí “vỉa cho bản chất hỗn tạp, khó phân định của hè” (3,136). Chính trong thời gian lễ hội con người mới trong bối cảnh giao thời. ấy, các màn hắc ảo thuật của Voland và Đồng thời, nhà văn cũng khẳng định, bản đoàn tùy tùng dường như hoàn toàn tự do 54
  3. và không giới hạn, có thể tác động vào cả cuồng loạn nhảy nhót theo điệu Alleluja ở không gian và thời gian. Thiên Chúa không trụ sở MASSOLIT, bóc trần cái ác nấp thể can thiệp, mà chỉ gián tiếp gửi thông dưới những vỏ bọc xã hội hào nhoáng của điệp đến chúa quỷ Voland qua Levi đám văn sĩ Moskva. Matthew. Sự bảo trợ ấy cũng cho phép 2.2. Các hình tượng hội hè dân gian những người dân Moskva tự giải thoát bản trong màn Đại vũ hội thân khỏi nỗi sợ hãi và sự kiểm duyệt từ Bulgakov đã vận dụng những hình bên trong để trở về với trạng thái tự do tượng, những nghi thức truyền thống của nguyên thủy khi tham gia những màn hắc carnaval trong việc xây dựng màn Đại vũ ảo thuật của Voland và đoàn tùy tùng. hội, đó là: tên hề, trò chơi cờ vua, những Sân khấu của buổi Đại vũ hội là trung con ngáo ộp vui vẻ, biểu tượng lửa. tâm của hệ thống không gian đan xen, song Tên hề Beghemot là trung tâm của trùng, gồm không gian huyễn tưởng và màn Đại vũ hội. Tạo hình của Beghemot không gian hiện thực, không gian Kinh đậm chất nghịch dị: con mèo khổng lồ đi thánh và không gian Moskva; các chiều bằng hai chi sau. Thực chất đó chính là kích không gian này được kết nối bởi các kiểu hình tượng nửa người nửa thú đặc biểu tượng mặt trăng, mặt trời, cơn giông, trưng của carnaval, có ý nghĩa sự mở rộng và tuyến nhân vật Chúa quỷ Voland cùng ranh giới cơ thể để hòa nhập với vũ trụ. đoàn tùy tùng. Không gian Đại vũ hội có Tên hề gắn với ngôn ngữ suồng sã của tính chất quảng trường, thể hiện rõ nhất ở quảng trường và các nghi thức giễu nhại, chiều kích khổng lồ với những công trình châm chọc đặc trưng. Bulgakov đã sáng tạo kì vĩ, và sức chứa vô tận của nó. Không cho tên hề một tính cách đậm nét, tinh gian đó lộn trái mọi quy luật thông thường: quái, hay vờ vĩnh, ưa lý sự, hay hờn dỗi và kì ảo và hiện thực (tuyến truyện Kinh thánh rất phá phách, được khai thác chủ yếu qua chân thực, giải huyền thoại, tuyến truyện lời nói và hành động. Bản thân tính cách đó Moskva đầy ma thuật và chi tiết kì ảo), diệt cũng chính là một sự chơi giỡn, giễu cợt, và sinh (lò lửa khạc ra những bộ xương, bởi tên hề tồn tại giữa lằn ranh hai thế giới, hồi sinh thành đám khách vũ hội), dưới và thế giới đời thực và thế giới carnaval. Tên trên (vũ hội rơi từ trên xuống), thiện và ác hề có chức năng mua vui, chức năng can (đám bạo chúa, sát nhân, cướp bóc được ca gián và chức năng phê phán. tụng và khen tặng), ngôn ngữ (lời khen trở Đối với carnaval, “trò chơi vượt ra thành tiếng chửi), thứ bậc xã hội khỏi giới hạn của đường ray cuộc sống (Margarita lên làm hoàng hậu, Berlioz rơi thường ngày, giải phóng khỏi các luật lệ và đầu xuống đất)(4). Không gian đó giễu quy tắc sống, thay cho tính ước lệ của cuộc nhại Kinh thánh: Vũ hội của quỷ là một sự sống nó đặt vào một tính ước lệ khác, cô sao chép ngày phán xét của Chúa, đám đọng hơn, vui vẻ và nhẹ nhàng khách vũ hội là sự giễu nhại những con hơn.”