Xem mẫu

  1. *************Cách làm bài nghị luận chính trị************* -Giới thiệu vấn đề cần nghị luận. -Trình bài vấn đề nghị luận. -Niêu ví dụ thực tế. -Rút bài học nhận thức, hành động thực tế. Câu 1: Quan điểm của Đảng ta trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc 1/ Tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa ph ương v ới tác chi ến c ủa các binh đoàn chủ lực - Vị trí: Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt thể hiện tính nhân dân sâu sắc. Khẳng đ ịnh, đây là cu ộc chiến tranh của nhân dân và vì nhân dân. Là điều kiện để phát huy cao nhất sức m ạnh tổng h ợp trong cuộc chiến tranh. - Nội dung: + Trong điều kiện mới ta vẫn phải “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít đ ịch nhi ều”, Đ ảng ta không ch ỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà phải dựa vào sức m ạnh của toàn dân, ti ến hành chi ến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc… + Động viên toàn dân đánh giặc, trong đó lấy Bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang đ ịa ph ương làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến trường cả nước. Đánh bằng m ọi th ứ vũ khí có trong tay, bằng những cách độc đáo, sáng tạo… + Tiến hành chiến tranh toàn dân đó là truyền thống của ông cha ta, dân t ộc ta t ừ ngàn x ưa. Ngày nay, chúng ta phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên m ột trình độ m ới phù h ợp v ới đi ều ki ện mới, thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng cuộc tiến công xâm lược của địch. - Biện pháp thực hiện: + Tăng cường giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân, nh ất là th ế h ệ tr ẻ nói chung và sinh viên nói riêng. + Không ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang v ững m ạnh toàn di ện, đ ặc bi ệt là ch ất lượng chính trị. + Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cu ộc chi ến tranh g ần đây ở trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh (thành ph ố) thành khu vực phòng thủ vững chắc
  2. 2/ Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân s ự, chính tr ị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng, lấy đấu tranh quân s ự là ch ủ y ếu, l ấy th ắng l ợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh - Vị trí: Quan điểm trên có vai trò quan trọng, vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn hành đ ộng c ụ th ể đ ể dành thắng lợi trong chiến tranh. - Nội dung: + Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn di ện đối với sức m ạnh v ật ch ất, tinh th ần c ủa qu ốc gia nhưng chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ, cách mạng. Đ ể phát huy đ ến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực c ủa đ ịch trên t ất c ả các m ặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng. + Tất cả các mặt trận đấu tranh phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo đi ều kiện cho đấu tranh quân sự dành thắng lợi trên chiến trường và cùng v ới đấu tranh quân s ự t ạo nên sức mạnh tổng hợp lớn giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh. + Truyền thống và kinh nghiệm của cuộc chiến tranh gi ải phóng và gi ữ n ước trong l ịch s ử ông cha ta cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ nhân dân ta đã ti ến hành cu ộc kháng chi ến toàn diện, đấu tranh với địch trên nhiều mặt nhưng chủ yếu đã đánh đ ịch và th ắng đ ịch trên m ặt tr ận quân sự, nhờ đó mà nhân dân ta đã giành được thắng lợi, giành và gi ữ n ền đ ộc l ập dân t ộc. Tình hình thế giới ngày nay diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất n ước đ ứng tr ước nh ững thuận lợi mới và những thách thức mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng n ỗ l ực ph ấn đ ấu làm thất bại âm mưu và các mục tiêu chiến lược của địch, dành thắng lợi toàn diện cho chiến tranh. - Biện pháp: + Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng, tạo th ế và l ực cho t ừng m ặt tr ận đ ấu tranh tạo nên sức mạnh, trước mắt đấu tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, b ạo lo ạn l ật đ ổ c ủa địch. Động viên sức mạnh của toàn dân tiến hành trên các mặt trận khi k ẻ thù phát đ ộng chi ến tranh xâm lược + Phải vận dụng sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên t ừng m ặt; đ ồng thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các m ặt trận đấu tranh trong t ừng giai đo ạn cũng nh ư quá trình phát triển của chiến tranh. Song phải luôn quán tri ệt lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, l ấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để kết thúc chiến tranh 3/ Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ s ức đánh đ ược lâu dài, ra sức thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng sớm càng tốt Chúng ta phải chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực đủ sức đánh đ ược lâu dài, ra sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối phó và giành th ắng l ợi trong th ời gian c ần thi ết. Trên cơ sở đó, chúng ta dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh, giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Ta kiên quyết ngăn chặn địch không cho chúng m ở rộng để thu h ẹp không gian c ủa chi ến tranh. Kiên quyết không cho địch thực hiện được mục đích của chúng là “đánh nhanh, gi ải quyết nhanh”
  3. theo học thuyết “không - bộ - biển”. Mặt khác cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để thắng địch trong đi ều kiện chiến tranh mở rộng. 4/ Kết hợp kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây d ựng, ra s ức s ản xu ất th ực hành tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh Đây là một kinh nghiệm đồng thời là truyền thống ch ống gi ặc ngo ại xâm tr ước kia cũng nh ư cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Trong chiến tranh ta phải vừa kháng chiến, vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất, kĩ thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, l ấy c ủa đ ịch đánh đ ịch, gi ữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta, không ngừng tăng thêm tiềm lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh. 5/ Kết hợp đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính tr ị, gi ữ gìn tr ật t ự an toàn xã h ội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “DBHB”, bạo lo ạn lật đ ổ đ ể ch ống phá cách m ạng nước ta. Nếu chiến tranh xảy ra, địch sẽ tăng c ường đánh phá ta b ằng nhi ều bi ện pháp. Vì v ậy, đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trường, ta phải kịp thời tr ấn áp m ọi âm m ưu và hành đ ộng phá hoại của địch ở hậu phương, bảo đảm an ninh chính trị, gi ữ gìn trật tự, an toàn xã h ội, b ảo v ệ v ững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến càng đánh càng m ạnh, càng đánh càng thắng 6/ Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh th ần t ự l ực, t ự c ường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới - Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo, sẽ b ị nhân dân ti ến b ộ trên th ế giới phản đối. - Đoàn kết mở rộng quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chu ộng hoà bình trên th ế giới, kể cả nhân dân nước có quân xâm lược Tài liệu tham khảo  Nắm vững quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong tình hình mới “...Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố khó lường. Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được những thành tựu quan trọng: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững; nội lực, tiềm năng của đất nước lớn và còn có thể phát huy mạnh hơn; uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN tiếp tục được củng cố, tăng cường. Đó là những thuận lợi rất cơ bản, tạo cơ sở vững chắc để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, nước ta cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2007 đem lại; đồng thời, cũng phải thường xuyên đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” rất nguy hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt và nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; để trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đạt hiệu quả thiết thực.
