Xem mẫu

  1. Cách pha trà xanh chữa bệnh Những tác dụng của chè xanh Dùng nước sôi 70 – 80% hãm chè, không nên đậy nắp: Làm như vậy có thể giữ được hương vị chè tốt, sẽ không làm cho nước thứ 2, 3 bị nhạt, đồng thời có thể tránh được nhiệt độ cao phá hủy những thành phần có ích trong chè. Uống chè không nên uống cạn một lần: Có những người uống chè thường uống cạn một lần rồi mới đổ thêm nước sôi vào, như vậy sẽ ảnh hưởng đến hương vị của cốc thứ 2, 3. Cách làm tốt hơn là: Khi hãm được nước đầu uống còn khoảng 1/3 thì đổ thêm nước sôi vào, sau khi uống hết 2/3 lại đổ nước sôi vào hãm. Chè không nên hãm quá nhiều lần: Thông thường chỉ hãm 3 – 4 lần là được. Hãm nước đầu trà có thể hòa tan 30% chất hòa tan trong trà, hãm nước thứ hai là 50%, hãm nước thứ ba là 10%, đến lần thứ tư chỉ còn 5%. Tục ngữ có câu; “Nước đầu đắng, nước thứ hai bổ, nước thứ ba thuần, nước thứ tư hết vị”. Một ấm trà hãm nhiều lần, một số chất có hại trong lá chè sẽ hòa tan vào trong nước chè, không có lợi cho sức khỏe. Không nên uống nước chè để qua đêm: Nước chè để sau 8 tiếng thì thành phần bất lợi trong nước chè sẽ tăng lên, đặc biệt khi trời nóng, nhiệt độ cao, vi khuẩn dễ dàng phát riển, uống vào gây bất lợi cho sức khỏe. Ăn cơm xong không nên uống nước chè ngay: Ăn cơm xong nếu uống nước chè ngay sẽ làm cho dịch vị bị hòa loãng ra không có lợi cho việc tiêu hóa thức ăn, thậm chí còn kích thích niêm mạc dạ dày sinh ra viêm, vì vậy thông thường sau khi ăn cơm khoảng 1 giờ mới uống nước chè là tốt nhất.
  2. Nồng độ nước chè phải phù hợp: Nếu pha ít chè quá nước sẽ nhạt, vô vị, nhưng cũng không nên thường xuyên uống nước chè quá đặc có hại cho sức khỏe. Trong nước chè đặc hàm lượng cafein quá cao, nếu thường xuyên uống nước chè đặc sẽ làm cho lượng triglyxerin trong máu cao, làm cho động mạch bị xơ vữa, tim bị đau nhói. Một số axit trong nước chè đặc sẽ làm lắng đọng protein và vitamin, cản trở việc bài tiết dịch vị, kích thích niêm mạc dạ dày, ruột, gây nên hiện tượng mất thăng bằng chức năng của dạ dày và ruột, gây tiêu hóa kém, đại tiện táo, không có lợi đối với những người bị hư nhược chức năng dạ dày, ruột. Ngoài ra một số axit trong nước chè đặc có thể cùng với một số chất trong thức ăn hình thành chất cặn lắng đọng không hòa tan, ảnh hưởng đến việc hấp thu sắt của cơ thể, lâu dài có thể gây thiếu máu thiếu sắt. Không nên dùng chè đặc để giải rượu: Sau khi uống rượu say thì tim đập nhanh, loạn nhịp, đau đầu, chóng mặt, chân tay rã rời, gây hưng phấn tinh thần, mà nước chè đặc cũng có tác dụng hưng phấn trung khu thần kinh, nếu dùng chè đặc để giải rượu thì khác nào “lửa đổ thêm dầu”. Đồng thời chất kiềm chứa trong nước trà đặc sẽ khống chế khả năng tái hấp thu của thận, mà có tác dụng lợi tiểu nhanh. Sau khi uống rượu nếu uống nước trà đặc ngay sẽ làm cho chất độc trong rượu chưa được phân giải ngấm vào thận quá sớm,gây tổn hại chức năng thận. Người đại tiện táo không nên uống nhiều chè: Trong nước chè có chứa nhiều axit không những làm giảm sự co bóp của ruột mà còn làm lắng đọng protein, các peptit, chất sắt, ion kim loại, làm cho phân khô gây chứng táo bón hoặc khiến cho người vốn bị táo bón lại bị nặng thêm. Cần chú ý rằng, lá chè đun hãm càng lâu thì tanin tách ra càng nhiều, càng bất lợi cho người bị táo bón. Dụng cụ hãm và uống chè cần làm sạch cặn chè: Uống chè có lợi cho sức khỏe nhưng cáu chè bám ở thành ấm và đáy cốc thì hại cho sức khỏe. Cặn chè là do chất polyphenol trong chè bị ôxy hóa trong nước mà thành, có màu lá cọ, do đó còn gọi là rỉ chè. Trong cáu chè có chứa nhiều kim loại như chì, sắt, thạch tín... cùng với nước chè những chất này thâm nhập vào cơ thể kết hợp với những chất dinh dưỡng như protein, chất béo, vitamin, hình thành chất lắng cặn khó hòa tan làm ảnh hưởng đến sự tiêu hóa hấp thu chất dinh dưỡng của cơ thể, ngoài ra chất lắng cặn này một khi đã được cơ thể hấp thu dẫn đến sự rối loạn chức năng của một số cơ quan như hệ thần kinh, hệ tiêu hóa... Vì vậy người uống chè phải thường xuyên rửa ấm chén, kịp thời cọ rửa cáu chè bám ở thành trong của ấm. Quan điểm “cáu chè càng dày hãm chè càng thơm, càng giàu dinh dưỡng” là không khoa học. Kiêng kỵ khi sử dụng trà Đăng ngày 26/09/2010 vào lúc 00:00:00 Bạn không nên đun trà hoặc hãm trà trong phích nước nóng vì khi đó vitamin C trong lá trà sẽ bị phá hủy, nước lại có vị đắng chát. Cũng không nên nhai nuốt lá trà vì có thể sẽ "ăn" vào một số chất gây ung thư.