(3,374). Nghi thức thay áo quân vua chiên ca tụng Chúa. Nếu Chúa trong bữa cho quân sĩ chính là một dạng trò chơi tiệc cuối cùng biến rượu thành máu, thì ở trong trò chơi, là sự lộn trái thêm một lần đây quỷ lộn ngược nghi thức ấy, biến máu nữa đối với những quy luật đời thường của thành rượu. Ngày phán quyết của Chúa cuộc sống. Trò chơi chính là một ẩn dụ cho ngập trong ánh sáng, vũ hội quỷ diễn ra những sự kiện chính trị - xã hội đương trong đêm. Điều này xuất phát từ quan thời. “Trò chơi cờ vua, một mặt biến thành niệm truyền thống về quỷ, kẻ đánh lừa con một vũ hội hóa trang kiểu hội giả trang, người để chiếm đoạt linh hồn họ. Đám mặt khác trở thành hình tượng hội giả trang khách vũ hội cũng chiếu ứng với đám đông về các sự kiện chính trị - quân sự.” (3,374). 55
  4. Màn quân vua thay áo bào cho quân sĩ và phán xét cái chết: “Tuy nhiên, mọi học quan chính là nghi thức hạ bệ ông vua thuyết đều có giá trị của mình. Và trong số trong các lễ hội giả trang. Nghi thức hạ bệ các học thuyết đó, có cả học thuyết cho có tính nhị chức năng, nó hủy diệt, chôn rằng mỗi con người sẽ được hưởng theo lấp những gì thủ cựu, độc tài, nó tước bỏ đức tin của anh ta. Và việc đó sẽ được quyền lực tối cao của kẻ thống trị và kéo kẻ thành hiện thực! Ông đi vào cõi vô sinh, đó xuống đất, đồng thời nó hồi sinh, tôn còn tôi sẽ được sung sướng từ cái chén mà vinh những giá trị mới, sự tự do, bình ông sẽ biến thành uống mừng sự sinh tồn!” đẳng, sự công bằng. Nó trao trả quyền lực (8, 496). Lò lửa khổng lồ mà đi ra từ đó là của kẻ thống trị về tay nhân dân, về tay tập những xác chết dần hồi sinh thành những thể. Qua đó, Bulgakov phục bút về sự sụp vị khách vũ hội chính là biểu trưng cho địa đổ của chính quyền Stalin, trả sự bình ngục, đây là một trong những biểu tượng đẳng, tự do về tay nhân dân, đúng như tên truyền thống của các màn quỷ kịch. Vũ hội của Đại vũ hội: “Vũ hội Trăm vua”. giả trang, thông qua hình ảnh lò lửa địa Đám khách vũ hội thực chất chính là ngục, đã đánh tan nỗi sợ hãi cái chết bằng cuộc giễu hành của những con ngáo ộp vui cách làm cho con người nhìn thấy ý nghĩa vẻ. Đó là cuộc giễu hành để cười nhạo cái phục sinh trong cái chết. Cuối cùng, lửa có chết. Carnaval giúp con người vượt qua ý nghĩa thanh tẩy và hồi sinh. Hành động những nỗi sợ hãi nguyên thủy nhất: nỗi sợ đốt bản thảo của Nghệ nhân chính là sự hãi vũ trụ và nỗi sợ hãi cái chết. Con người hiến sinh của người nghệ sĩ trong lửa. không còn cảm thấy mình nhỏ bé, bị Voland và Beghemot có vai trò là người choáng ngợp trước vũ trụ, bởi vì đã nhận ra bảo trợ nghệ thuật, bằng phép thuật của mình là một phần của vũ trụ, bản thân mình đã biến ngọn lửa hủy diệt thành ngọn mình đang bị vũ trụ hấp thụ để đi đến cái lửa phục sinh. Dưới ánh lửa lò sưởi, chết, đồng thời cũng đang hấp thụ vũ trụ để Beghemot trao trả lại tập bản thảo đã cháy duy trì sự sống. Chính vì lẽ đó, cái chết cho Nghệ nhân, và Voland đã nêu lên chân không đối lập với sự sống, mà nó là một lý nghệ thuật: “Bản thảo không bao giờ phần