  4. Theo tư duy mới của Đảng ta, mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ và tự bảo vệ trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi, trong đó tự bảo vệ là phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, sức mạnh trong nước với sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác là nhân tố quyết định. Đó còn là sức mạnh của nền QPTD và nền an ninh nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường ngay từ trong thời bình, bảo đảm đủ sức ngăn ngừa chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đòi hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; trong đó, phải xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc...”. Đại hội XI của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát tri ển năm 2011) đã phân tích, dự báo bối cảnh quốc tế và chỉ rõ: Nước ta quá đ ộ lên ch ủ nghĩa xã h ội trong b ối c ảnh qu ốc t ế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cương lĩnh cũng nhấn mạnh: Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn t ại, v ừa h ợp tác v ừa đ ấu tranh, c ạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Điều đó ảnh hướng lớn đ ến vi ệc b ảo v ệ qu ốc phòng an ninh c ủa n ước ta... Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã tiếp tục phân tích dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới, trong đó nhấn mạnh “Trên thế giới: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, ti ềm ẩn nhi ều bất tr ắc khó l ường. Nh ững căng th ẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thi ệp l ật đ ổ, khủng bố vẫn s ẽ di ễn ra gay g ắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng”(1); “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, v ẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn đ ịnh; tranh ch ấp lãnh th ổ, bi ển đ ảo ngày càng gay gắt”(2); “Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đ ất n ước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước… Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào”(3). Báo cáo chính trị không chỉ khẳng định sự tồn tại đan xen giữa nguy cơ và thách thức, có cái là nguy c ơ, nh ưng có cái l ại là thách thức, đang hiện hữu, đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước ta, mà còn chỉ rõ hơn mức đ ộ c ủa nh ững nguy cơ, thách thức đang đặt ra đối với nước ta, trong đó nhấn mạnh: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhi ều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn ti ếp tục thực hi ện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân ch ủ”, “nhân quy ền” hòng làm thay đ ổi ch ế đ ộ trị ở nước chính ta”(4). Nghiên cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cho thấy, tư duy mới về xây dựng và c ủng c ố n ền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đ ội nhân dân và Công an nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được Đ ảng ta ti ếp tục phát tri ển và đ ược th ể hi ện trên một số nội cụ thể dung sau đây: Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc đ ộc l ập, ch ủ quy ền, th ống nh ất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hi ện sự g ắn k ết chặt chẽ gi ữa hai m ặt t ự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đ ặc bi ệt quan tâm đ ến vi ệc gi ữ v ững hòa bình, ổn đ ịnh chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ đ ộng ngăn chặn, làm thất b ại m ọi âm mưu và hành đ ộng chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta... Báo cáo chính tr ị còn nh ấn mạnh đ ến việc giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời... sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang cầu... tính toàn
  5. Vì vậy, chúng ta phải hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo, không bị kích đ ộng, b ị xúi gi ục gây xung đ ột vũ trang, chi ến tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng những biện pháp hòa bình, trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực là yêu cầu cao trong xử lý các mối quan hệ quốc tế và khu v ực hi ện nay. Vấn đề hội nhập quốc tế trong các Văn kiện Đại hội XI của Đảng cho thấy, lần này chúng ta không chỉ đ ề cập đ ến h ội nhập kinh tế quốc tế, mà còn đề cập đến vấn đề chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, không chỉ về kinh t ế, mà còn các vấn đề về giáo dục đào tạo, khoa học, công nghệ và cả việc “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”(5). Với việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta sẽ có điều kiện tranh thủ những mặt thu ận l ợi c ủa quá trình h ội nhập quốc tế để tiến hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghi ệp hóa, hi ện đ ại hóa đ ất n ước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và xét về góc độ quốc phòng, an ninh, bảo v ệ T ổ quốc thì quá trình h ội nh ập cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức mới. Trong môi trường thông tin rộng l ớn, với sự phát tri ển nh ư vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao, nhất là mạng in-tơ-nét, đã xuất hi ện khái niệm “biên giới mềm”, “biên giới thông tin”. Theo đó, quan ni ệm về “an ninh toàn di ện” và v ấn đ ề “b ảo v ệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội” phải đ ược đ ặt ra. V ấn đ ề ki ểm soát, phát hi ện, ngăn ch ặn những cuộc xâm nhập, “tấn công mềm” từ bên ngoài bằng các thủ đoạn thông tin trên các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn được đặt một gắt hơn. hóa ra cách gay Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc không chỉ thể hiện ở việc giữ cho “trong ấm”, thông qua vi ệc chăm lo phát tri ển kinh t ế, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, hội; phải giữ an toàn xã mà còn cho “ngoài êm”. Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về ti ềm l ực và th ế tr ận; xây d ựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan điểm của Đại hội X của Đảng, Đ ại hội XI khẳng đ ịnh phải xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đi ều đó chứng tỏ, hơn lúc nào h ết, trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay, vấn đề lòng dân có vai trò cực kỳ quan trọng. Xây dựng thế trận lòng dân là yêu cầu bức thiết, là nội dung cơ bản của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. Đây là sự kế thừa, vận dụng và phát tri ển sáng t ạo quan đi ểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong l ịch s ử, là vi ệc nâng lên m ột tầm cao mới truyền thống, kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đ ược Đ ảng ta thể hi ện trong t ư duy mới v ề sức mạnh lực lượng bảo vệ Tổ quốc đoạn mới. và trong giai Kiên trì quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân trong mối quan hệ v ới s ự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đ ộ lên ch ủ nghĩa xã h ội (B ổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định quan điểm hết sức cơ bản là: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đ ời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi v ới tăng c ường s ức m ạnh qu ốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh v ới kinh t ế trong t ừng chi ến l ược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng đ ịa bàn”(6). Tư duy mới của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh phải đ ược thể hi ện trong t ừng chi ến l ược, k ế hoạch, chính sách phát triển, coi sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đ ất nước là n ền t ảng đ ể tăng c ường s ức m ạnh quốc phòng - an ninh. Theo đó, tiềm lực và thế trận của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân sẽ được dựa trên một cơ sở hết sức vững chắc - sức mạnh tổng hợp của đất nước, cả sức mạnh vật chất và s ức m ạnh tinh th ần, c ả s ức m ạnh tiềm tàng với sức mạnh hiện hữu, sức mạnh của cả truyền thống, hi ện tại và tương lai. Đó là s ự b ảo đ ảm cho n ền qu ốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố và phát triển vững chắc. Tư duy mới của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong giai đo ạn hi ện nay còn th ể hi ện ở việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác đ ộng trực ti ếp đ ến nhi ệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên qu ốc gia... Trong điều kiện mới, để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa với nội dung đã có s ự phát tri ển mới, rộng lớn hơn, toàn diện hơn thì việc bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng - an ninh đòi hỏi m ột h ệ th ống ki ến th ức toàn diện hơn. Phải trang bị cho mọi người cả kiến thức về quốc phòng và kiến thức về an ninh; sự hi ểu bi ết về hoạt đ ộng ch ống phá của các thế lực thù địch cả bằng phương thức vũ trang, cả bằng phương thức phi vũ trang, nh ất là phòng, ch ống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và cả quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong; cả an ninh truy ền th ống và an ninh phi truyền thống. Kiến thức về quốc phòng - an ninh phải trở thành kiến thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi con người hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đ ặc bi ệt, Báo cáo chính tr ị đã nh ấn m ạnh: “Trong n ội b ộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự di ễn bi ến”, “tự chuyển hóa” có nh ững di ễn bi ến ph ức t ạp”(7). Để đấu tranh phòng, chống quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong đòi hỏi một trong nh ững bi ện pháp r ất c ơ bản là phải nâng cao khả năng tự bảo vệ. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta đây là vấn đ ề cực kỳ quan tr ọng, không ch ỉ hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về “một cuộc cách mạng chỉ thực s ự có giá tr ị khi nó bi ết t ự bảo vệ”, mà còn rất phù hợp với thực tiễn của cuộc cách mạng ở nước ta hiện nay, khi mà chúng ta vừa phải sẵn sàng chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của kẻ thù nếu chúng liều lĩnh phát động chống nước ta, vừa đang phải hằng ngày, hằng giờ đ ấu tranh phòng, ch ống “di ễn biến hòa bình” và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “di ễn bi ến hòa bình” và sự tác đ ộng từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, cộng với những “ung nhọt” nảy sinh trong quá trình xây dựng đ ất n ước trong th ời kỳ
  6. độ chủ hội. quá lên nghĩa xã Chỉ có nâng cao khả năng tự bảo vệ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, của mỗi người, tăng cường sức đ ề kháng, khả năng “tự miễn dịch” trước tác động của chiến lược “diễn biến hòa bình”, của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong và sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế mới hy vọng đem lại cho chúng ta m ột s ức mạnh mới, sức mạnh bên trong để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc bi ệt là bảo vệ Đ ảng, Nhà nước và ch ế đ ộ xã hội chủ nghĩa. Để thực sự là lực lượng nòng cốt trong tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát tri ển năm 2011), ti ếp t ục kh ẳng đ ịnh ph ương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn mới, trong đó nhấn m ạnh: Xây d ựng Quân đ ội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đ ại, tuyệt đ ối trung thành v ới T ổ quốc, v ới Đ ảng, Nhà nước được và nhân dân, nhân dân tin yêu. Phải xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao. Đây là yêu cầu mới đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng với chất lượng trong nâng cao sức chiến đ ấu của Quân đ ội phù hợp v ới tình hình m ới. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Theo đó, phải chăm lo nâng cao ph ẩm ch ất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực l ượng vũ trang; bảo đ ảm đ ời sống v ật ch ất, tinh th ần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Đồng thời, phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đ ảm cho các l ực l ượng vũ trang t ừng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh cơ động. sát Để bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn luôn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Đ ảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống, phải thường xuyên bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đ ội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hi ệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh. Phải hoàn thiện các chi ến l ược quốc phòng, an ninh và h ệ th ống c ơ ch ế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp đội, tổ chức trị hội. quân công an và các chính - xã Trong những điều kiện đó, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục vận dụng những thành quả tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực l ượng vũ trang nhân dân, Quân đ ội nhân dân và Công an nhân dân trong 25 năm đổi mới, đồng thời tiếp tục nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những n ội dung đã đ ược b ổ sung, phát triển mới trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng và từng bước cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình thực tiễn./. Chiến tranh nhân dân trong thời đại mới Như chúng ta đã biết, đất nước Việt Nam ta có tổng diện tích là 330 990km2 và một vùng biển rộng hơn 1 triệu km2. Đất nước ta hình dạng trài dài theo chiều bắc nam và hẹp theo chiều đông tây, nước ta nằm ở cửa ngõ của khu vực ĐNA nối liền giữa ĐNA hải đảo với lục địa ĐBA và ở phía Đông của nước ta là vùng biển Đông rộng lớn kiểm soát các tuyến đường hàng hải quan trọng nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Thêm vào đó nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng về chủng loại và chữ lượng cả ở trên đất liền và trong lòng biển. Chính vì nước ta có vị chí địa chiến lược quan trọng và nguồn tài nguyên phong phú, nên trải tư khi lập quốc tới nay nước ta luôn năm trong tầm ngắm của các thế lực ngoại bang và các tập đoàn lợi ích toàn cầu, hơn nữa trong bối cảnh nước ta đang hội nhập sâu vào với cộng đồng quốc tế vai trò và uy tín chính trị trong ASEAN của nước ta ngày càng cao, thì sự nhòm ngó của các thế lực thù đích càng trơ thành nguy cơ cao đe dọa nền hòa bình và an ninh quốc gia của nước ta. Xét ở khía cạnh nào đó ngày nay tại khu vực ĐNA, các cường quốc thế giới luôn xác định nước nào nắm được NC trong tay là có được cả ĐNA. Trong 24 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã tiến hành công cuộc cải cách và mở cửa nền kinh tế, và đã thu được những thắng lợi nhất định về kinh tế xã hội. Tuy nhiên các thế lực chống cộng và các phần tử bất mãn xã hội chưa bao giờ từ bỏ âm mưu gây bất ổn chính trị tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Từ tất cả các yếu tố nguy cơ đó dẫn đến việc nước ta phải luôn luôn cảnh giác sẵn sàng cho các tình huống xấu nhất có thể sẩy ra đối với đất nước ta. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược của các thế lực ngoại bang thì đất nước ta luôn ở vào thế yếu hơn địch
  7. vê tiềm lực kinh tế chính trị khoa học kỹ thuật và trang thiết bị vũ khí. Trong bố cảnh nước ta hiện nay và trong tương lai gần nếu lại sây ra chiến tranh chống xâm lược thì như truyền thống nước ta vẫn ở thế yếu hơn quân địch về mọi mặt vậy làm thế nào để dành được chiến thắng? không lẽ quân địch tấn công thì ta đầu hàng cầu hỏi này khó nhưng không phải là không có câu trả lời. Mở rộng vấn đề ra 1 chút ở hầu hết các nước trên thế giới việc chống lại kẻ thù xâm lược là của quân đội, vị vậy trong các cuộc chiến tranh xâm lược sẩy ra trong thơi gian gần đây như cuộc tấn công của Nato vào Nam Tư năm 1999 hay cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Irac năm 2003, đều là các cuộc chiến tranh mà bên tấn công ở thế mạnh hơn và có xử dụng các loại vũ khí công nghễ cao tấn công chính xác cao và hâu qua thì như chúng ta đã biết bên bị tấn công đều thất bại. Trong số hàng loạt nguyên nhân thất bại của Nam Tư và Irac, thì có 1 nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại đó là sứ mệnh bảo vệ sự độc lập được giao phó hoàn toàn cho quân đội, không có được sự phối hợp của các lưc lượng khác và cuộc chiến tranh xẩy ra thuần túy trên mặt trận quân sự mà không có các mặt trân khác như ngoại giao, kinh tế phối hợp. Nói tóm lại là ở Nam Tư và Irac đã không có 1 cuộc chiến tranh nhân dân chống lại kẻ thù xâm lược. Trong bối cảnh nước ta hiện nay và trong tương lại gân, nếu 1 cuộc chiến tranh chống xâm lược nổ ra thì nhiệm vũ chống lại kẻ thù xâm lược sẽ là của toàn dân mà nòng cốt là Quân Đội nhân dân. Hay nói một cách khác thì đó là 1 cuộc chiến tranh nhân dân bao vệ tổ quốc, vậy chiến tranh nhân dân là gì? Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù xâm lược được tiến hành bởi toàn bộ nhân dân, trong đó các lưc lượng vũ trang nhân dân la nòng cốt có sự phố hợp của toàn dân. Chiến tranh nhân dân được tiến hành trên toàn bộ lãnh thổ nước ta và trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội khoa học kỹ thuật nhăm đảm bảo cho thăng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh là nhân dân ta được sống trong tự do hòa bình và giữ được sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Câu 2: Những giải pháp phòng chống chiến lược “Di ễn bi ến hoà bình”, b ạo lo ạn l ật đổ ở Việt Nam hiện nay. 2.4.1 Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã h ội, gi ữ v ững đ ịnh h ướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Giữ vững sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, gi ữ vững đ ịnh h ướng xã h ội ch ủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy c ơ tụt hậu về kinh t ế là gi ải pháp h ữu hi ệu đ ể gi ữ vững và thúc đẩy yếu tố bên trong của đất nước luôn ổn định. 2.4.2 Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các th ế lực thù đ ịch n ắm ch ắc mọi diễn biến không để bị động, bất ngờ. Giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Vi ệt Nam, m ọi t ổ ch ức chính tr ị, xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “DBHB” c ủa kẻ thù ch ống phá cách mạng Việt Nam.
