Xem mẫu

  1. Cách làm bài nghị luận xã hội A/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG , ĐẠO LÝ 1. Khái niệm, đề tài, yêu cầu và các thao tác chính:
  2. a) Khái niệm Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng đạo lí trong cuộc đời. b) Đề tài Đề tài của nghị luận về tư tưởng, đạo lí là vô cùng phong phú, bao gồm:
  3. - Các vấn đề về nhận thức như lí tưởng, mục đích sống,… - Các vấn đề về tâm hồn, tính cách như: + Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng,… + Tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn,…
  4. + Thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi,... - Về các quan hệ gia đình như tình mẫu tử, anh em,... - Về quan hệ xã hội như tình đồng bào, tình thầy trò, bạn bè,… - Về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống. c) Yêu cầu
  5. - Hiểu được vấn đề cần nghị luận qua phân tích, giải thích để xác định vấn đè - Phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh, bàn bạc, bãi bỏ,… nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận. - Phải biết rút ra ý nghĩa của vấn đề. - Người thực hiện nghị luận phải có lí tưởng và đạo lí.
  6. d) Các thao tác lập luận cơ bản Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận. 2. Cách làm bài a) Mở bài
  7. - Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận. - Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn. - Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. b) Thân bài - Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí này).
  8. - Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai lệch (nếu có). - Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động. - Lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu). c) Kết bài
  9. Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận. 3. Tổng kết Muốn làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, trước hết hãy tìm hiểu sâu về tư tưởng, đạo lí được đem ra bàn bạc. Tìm hiểu tư tưởng, đạo lí bằng cách phân tích, giải thích
  10. theo từng ý, từng vế của vấn đề được nêu. Phát biểu nhận định, đánh giá của mình về tư tưởng, đạo lí đó. Nêu các luận cứ và phân tích các luận cứ để khẳng định nhận định, đánh giá của mình. 4. Ví dụ Lập dàn ý cho đề bài sau (đề 1 SGK Ngữ văn Nâng cao, tập 1, trang 175):
  11. Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống (Lép Tôn-xtôi). Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói chung và trình bày lí tưởng riêng của mình. a) Mở bài - Giới thiệu về ý kiến của L.Tôn-xtôi.
  12. - Nêu nội dung câu nói của L.Tôn-xtôi: + Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường ; không có lí tưởng thì không có cuộc sống. + Nâng cao vai trò của lí tưởng lên một tầm cao ý nghĩa của cuộc sống. Ở đây đòi hỏi phải giải thích mối quan hệ giữa lí tưởng và ngọn đèn, phương hướng và cuộc sống. - Yêu cầu của đề: suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói
  13. chung đối với mọi người và lí tưởng riêng của mình. b) Thân bài - Giải thích câu nói của L.Tôn-xtôi về vai trò của lí tưởng đối với cuộc sống: + Lí tưởng là ước mơ, khát vọng định hướng cuộc sống. Lí tưởng xấu có thể làm hại cuộc đời của một người và nhiều người. Không có lí tưởng tốt đẹp thì không có cuộc sống tốt đẹp.
  14. + Lí tưởng tốt đẹp, thực sự có vai trò chỉ đường vì đó là lí tưởng vì dân, vì nước, vì gia đình và hạnh phúc bản thân. Lí tưởng tốt đẹp có vai trò chỉ đường cho chính sự nghiệp cụ thể mà mỗi người theo đuổi: khoa học, giáo dục, an ninh, kinh doanh,… - Nêu suy nghĩa tán thành hay không tán thành đối với ý kiến của nhà văn Nga. - Nêu lí tưởng riêng của mình: vấn đề bức thiết đặt ra cho
  15. mỗi HS tốt nghiệp THPT là chọn ngành nghề, một ngưỡng cửa để bước vào thực hiện lí tưởng. c) Kết bài Khẳng định vai trò của lí tưởng trong cuộc sống mỗi con người mỗi thế hệ, mỗi dân tộc. B/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG 1. Khái niệm
  16. Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian, thời gian mà người ta nhận thấy. Những gì không hiện ra bên ngoài, những gì không có hình dạng hay trạng thái, con người không cảm nhận, quan sát được đều có thể coi là hiện tượng. Đây là chỗ phân biệt hiện tượng (bên ngoài) với bản chất (bên trong) và với vấn đề (không hình trạng), dẫu cho chúng ta vẫn thường xuyên bình luận cả hiện tượng lẫn vấn đề. Khi nói hiện tượng đời sống thì hai chữ đời sống ở đây
  17. được dùng trong sự phân biệt với văn học, khoa học, với sách vở nói chung. Vì vậy, nói đến hiện tượng đời sống là nói đến những cái xảy ra ở cuộc sống bên ngoài, con người bình thường có thể quan sát thấy, chứ không phải trong sách vở, văn chương. Nghị luận về một hiện tượng đời sống là kiểu bài lấy một hiện tượng xảy ra trong đời sống để bàn bạc. Từ hiện tượng này, người nghị luận phải phân tích để tìm ra ý nghĩa xã hội về tư tưởng, đạo đức mà bàn bạc, đánh giá. Đề tài bàn bạc gần gũi với đời sống, sát hợp với trình độ
  18. nhận thức của HS như tai nạn giao thong, hiện tượng môi trường bị ô nhiễm, những tiêu cực trong thi cử, nạn bạo hành trong gia đình, phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi, cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn, những tấm gương người tốt việc tốt,… 2. Cách làm bài a) Cách viết mở bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng là một dạng
  19. văn bản. Vì vậy, nó cũng cần bắt đầu bằng một mở bài. Và phần mở bài của nó dĩ nhiên không thể đi ngược lại những nguyên tắc chung của mở bài. Nghị luận là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người muốn được bàn luận và đánh giá về một hiện tượng (hoặc vấn đề) nào đấy. Mở bài của một bài nghị luận hiện tượng đời sống phải thể hiện được định hướng đánh giá và bàn luận đó thông qua những câu hỏi, hoặc những câu có tác dụng gợi suy nghĩ, trăn trở trong người đọc (người nghe).
  20. b) Cách viết thân bài Thân bài phải gồm đủ hai thành phần là bàn luận và đánh giá, để có thể đáp ứng yêu cầu bình luận. Các ý của thân bài cần được sắp xếp sao cho người đọc (người nghe) có thể tiếp nhận sự đánh giá, bàn luận của người làm văn một cách dễ dàng và hứng thú, vì sự bình luận chỉ có ý nghĩa khi nó thực sự hướng tới người đọc (người nghe). Chẳng hạn:
nguon tai.lieu . vn