của sự sống. Từng cá thể có thể chết cháy”. Đó là lúc tư cách nghệ sĩ và bản đi, nhưng đó là điều kiện cho sự tái sinh thảo của Nghệ nhân được phục sinh, được của thân xác toàn dân. Bởi cơ thể nhân dân thanh tẩy, để khẳng định giá trị của mình. là bất tử, sẽ luôn tái sinh ở mức độ cao hơn 2.3. Các hình tượng cơ thể nghịch dị, vào thế hệ sau. Sự chiến thắng nỗi sợ hãi hạ tầng thân xác trong màn Đại vũ hội cái chết không phải là nỗ lực vươn tới sự Đây là hệ thống hình tượng được bất tử trong cõi đời này, mà là việc chấp Bulgakov sáng tạo dựa trên tính chất nhận cái chết như một sự tất yếu của đời nghịch dị và nghi thức hạ bệ của carnaval. sống, như một phần của sự sống, chấp nhận Nghịch dị (grotesque) có ba tầng nghĩa. Về rằng mỗi cá thể phải chết để thế hệ sau mặt logic, đó là sự lộn trái những logic đời được tái sinh. thường. Về mặt thẩm mỹ, đó là sự khước từ Lửa là một trong những biểu tượng những khuôn vàng thước ngọc của chủ quan trọng nhất của carnaval, đó là một nghĩa cổ điển. Về mặt sinh lý, đó là sự trong những cổ mẫu xa xưa nhất của nhân phóng đại các bộ phận phồn thực với ý loại, vừa có ý nghĩa hủy diệt, vừa có ý nghĩa sinh sôi bất tận. Nghi thức hạ bệ bắt nghĩa tái sinh. Lửa trong mắt phải của nguồn từ cách nhìn thế giới phân tầng theo Voland tượng trưng cho Hỏa ngục, đối lập chiều dọc của người Trung cổ, Phục hưng, với màu đen vô tận của mắt trái, tượng đó là việc kéo những gì ở thượng tầng chôn trưng cho cõi vô sinh. Quỷ là kẻ cai quản xuống hạ tầng, tạo điều kiện cho sự tái sinh. 56
  5. Các hình tượng cơ thể nghịch dị, hạ đó đã rơi lăn lóc xuống đất đúng như tiên tầng thân xác trong màn Đại vũ hội gồm: báo của Voland. Đó là sự hạ bệ tư tưởng cơ thể phụ nữ khỏa thân, hình tượng chiếc chối Chúa mà Berlioz chủ trì. Tư tưởng cốc đãi tiệc toàn dân (được tạo nên từ đầu chối Chúa và tuyệt đối hóa vai trò của con của kẻ thủ cựu Berloz và máu của kẻ do người có tính chất duy ý chí thuần túy, nó thám Bá tước Maighel). khiến con người trở thành những cá thể Cơ thể nữ đặc trưng cho cảm quan của đóng kín và tách biệt với vũ trụ, cản trở sự carnaval: vừa có tiềm năng sinh sôi, vừa có phát triển của con người (vốn ngạo mạn tin tiềm năng hủy diệt. Cơ thể nữ gắn với hạ rằng lịch sử đã hoàn kết và mình hoàn toàn tầng, thiên tính nữ thường gắn với nguyên làm chủ thế giới). Trong màn Đại vũ hội tố đất: thần mùa màng, thần đất trong thần của quỷ, cái đầu Berlioz biến thành cốc thoại Hy Lạp đều là những nữ thần.Trong rượu Voland đưa lên cao để tuyên bố bữa tác phẩm có hai trường hợp khỏa thân: tự tiệc toàn dân, có ý nghĩa tuyên cáo về cái tin, hoàn toàn tự do và giải phóng (Gella, chết của tư tưởng thủ cựu, phiến diện, để Margarita và đám khách vũ hội); nhục nhã, chân lý được hồi sinh. Maighel, chính là ê chề (những phụ nữ Moskva sau màn Hắc đại diện cho hệ thống những kẻ mật thám ảo thuật). Sự khỏa thân vốn dĩ là trạng thái của chính quyền Stalin. Hắn đại diện cho nguyên thủy thuần túy nhất của loài người nỗi sợ hãi, cho sự câm lặng, và đại diện (Adam và Eva trên vườn Địa đàng); cảm cho nguyên nhân dẫn tới sự khép kín, cô