  8. Đấu tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác cách m ạng trong n ội b ộ nhân dân, sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm trong chi ến l ược “DBHB” c ủa k ẻ thù chống phá nước ta hiện nay. Mỗi người dân Việt Nam phải có tri thức, có bản lĩnh chính trị, có ph ương pháp xem xét, phát hiện và báo cáo kịp thời thủ đoạn chống phá của kẻ thù cho c ơ quan có ch ức năng x ử lí, không để bất ngờ. 2.4.3 Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho toàn dân. - Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chi ến lược của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, củng c ố qu ốc phòng, b ảo v ệ an ninh chính tr ị, tr ật t ự an toàn xã hội và các thành quả cách mạng do chủ nghĩa đ ế qu ốc đ ứng đ ầu là Mĩ và các th ế lực thù địch tấn công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân t ộc đặc bi ệt là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta. Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc phải mang tính toàn diện nhưng tập trung vào: + Giáo dục tình yêu quê h ương, đất n ước, tinh th ần c ảnh giác tr ước m ọi âm m ưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá nước ta + Giáo dục quan điểm đi ểm, đường lối c ủa Đ ảng v ề nhi ệm v ụ b ảo v ệ T ổ qu ốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới. + Giáo dục tinh thần xả thân vì Tổ quốc, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh + Hình thức giáo dục phải đa dạng, phù hợp với tùy từng đối tượng 2.4.4 Xây dựng cơ sở chính trị, xã hội vững mạnh về mọi mặt Xây dựng cơ sở chính trị- xã hội vững m ạnh sẽ bảo đảm cho ch ế đ ộ xã h ội luôn ổn đ ịnh, phát triển. Do vậy, phải luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn k ết toàn dân t ộc v ững mạnh, theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay là đoàn kết các dân t ộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, mọi gi ới, m ọi lứa tu ổi, m ọi vùng, mọi miền đất nước, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, người đang công tác và ng ười đã nghỉ hưu, người trong nước và người đang sinh sống ở nước ngoài
  9. Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp, nhất là cơ sở. Duy trì nghiêm kỷ luật của Đảng ở các cấp, xử lí kịp thời những đ ảng viên, t ổ ch ức Đ ảng có khuyết điểm, khen thưởng kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng th ực hiện tốt đường lối, chủ trương Điều lệ Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước 2.4.5 Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương vững mạnh Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên phải r ộng kh ắp ở t ất c ả các làng b ản, xã phường, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương, cơ sở. Phải chú trọng giải quyết đúng đắn m ối quan hệ gi ữa số lượng và chất l ượng nh ưng l ấy chất lượng là chính. 2.4.6 Xây dựng, luyện tập các phương án, các tình huống ch ống “DBHB”, b ạo lo ạn l ật đổ của địch. Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ cần có phương thức xử lí cụ thể, hiệu quả. Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp c ủa toàn dân và c ủa cả hệ thống chính trị, xử lí theo nguyên tắc nhanh gọn – kiên quyết – linh ho ạt – đúng đ ối tượng – không để lan rộng, kéo dài. Xây dựng đầy đủ, luyện tập các phương án sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị, từng cấp, từng ngành Hoạt động xử lí bạo loạn lật đổ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đ ảng, đi ều hành c ủa chính quyền, các ngành tham mưu, quân đội và công an. 2.4.7 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n ước và chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động. - Đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã h ội ch ủ nghĩa th ực chất là để tạo ra cơ sở vật chất, phát triển lực lượng sản xu ất và t ừng b ước hoàn thi ện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đồng thời là điều kiện để tăng năng su ất lao đ ộng
  10. của xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao đ ộng đ ể t ạo nên s ức mạnh của thế trận “lòng dân”. * Tóm lại: - Những biện pháp trên đây có mối quan hệ chặt chẽ, tạo thành m ột ch ỉnh th ể th ống nhất nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam hi ện nay. Do đó, trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ này không nên coi nhẹ ho ặc tuyệt đ ối hoá m ột giải pháp nào - Đối với sinh viên - thế hệ tương lai của đất nước: Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, cống hiến cho đất nước Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại m ọi âm mưu, th ủ đo ạn c ủa k ẻ thù trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ Tài liệu tham khảo  Phòng chống “diễn biến hoà bình” trong sinh viên – nhận thức và giải pháp 08:56 | 25/03/2005 Sinh viên là lực lượng trẻ, tiên phong, đang phát triển mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, giàu ước mơ hoài bão, có mong muốn vươn lên nắm băt các tri thức nhân loại để trong thời gian dài tự hoàn thiện mình về mọi mặt. Họ xuất thân từ các giai tầng khác nhau của mọi miền đất nước, với mức thu nhập của gia đình rất khác nhau, tập trung về các trung tãm kinh tế, các thành phố và thị xã để sống và học tập. Tuy nhiên, họ lại vừa mới tốt nghiệp phổ thông, vừa ra khỏi sự quản lý, kèm cặp chặt chẽ của thầy cô giáo ở nhà trường và bố mẹ, về sống chung trong ký túc xá hoặc trọ học trong các gia đình xung quanh các trường đại học và cao đẳng. Nghĩa là, họ vừa mới có cuộc sống tự lập, tự quản và tập thể. Họ rất nhanh nhạy trong việc tiếp thu các thông tin mới trong khoa học, cũng như những luồng tư tưởng mới trong xã hội, song khả năng phân tích và chọn lọc lại chưa cao. Về chính trị, sinh viên còn ít được bồi dưỡng; do đó phần lớn họ ít hay nhiều còn mơ hồ về chính trị, lập trường tư tưởng còn chưa vững vàng, nên dễ dao động, dễ bị lôi kéo. Về văn hoá, sinh viên còn đang trong giai đoạn tìm kiếm tri thức để tự khẳng định mình, nếu không có sự định hướng họ dễ bị lệch lạc. Về khoa học, hàng ngày sinh viên được tiếp thu tinh hoa nhân loại trên nhiều lĩnh vực: khối kiến thức khoa học đại cương, kiến thức chuyên sâu (khối kiến thức nghề nghiệp) trong trường đại học, cao đẳng và trên các hệ thống truyền thông, trên Internet... Ngoài ra, nhiều sinh viên còn học thêm ngoại ngữ, vi tính, đi làm gia sư... Về tổ chức, trong trường đại học sinh viên chịu sự quản lý của lớp, của khoa và của nhà trường (trực tiếp là phòng công tác sinh viên). Ngoài ra, sinh viên còn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đảng, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên.