  3. Uống trà là thói quen của rất nhiều người VN, tuy nhiên uống như thế nào để có lợi cho sức khỏe thì không phải ai cũng biết. Các nhà khoa học đã đưa ra một số điều nên tránh khi dùng loại đồ uống này: Đun hoặc hãm trà trong phích nước nóng Một số người có thói quen đun trà hoặc hãm trà trong phích nước nóng để uống. Cách uống trà như vậy không có lợi, bởi lẽ khi đun hoặc hãm trà ở nhiệt độ cao, chất axit tannic trong lá trà hòa tan trong nước nhiều, chất dầu thơm bị bốc hơi phần lớn, đồng thời vitamin C trong lá trà cũng bị phân hủy. Nếu cứ uống trà theo cách đó, không những nước trà có vị đắng chát, mà chất dinh dưỡng có trong lá trà còn giảm, không có lợi cho sức khỏe. Chính vì lẽ đó mà nước pha trà cũng nên giữ ở 80 độ C là tốt nhất. Nhai nuốt lá trà Nhai sống lá trà rồi nuốt là một thói quen không có lợi. Trong quá trình gia công, thành phần đường trong lá trà bị phân giải do nhiệt sẽ tạo nên một số chất gây ung thư như benzopyrene. Loại chất này khó tan trong nước nên khi pha trà uống, nó không vào cơ thể được. Nhưng nếu nhai nuốt trực tiếp, độc chất sẽ vào gây hại cho cơ thể, lâu ngày dễ sinh ra ung thư. Uống trà ngay sau bữa ăn Trong lá trà có nhiều axit tanna. Nếu uống trà ngay sau khi ăn, protein và chất sắt trong thức ăn sẽ tác dụng kết tủa với axit tanna, gây khó tiêu, giảm thấp khả năng hấp thụ protein và chất sắt. Các tính toán cho thấy, nếu sau bữa ăn bạn pha 15 g trà uống, lượng hấp thu sắt trong thức ăn sẽ giảm 50%, lâu ngày dễ sinh chứng thiếu máu do thiếu sắt. Uống nước trà pha để lâu
  4. Nếu pha trà để quá lâu, lượng caffeine tăng lên, tác dụng kích thích cao, uống vào gây khó chịu. Nước trà pha xong để sau vài tiếng sẽ xảy ra phản ứng hóa học, nước trà sẽ bị xỉn màu, thành phần vitamin B và C sẽ bị phân hủy. Lượng axit tannic trong nước trà để lâu sẽ tăng lên, gây bất lợi đối với người bị bệnh gút và bệnh tăng axit uric. Do vậy, uống trà sau khi pha 4-6 phút là tốt nhất. Uống trà quá đặc Trong nước trà đặc có hàm lượng caffein khá cao, khi uống vào gây kích thích trung khu thần kinh, làm tăng độ hưng phấn. Đặc biệt, việc uống trà đặc trước khi đi ngủ sẽ ảnh hưởng không tốt đến giấc ngủ, thậm chí gây mất ngủ. Ngoài ra, axit tannic trong nước trà đặc sẽ kết hợp vĩnh cửu với vitamin B trong cơ thể, dễ gây bệnh thiếu vitamin B. Axit tannic làm co thắt niêm mạc dạ dày, gây kết tủa protein, ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa. Trà đặc còn làm giảm khả năng hấp thụ chất sắt trong thức ăn, lâu ngày dẫn đến bệnh thiếu máu. Uống trà lúc đói Khi đói bụng, việc uống trà sẽ làm loãng dịch vị, giảm thấp chức năng tiêu hóa, dễ gây viêm dạ dày. Do lúc đói, hiệu suất hấp thu cao nên một lượng lớn thành phần không có lợi trong lá trà được hấp thu vào trong máu, gây nên hiện tượng "say trà". Uống trà ngay sau khi ăn thịt dê, thịt chó Thịt dê, thịt chó là loại thực phẩm giàu đạm, còn trong lá trà có nhiều axit tannic. Nếu sau khi ăn thịt dê thịt chó lại uống nước trà ngay, axit tannic sẽ kết hợp với protein thành tannalbin. Đây là chất có tác dụng giữ nước, làm giảm nhu động ruột, không có lợi cho đại tiện, thậm chí bị táo bón, chất độc trong phân bị cơ thể hấp thu, có hại cho sức khỏe. Dùng nước trà để uống thuốc Nhiều người có thói quen dùng nước trà để uống thuốc hoặc uống thuốc xong lại uống trà ngay. Làm như vậy là không khoa học, bởi lẽ khi pha trà, các chất có trong lá trà như axit tannic, theine, caffeine... và một số vitamin được hòa tan trong nước. Khi dùng nước trà uống thuốc, các thành phần trong nước trà và thuốc sẽ xảy ra phản ứng hóa học, làm cho thuốc kém hiệu quả và khó hấp thu.
nguon tai.lieu . vn