giác xấu hổ xuất hiện khi con người phạm độc của người dân Moskva. Trong màn Đại tội lỗi và trạng thái nguyên thủy bị ô uế. Ở vũ hội của quỷ, hắn bị Azazello bắn, máu đây xuất hiện 2 loại mặt nạ. Mặt nạ lênh láng. Đây chính là nghi thức hiến sinh, carnaval, khi con người trở về thân xác máu thấm đất, trả sự sống về cho đất để toàn dân, được hưởng sự tự do bình đẳng tiếp tục sự hồi sinh. Máu Maighel trở thành và tuyệt đối, làm cho cơ thể khỏa thân của rượu nho, kết hợp với cái đầu Berlioz bị người phụ nữ trở về với ý nghĩa phồn sinh biến thành cái cốc, trở thành biểu tượng nguyên thủy; mặt nạ công dân Moskva với của sự phán quyết: cả quyền lực và tư những quy chuẩn đạo đức nghiêm ngặt của tưởng chính thống, cả cái nghiêm và cái ý thức hệ, khiến những người phụ nữ thiêng đều bị hạ huyệt, tiêu diệt, để giải Moskva trở thành những cá thể cô độc, phóng con người về với cơ thể toàn dân, khép kín, và trạng thái khỏa thân của họ trở với tư cách người giữa mọi người, tự do, thành một tội lỗi. Cũng cần phải nói thêm, bình đẳng tuyệt đối, chiến thắng mọi nỗi sợ trạng thái khỏa thân của Ghella, Margarita hãi. gắn với vai trò phù thủy của họ. Phù thủy 3. Màn Đại vũ hội của chúa quỷ trong quan điểm của tư tưởng chính thống Satan: Đối thoại socrates và trào phúng đồng nhất với cái ác. Nhưng trong văn hóa menippe trong nghệ thuật carnaval đại chúng, phù thủy có ý nghĩa nữ quyền Xét đến cùng, việc lựa chọn một thủ sâu sắc, đó là một sự phá vỡ tư tưởng chính pháp không ngoài mục đích thể hiện hệ thống, trao trả quyền tự do, bình đẳng vào thống tư tưởng của người nghệ sĩ và cái tay kẻ yếu thế. Do đó, việc Margarita đồng nhìn của anh ta về cuộc đời. Thiên hướng ý giao ước với quỷ để thành phù thủy, có ý nghệ thuật của Bulgakov là sự phản biện xã nghĩa tháo bỏ lớp mặt nạ đời thường để hội. Nhưng trong hoàn cảnh của Bulgakov, đeo vào lớp mặt nạ carnaval. Đây cũng là chịu sự kiểm duyệt gắt gao, tác phẩm một biểu hiện của thủ pháp nâng và hạ. không được công bố đến bạn đọc, ngay cả Cái đầu của Berlioz là hình tượng khi chưa công bố đã chịu sự chỉ trích cay xuyên suốt tác phẩm. Ở chương 1, cái đầu nghiệt từ giới chuyên môn, tiếng nói đối 57
  6. thoại là điều không tưởng. Cảm quan nghiệm – khiêu khích”. (2, 54- 55). carnaval là giải pháp, tiếng cười của văn Có thể thấy tính chất dân chủ rất đậm hóa trào tiếu dân gian đã tạo ra bầu không nét trong tiểu thuyết Nghệ nhân và khí dân chủ trong tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita. Nhân vật người kể chuyện hoàn Margarita, khiến tác phẩm trở thành cuộc toàn khách quan, dẫn người đọc tham gia đối thoại kiểu Socrates(5), kế thừa tinh trực tiếp vào câu chuyện (“Bạn đọc hãy thần những tác phẩm trào phúng theo kiểu theo tôi”), và trao quyền phán xét cho họ. Menippe(6). Trào phúng Menippe là kiểu Quan hệ thứ bậc giữa Voland và đoàn tùy “cười cợt – nghiêm túc” rất hợp với tuyến tùng rất rõ, nhưng Voland không áp đặt truyện Moskva, với dụng ý của màn bi hài mệnh lệnh cho họ, mà để họ tự do nổi loạn kịch ở đây, có chức năng “lột mặt nạ”, (như trường hợp Beghemot và Korovyev “giàu tính đối thoại, giàu những thủ pháp trong những trò phiêu lưu cuối cùng của họ giễu nhại”. Bakhtin viết: “Những cốt đến Moskva). Tất cả những đều này là cơ truyện vô độ trong các áng văn “trào phúng sở cho những đối thoại của Bulgakov với theo lối menippe” phục vụ một mục đích – nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, thử thách và lột mặt nạ những tư tưởng và phương pháp sáng tác chính thống và duy những nhà tư tưởng. Đó là cốt truyện thử nhất của văn học Soviet. Trước hết, Bulgakov đối thoại về cách nhìn con người, thể hiện qua bảng sau: Các nhân vật trong sáng tác Nhân vật Nghệ nhân của Bulgakov hiện thực xã hội chủ nghĩa Danh tính Có xu hướng khẳng định bản thân: Có xu hướng phủ định bản thân: phủ Tham gia vào các khó khăn thử định tên gọi và đốt cháy sáng tác của thách để trưởng thành, tìm ra lý mình. tưởng sống Tinh thần mạnh mẽ, không khuất Tinh thần yếu đuối, nhu nhược, sợ hãi Tính cách phục hoàn cảnh vì bị khủng bố Thái độ Rời khỏi chỗ ở quen thuộc để đến Rời khỏi chỗ ở quen thuộc vào trại tâm với thực vùng đất mới, thực hiện nhiệm vụ thần. Motif điên mang nhận thức về sự tại đảo ngược, bất hợp lý của cuộc sống xây dựng tổ quốc, từ công cuộc lao động xây dựng dần khám phá ra thực tại. Chỉ khao khát được yên ổn, những mầm mống cách mạng từ mong muốn được yên tĩnh. (Ý nghĩa: sự hiện thực cô độc và không chốn dung thân của người cách tân; thái độ chủ động khước  Hòa mình vào hiện thực tươi từ trật tự thế giới cũ mòn, thủ cựu). sáng đó.  Chối bỏ hiện thực. Lý tưởng Trong tình yêu: nếu không khắc kỉ Khát khao hạnh phúc cá nhân trong một trong tình thì cũng liên quan chặt chẽ đến tư tình yêu đẹp với Margarita yêu tưởng cách mạng, giai cấp. Kết luận Hình tượng anh hùng sử thi có tính Hình tượng con người cá nhân tính chất chất lý tưởng hóa tự thuật 58
  7. Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa nghệ sĩ, thông qua việc trả lại công bằng nhìn nhận con người trên phương diện giai cho Nghệ nhân, và qua chân lý “Bản thảo cấp,với cảm quan sử thi, khiến họ như không bao giờ cháy”. Tác phẩm nghệ thuật những anh hùng. Bulgakov nhìn nhận con đích thực không phải là sự minh họa cho người trên phương diện nhân loại, với cảm một hệ thống tư tưởng nào, mà đó là tác quan carnaval, khiến Nghệ nhân chỉ là con phẩm phản ánh được sự thật của con người người yếu đuối, bình thường, có cả điểm và lịch sử (Tác phẩm của Nghệ nhân viết tích cực và tiêu cực. Con người anh hùng về Pilat và Chúa). Ở đây, Nghệ nhân, của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Yeshua và Bulgakov chính là ba sự phân thuộc về thì quá khứ, là con người hoàn thân của Chúa. Sự tự do đối với Chúa chỉ hảo, toàn vẹn, trong khi Nghệ nhân hướng có tính chất lý thuyết, nên Chúa, dẫu quyền tới tương lai, đang ở trong trạng thái chưa năng, không thể phán quyết trả tự do cho hoàn kết. Từ đó, Bulgakov đưa ra hệ giá trị chính mình. Việc đó chỉ có thể thực hiện riêng cho mình, ông đề cao tình yêu (đã bởi quỷ, kẻ “là một phần của cái sức mạnh thôi thúc Margarita tham gia vào Đại vũ muôn đời muốn làm điều ác nhưng muôn hội, dẫn