  11. Sinh viên là lực lượng tiêu biểu của tuổi trẻ, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật quan trọng trong tương lai của đất nước. Họ sẽ đóng góp sức lực, trí tuệ và tài năng của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Sinh viên là đối tượng trong các trung tâm giao lưu của xã hội, của các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài nước được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin mới, thông qua các hệ thống truyền thông; đây là điều kiện thuận lợi cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học và hội nhập quốc tế. Với đặc điểm và vai trò của sinh viên như đã nêu trên, sinh viên là đối tượng mà các thế lực thù địch thực hiện ''diễn biến hoà bình'' (“DBHB”), nhằm mục tiêu chống phá cách mạng trong hiện tại và tương lai. Ngày nay, với âm mưu thủ đoạn “DBHB” chúng đã len lỏi vào các ký túc xá sinh viên, giảng đường, đến các hội thảo khoa học... lôi kéo, kích động, nhằm tạo ra sự bất ổn về chính trị tư tưởng, làm cơ sở cho những vụ gây rối trật tự an ninh trong đời sống sinh viên và trong xã hội. Nhưng với sự nhanh nhạy và bản lĩnh vững vàng của mình, nhiều sinh viên đã phát hiện và đấu tranh trực diện đối với việc tuyên truyền, kích động của chúng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, không ít sinh viên còn mơ hồ về chính trị; thiếu kinh nghiệm... sẽ bị các thế lực thù địch lôi kéo và băng hoại bằng “DBHB”. Những âm mưu và thủ đoạn thực hiện “DBHB” trong sinh viên trong những năm vừa qua là: - “DBHB” của địch thâm nhập vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội sinh viên nhằm phá vỡ các tổ chức này. - Đưa các ấn phẩm văn hoá đồi trụy, phản động vào trong sinh viên. - Lợi dụng tín ngưỡng, mê tín dị đoan trong sinh viên để thực hiện “DBHB” - “DBHB” của địch đối với sinh viên thông qua các chương trình học bổng. - “DBHB” của địch còn thông qua các hội thảo quốc tế. Những hoạt động nhằm thực hiện âm mưu “DBHB” đối với sinh viên trong thời gian qua trên lĩnh vực chính trị tư tưởng là thường xuyên liên tục và bằng nhiều phương pháp tuyên truyền, xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo sinh viên vào con đường lầm lạc chống Đảng, chống lại nhân dân Việt Nam. Từ thực tiễn hoạt động chống phá về chính trị, tư tưởng đối với sinh viên của các thế lực thù địch vừa qua; để phòng chống âm mưu “DBHB” trong sinh viên, các trường đại học, cao đẳng cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Một là, nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội sinh viên trong các nhà trường. Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng phải xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, giản dị, có ý chí vươn lên trong cuộc sống cũng như trong học tập, nghiên cứu khoa học, có uy tín và tích cực trong công tác Đoàn, công tác Hội và gần gũi với quần chúng. Nội dung hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên phải phong phú, thiết thực, sinh động... mục tiêu là giáo dục cho sinh viên sống và làm việc theo pháp luật, theo bản sắc văn hoá đân tộc; làm cho sinh viên thấm nhuần quan điểm: Đảng, đất nước, dân tộc có quan hệ chặt chẽ với chế độ XHCN; từ đó họ phải kiên định với con đướng CNXH mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra. Bằng nhiều hình thức, thướng xuyên giáo dục chính trị tư tưởng để sinh viên tự xác định cho mình về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình. Ban Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng cần tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần cho tổ chức Đoàn và Hội Sinh viên của trường hoạt động. Hai là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho sinh viên. Hiện nay, các môn học: Chính trị Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là những môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo của bậc đại học và cao đẳng. Thời lượng của các môn học này đã hợp lý, song điều quan trọng là phương pháp giảng dạy các môn học đó sao cho có hiệu quả. Theo chúng tôi, cần giảng ngắn gọn, súc tích về lý luận, tăng
  12. cường thời lượng thảo luận, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên trao đổi để nhận thức tri thức khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Giáo dục nâng cao nhân sinh quan, thế giới quan và đạo đức cộng sản: các giá trị truyền thống dân tộc, lý tưởng, niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN cho sinh viênl đồng thời phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái, lệch lạc và làm rõ âm mưu thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch để sinh viên có biện pháp phòng ngừa. Nếu chúng ta làm tốt công tác giáo dục cho sinh viên, thì kẻ thù dù có nham hiểm và thâm độc đến đâu cũng thất bại trong âm mưu “DBHB” về mặt chính trị tư tưởng đối với sinh viên. Ba là, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho sinh viên. Chúng ta phải thừa nhận rằng, đời sống vật chất và tinh thần của sinh viên hiện nay vẫn còn nhiều thiếu thốn; đây là kẽ hở để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “DBHB” trong sinh viên. Vì vậy, nhiệm vụ của Ban Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng càng nặng nề hơn trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho sinh viên. Những công việc cần làm ngay là: - Cải tạo điều kiện sinh hoạt trong các ký túc xá, giảm tới mức tối thiểu việc đóng góp của sinh viên. - Có chế độ chính sách đầy đủ hợp lý và toàn diện về học bổng, học phí, lệ phí. - Tăng cường trang thiết bị phòng thí nghiệm: thư viện để thu hút sinh viên vào học tập và nghiên cứu khoa học nhiều hơn nữa. - Tăng cường cơ sở vật chất và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao hợp lý và đúng định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước. Bốn là, xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên. Phòng chống âm mưu “DBHB” về chính trị tư tưởng đối với sinh viên có nhiều lực lượng tham gia, với nhiều biện pháp, nhưng phải tạo điều kiện để họ tự chống âm mưu “DBHB” của các thế lực thù địch là tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Muốn làm được điều đó. chúng ta phải giáo dục cho mọi sinh viên thấm nhuần tư tưởng đạo đức cách mạng, có tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê cao. Cần xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên, họ là những sinh viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động, tích cực, khách quan, gần gũi quần chúng, để trong bất kỳ tình huống nào ta cũng nắm bắt được đối tượng, âm mưu và biện pháp “DBHB” của chúng, để đề ra biện pháp phòng chống hiệu quả nhất. Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với các trường đại học, cao đẳng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của các mạng Việt Nam. Cuộc cách mạng XHCN do Đảng lãnh đạo là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, vì vậy, phòng chống “DBHB” trong giáo dục và đào tạo cũng là nhiệm vụ cấp bách và hàng đầu. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm tới giáo dục và đào tạo, vì nó tạo ra nguồn nhân lực cao cấp, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao đáp ứng cho nhu cầu CNH, HĐH đất nước trong hiện tại và tương lai. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nườc là những định hướng, là cơ sở để các trường đại học, cao đẳng thực hiện nhiệm vụ giáo dục-đào tạo đội ngũ cán bộ tương lai của đất nước có trình độ khoa học, nhanh chóng khắc phục nguy cơ tụt hậu, đánh bại chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch đối với nước ta. Phòng chống “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ ở tây nguyên Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng và Đăk Nông. Có diện tích tự nhiên 5447,4  nghìn ha, chiếm 17,5% diện tích cả nước, lớn gấp 1,4 lần diện tích các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tây  Nguyên là khu vực rộng lớn có vị trí quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng đối với Việt Nam. Trong  hàng chục năm nay, sự di cư ồ ạt của nhiều người, nhiều cộng đồng dân tộc từ nhiều vùng miền khác nhau  đến Tây Nguyên lập nghiệp đã làm cho dân số và thành phần dân tộc của vùng thay đổi nhanh chóng. Theo  thống kê mới nhất, trên mảnh đất Tây Nguyên đang có 43 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó người  Kinh chiếm 65,8%, tiếp đến là các dân tộc thiểu số khác như Ba Na, Ê Đê, Mnông, Gia Jai, Xơ Đăng, Giẻ  Triêng, Brâu . Vì thế, có thể nói Tây Nguyên là vùng đa màu sắc văn hoá tộc người, khá phong phú, phức  tạp về phương diện tín ngưỡng­ tôn giáo và nhiều màu sắc nhất ở Việt Nam.