đến việc trả lại công bằng cho đời làm điều ích lợi”. Điều này thể hiện Nghệ nhân), và lòng từ tâm (giúp quan điểm mới mẻ của Bulgakov về quỷ, Margarita giải thoát cho Phrida trong màn một thế lực toàn năng, động lực của sự Đại vũ hội). Tình yêu trong quan niệm của phát triển. Cũng thông qua việc trả tự do Bulgakov rất tự nhiên và đời thường, đó là cho Nghệ nhân, Bulgakov phán quyết và cảm xúc mãnh liệt và tinh thần hy sinh cho trả tự do cho chính mình, đồng thời dự cảm người mình yêu, nó đối lập với sự khắc kỉ về sự “phục sinh” của mình trên quê và tính chất lý trí trong tình yêu của chủ hương. nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. 4. Kết luận Thứ hai, Bulgakov đối thoại về vấn đề Thủ pháp nghệ thuật chính là chìa tôn giáo. Ý thức hệ thời kì Stalin đề cao vai khóa để giải mã hệ thống tư tưởng của trò của con người và phủ định tôn giáo. người nghệ sĩ. Không thể hiểu được Các sáng tác văn học Soviet không đề cập Bulgakov nếu không hiểu nghệ thuật đến tôn giáo, hoặc tham vọng xây dựng carnaval của ông. Thông qua nghệ thuật một thứ tôn giáo của loài người (Ví carnaval, Bulgakov đã tổ chức màn Đại vũ dụ,Thuyết tạo dựng Chúa của Gorki). hội của chúa quỷ Satan theo nguyên lý trò Bulgakov, thông qua việc chặt đầu Beriloz, chơi. Luật chơi chính là các quy luật của đã khẳng định vai trò của tôn giáo. Tôn carnaval: các tư tưởng quan phương bị phá giáo, trước nhất là sự hiểu biết về giới hạn, vỡ, con người được trả về trạng thái tự do, về thiện và ác, để con người giữ gìn bản bình đẳng tuyệt đối, sự đoạn tuyệt với quá chất lương thiện của mình. Bên cạnh đó, khứ để hướng đến tương lai không bao giờ tôn giáo chính là nhận thức về siêu việt, về hoàn kết. Kẻ điều khiển cuộc chơi là Chúa những điều khách quan vượt ngoài tầm quỷ, kẻ quản trò là anh hề. Các nhân vật kiểm soát của con người. Cảm quan tôn khác chính là người chơi, và kết quả của giáo nhắc con người về giới hạn nhỏ bé của cuộc chơi bao giờ cũng là sự tháo bỏ mặt mình trong vũ trụ và tự nhiên, thôi thúc nạ. Nghi thức chơi chính là các nghi thức con người không ngừng phát triển, vượt carnaval: các hành động đánh đập, nghi qua giới hạn tồn tại, để dần chiếm lĩnh sự thức nâng và hạ, đối thoại… Thông qua đó, vô hạn ấy. người đọc có thể cảm nhận được toàn bộ Thứ ba, Bulgakov đối thoại về giá trị hiện thực Moskva trong cái bi và cái hài đích thực của văn học và tư cách của người của nó. Ngày nay, khi những tiên báo của 59
  8. (6) Bulgakov trong tiểu thuyết được xem là di Thể loại tự sự trào phúng có cốt lõi là những chúc nghệ thuật của ông đều đã thành hiện cuộc đối thoại, đặc trưng bởi yếu tố cái thực, vai trò của ông đã được nhìn nhận nghiêm trong cái hài. đúng đắn trong nền văn học Nga, việc nghiên cứu cảm quan carnaval càng quan TÀI LIỆU THAM KHẢO trọng, như một phương thức hữu hiệu để 1. Arnold. Yarnina (2004), “Through the Lens hiểu được thực chất thế giới nghệ thuật của of Carnival”, University of Idaho. M. Bulgakov. 