  13. Trong lịch sử, Tây Nguyên là vùng đất hào hùng, giàu truyền thống cách mạng, đặc biệt là trong hai cuộc  kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đây. Sống trên mảnh đất hùng vĩ bao đời, đồng bào các dân tộc  ở đây đã chung sức, đồng lòng tạo dựng nên một nền văn hóa hết sức phong phú và đậm đà bản sắc dân  tộc, với những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể nổi tiếng và kho tàng văn học dân gian hết sức đặc sắc.  Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có tinh thần đoàn kết, cần cù, chịu khó và tương thân tương ái, yêu  thương con người, thiên nhiên, đất nước, chuộng hòa bình nhưng anh dũng bất khuất trong đấu tranh chống  giặc ngoại xâm.  Tây Nguyên không chỉ là vùng có tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế, nơi ẩn chứa nhiều nhân tố nội  sinh cho sự phát triển văn hoá tinh thần, phát triển xã hội nói chung mà đây cũng là vùng trọng điểm trong  chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia. Với trên 580 km đường biên giới với Lào và Campuchia, Tây  Nguyên là địa bàn được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư, xây dựng để cùng hoà nhập với tiến trình phát  triển chung của đất nước, mặt khác, cũng vì lẽ đó Tây Nguyên trở thành vùng trọng yếu, nhạy cảm mà các  thế lực đế quốc, phản động nhòm ngó, rắp tâm thực hiện cài cắm xây dựng lực lượng, tạo dựng các "phong  trào" nhằm chống phá công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, chống phá chế độ . Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,  chính sách để đầu tư, xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, các cấp bộ đảng,  chính quyền địa phương đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị các cấp để lãnh đạo, chỉ đạo và tạo  dựng nhiều điều kiện cần thiết cho mọi người dân lao động, mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế ­ xã hội  ở Tây Nguyên hoà nhập, thích nghi với lối sống mới, chế độ mới. Đặc biệt từ ngày đổi mới đến nay, nhịp điệu  cuộc sống, cách thức sản xuất, làm ăn của nhiều nhóm cư dân, nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh trong  vùng đã thực sự khởi sắc, năng động, sáng tạo và làm ăn ngày càng có hiệu quả . Phần lớn đồng bào các  dân tộc thiểu số ở các buôn làng đã định canh, định cư, thực hiện thâm canh sản xuất hàng hoá. Rất nhiều  trang trại, nhiều vùng sản xuất tập trung cà­fê, cao su, dâu tằm, cây ăn quả, cây lương thực . hình thành,  phát triển đạt hiệu quả kinh tế hàng hoá cao. Nhiều phố mới, làng mới, nhiều cơ sở hạ tầng được xây dựng,  phát triển làm cho bộ mặt Tây Nguyên hiện nay liên tục được thay da, đổi thịt theo dáng dấp của xã hội đang  trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của đa số tầng lớp dân  cư ở Tây Nguyên được nâng lên rõ rệt so với thời kỳ trước đổi mới Tuy vậy, cũng cần nói thêm một thực tế khác, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau,  nhìn tổng thể sự phát triển của các tỉnh Tây Nguyên vẫn chưa hoàn toàn vững chắc, nhiều vấn đề bức xúc  của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội và đặc biệt là những vấn đề chính trị ­ xã hội phức tạp, nhạy cảm vẫn  đang tiềm ẩn sự "bùng nổ". Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên  thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm. Kinh tế vùng sâu, vùng xa chậm phát triển, đời sống  đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn, các chính sách phát triển kinh tế ­ xã hội không đồng bộ, đội ngũ cán  bộ dân tộc, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý mặc dù được sự quan tâm đào tạo nhưng vẫn còn thiếu và  yếu. Thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức thực tiễn để lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội vùng  dân tộc thiểu số. Do trình độ hạn chế của đội ngũ cán bộ nên đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách  của Đảng và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống. Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu  số vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, công sức của nhân dân và sự quan tâm của Đảng và Nhà  nước. Nhiều vùng còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, tình trạng tranh chấp đất đai, diễn ra thường  xuyên, làm cho công tác quản lý hành chính gặp nhiều khó khăn, quan hệ dân tộc càng phức tạp. Mặt khác,  quá trình phát triển kinh tế thị trường làm cho sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhất là giữa  người kinh và người dân tộc thiểu số tại chổ càng lớn. Đó là những nguyên nhân xuất hiện tư tưởng bài kinh,  làm cho khối đoàn kết dân tộc bị tổn thương.  Trong lĩnh vực an ninh, trật tự ­ an toàn xã hội đã và đang nẩy sinh khá nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, trong  đó tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định về Chính trị ­xã hội, tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững  của vùng Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với những biến đổi trên các lĩnh vực  chính trị, tư tưởng, văn hóa, sự thay đổi của cơ sở hạ tầng kéo theo những biến đổi của kiến trúc thượng  tầng, trong đó có tín ngưỡng tôn giáo. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng  có những thay đổi. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyền đạo Tin Lành trái phép vào 
  14. vùng các đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên. Âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo  để lừa phỉnh, lôi kéo, mua chuộc, kích động, gây chia rẽ, ly khai hòng gây bạo loạn lật đổ, chống phá cách  mạng, đe dọa an ninh quốc gia, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc của nhân  dân ta.  Trong những năm gần đây, các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin Lành tăng cường các hoạt động truyền  giáo, lôi kéo, phát triển tín đồ trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đạo Tin Lành đã bành trướng rất nhanh trong  đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là, cùng với hoạt động truyền  bá đạo Tin Lành, thời gian qua đã có nhiều hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch trong và  ngoài nước chống phá Việt Nam. Núp bóng cái gọi là “Tin Lành Đề Ga”, chúng âm mưu thành lập một “nhà  nước Đề Ga tự trị”, chúng đã cài cắm, phát triển các cơ sở, tổ chức các hoạt động biểu tình, bạo loạn. Các  sự kiện diễn ra vào tháng 02 năm 2001 và tháng 04 năm 2004 ở các tỉnh Tây Nguyên (tập trung là những sự  biến xảy ra ở 2 tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk) là một trong những loại tình huống chính trị­xã hội cụ thể phản ánh  tính chất phức tạp, nhạy cảm trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên đó cũng chính  là quá trình giải quyết các lực cản, tạo lập những tiền đề, động lực cho sự phát triển bền vững ở các tỉnh Tây  Nguyên thời kỳ tiếp theo. Vì vậy, việc nhận diện "diễn biến hoà bình" trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, đi sâu nghiên cứu quá  trình hình thành, phát triển, những thủ đoạn, bản chất của chiến lược"diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế  quốc và các thế lực phản động, đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc  đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên là điều có ý nghĩa đặc biệt quan  trọng và hết sức cần thiết.
nguon tai.lieu . vn