2. Bakhtin. M, Lý luận và phê bình tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Trường viết văn Nguyễn Du. Chú thích (1 ) 3. Bakhtin. M (2006.), Sáng tác của Francois “Thư Bulgakov gửi chính phủ Soviet”, Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ Đoàn Tử Huyến dịch, in trong phụ lục Nghệ và Phục hưng, Từ Thị Loan dịch, NXB nhân và Margarita, Đoàn Tử Huyến, NXB Khoa học Xã hội. Lao Động, 2006. (2) 4. Belyk. Kristina, “The Master and Margarita Cụm từ “carnaval mới” được sử dụng để chỉ Deconstructing Social Realism”, sự tương đồng về hình thức giữa xã hội Soviet brightOLINE student literary journal, 2012. và các nghi lễ carnaval truyền thống, mặc dù chúng đối lập với nhau hoàn toàn về bản chất. 5. Blake. Barbara (1968), “Elements of Satire Bakhtin viết: “Nói chung, khi một số hình and the Grotesque in the Prose of M.A thức sinh hoạt hội hè được du nhập vào đời Bulgakov”, McMaster University. sống thời đại mới, chúng vẫn giữ được vỏ 6. Bulgakov.M.A (1988), “Thư gửi chính phủ ngoài, nhưng đánh mất đi cái ý nghĩa bên Liên Xô”, Phạm Vĩnh Cư dịch, Tạp chí trong của chúng, […] đánh mất hoàn toàn Sông Hương. mọi ý nghĩa hội hè” (2,168). Tinh thần của 7. Bulgakov.M.A (2006), “Thư gửi chính phủ carnaval chính là sự tự do và bình đẳng tuyệt Liên Xô”, Đoàn Tử Huyến dịch, Phụ lục đối, cho phép con người chống lại hệ tư tưởng “Nghệ nhân và Margarita”, NXB Lao động. chính thống, chống lại nỗi sợ hãi cái nghiêm 8. Bulgakov.M.A (2006), Nghệ nhân và và cái thiêng đang ngự trị trong xã hội. Margarita, Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao (3) Quan điểm của Stenbock – Fermor, dẫn theo Động. Nguyễn Thị Như Trang, “Cấu trúc không gian 9. Bulgakov.M.A (2011), Những quả trứng - thời gian của “Nghệ nhân và Margarita” định mệnh, Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao nhìn từ nguyên lý trò chơi”, Tạp chí Nghiên Động. cứu Văn học, 2011. (4) 10. Bulgakov.M.A (2011), Trái tim chó, Theo Bakhtin: “Trong cái thế giới ấy, cốt Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao Động. truyện được cấu tạo hết sức tự do, hết sức huyễn hoặc: từ trên trời rơi xuống cõi trần, từ 11. Melik-Nubarov.S.O (1978), Lịch sử văn học cõi trần giáng xuống âm phủ, từ hiện tại lùi Soviet, NXB Giáo dục. vào quá khứ, từ quá khứ nhảy vọt vào tương 12. Nguyễn Thị Như Trang (2011), “Cấu trúc lai. […] Nhân vật lịch sử thuộc các thời đại không gian - thời gian của “Nghệ nhân và quá khứ khác nhau chạm trán với con người Margarita” nhìn từ nguyên lý trò chơi”, Tạp đương sống hôm nay…” (2, 55). chí Nghiên cứu Văn học. (5) Một thể loại văn học ghi chép lại cuộc đối 13. Nguyễn Thị Như Trang (2012), Những đặc thoại của mọi người theo trí nhớ, nhân vật điểm thi pháp của tiểu thuyết hiện đại qua trung tâm là triết gia Socrates. Đây là những Nghệ nhân và Margarita của M.Bulgakov, cuộc đối thoại có tính chất dân chủ, không ai Luận án. Đại học Quốc gia Hà Nội. độc tôn chân lý, “Tôi thông minh hơn vì tôi 14. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Nga, biết rằng tôi chẳng hiểu gì cả” (Socrates). Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012. Ngày nhận bài: 01/5/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015 60
nguon tai.lieu . vn