Xem mẫu

  1. ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI C HÔM NAY VÀ TRONG TƯƠNG LAI PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ Vấn đề tìm hiểu và điều trị viêm gan siêu vi C tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh. 15 năm kể từ khi phát hiện viêm gan siêu vi C , tỉ lệ điều trị thành công tăng gấp 3 lần do kết hợp điều trị interferon với ribavirin , và gần đây là các interferon thế hệ mới . Sau đây chúng tôi sẽ bàn về phương cách điều trị mới , các chiến thuật tăng hiệu quả điều trị và những hướng phát triển trong tương lai. Điều trị viêm gan C còn rất nhiều khó khăn và phức tạp , nhất là nhóm genotype khó như: 1 , 1a, 1b.. Một số điều trị không thành công , hoặc bị tái phát sau khi ngưng thuốc. Một số thuốc kháng virus , ức chế tận đích virus , tác động l ên men proteas, polymerase….mang lại hy vọng cho bệnh nhân đã điều trị thất bại với Peginterferon + Ribavirin…..
  2. 1.Viêm gan siêu vi C mạn tính , nếu đã điều trị thất bại nên tái điều trị vì những lý do sau : (THÔNG TIN HỘI NGHỊ TIÊU HÓA – GAN MẬT HOA KỲ - CHICAGO 30/5 - 4/06/2009) · Trên thế giới có 170 triêu người nhiễm siêu vi C , nguyên nhân chủ yếu đưa đến xơ gan và chiểm tỉ lệ cao trong những người chờ ghép gan · Siêu vi C làm tăng nguy cơ ung thư gan · 50% trường hợp siêu vi C genotype 1 không đáp ứng điều trị và tái phát sau điều trị · Điều trị không thành công----siêu vi C tồn tại---tăng men ALT---xơ gan----ung thư gan 2. Yếu tố ảnh hưởng hiệu quả điều trị a/ Yếu tố đã biết: + Điều trị không liên tục + Liều dùng Ribazole không đủ + Genotype 1 + Lượng virus cao
  3. +Trong lượng cơ thể + Gan thấm mỡ , uống rượu b/Yếu tố mà các nhà khoa học mới biết gần đây: + HLA II của bệnh nhân + Kháng thể của bệnh nhân +Sự kháng insulin + Đột biến virus + Chủng loại virus + Yếu tố về gen của IFN + Sự chịu đựng của bệnh nhân PHẦN 2: ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C: I – CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C: (THÔNG TIN HỘI NGHỊ GAN MẬT CHÂU ÂU LẦN THỨ 44 COPENHAGEN- ĐAN MẠCH – 22/4-----26/4/2009) Hướng điều trị mới cho bệnh nhân khó điều trị ( genotype 1 , l ượng virus cao…..)
  4. 1 – Chất ức chế men Protease: -Telaprevir(VX-950): thuốc đang thủ nghiệm phase III, rất hiệu quả khi kết hợp Peg-IFN + Ribavirin điều trị viêm gan C genotype 1 -Boceprevir( SCH 503034) : thuốc đang thủ nghiệm phase II, rất hiệu quả khi kết hợp Peg-IFN + Ribavirin điều trị viêm gan C genotype 1 -TMC435350: thuốc đang thủ nghiệm phase II , có thể dùng đơn độc hay kết hợp Peg-IFN+Ribavirin làm giảm virus đáng kể trong điều trị viêm gan C genotype 1 - NS3/4 : Đây là các thuốc viên uống giúp cho điều trị viêm gan C khó điều trị: genotype 1 - Ciluprevir (BILN 2061) - ITMN -191 - ACH-806 2 – Chất ức chế men Polymerase: *Nucleoside
  5. -R1626: thuốc đang thủ nghiệm phase II , có thể dùng đơn độc hay kết hợp Peg- IFN+Ribavirin làm giảm virus đáng kể trong điều trị viêm gan C genotype 1 -R7128, R 1479 - NS5B : Đây là các thuốc viên uống , khi phối hợp Interferon làm tăng hiệu quả điều trị rất đáng kể , giúp điều trị hiệu quả cho các bệnh nhân đ ã thất bại điều trị trước đó: - Valopicitabine (NM 283) *Non-nucleoside: -HCV-796, 759 - GS-9190 3 – Chất tác động vào sự nhân đôi chính của siêu vi C -Nitazoxanide -Ức chế Cyclophilin B -GI-5005
  6. 4 – 1.Interferon:Albinterferon Alfa – 2B :Thời gian tác dụng dài , có thể dùng 2 tuần /1 lần hay 4 tuần/ 1 lần , ít tác dụng phụ, hiệu quả cho genotype 1 - Một số interferon đang nghiên cứu: Pegamax, Locteron, Omega interferon - Interferon và Ribavirin: · cIFN, Albumin IFN, Omega IFN · Taribavirin (Viramidine) 5 - Miễn dịch: Vaccin trị liệu, HCIg, Kháng thể đơn dòng 6 - Yếu tố tế bào đích: · Cyclophilin antagonists : DEBIO-25, NIM 811 · Celgosivir 7 - Ức chế NS5A : A-831 và A-689 => Các thuốc kháng siêu vi mới hy vọng: · Rút ngắn thời gian điều trị · Tăng cường đáp ứng bền vững đối với genotype 1 · Dùng cho bệnh nhân đã thất bại điều trị với Peg-IFN
  7. => THUỐC MỚI ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C: 1.Viramidine: là tiền thân của ribavirin với đặc điểm làm tăng sự hấp thu thuốc vào gan và giảm sự tiếp xúc xung quanh tế bào. Viramidine chuyển hóa thành ribavirin trong tế bào gan do men adenosine deaminase. Viramidine hạn chế tối đa sự tán huyết do ribavirin. Những nghiên cứu ban đầu cho thấy rằng Peg-interferon kết hợp viramidine cho hiệu quả tương tự như khi kết hợp ribavirin , nhưng sự tán huyết giảm đáng kể. 2. BILN 2061: là chất ức chế men protease NS3 có khả năng chống lại virus đặc biệt đã được dùng trong nhiều thử nghiệm lâm sàng ở nhiều nhóm bệnh nhân khác nhau: bệnh nhân mới điều trị, bệnh nhân đã thất bại với điều trị interferon, bệnh nhân diễn tiến xơ gan. Chỉ sau 48 giờ điều trị , lượng siêu vi C giảm từ 100---- 1000 lần so với trước điều trị ở hầu hết bệnh nhân genotype 1. Nếu chỉ điều trị ngắn rồi dừng lại thì lượng virus lại tăng trở lại. Hiệu quả điều trị phụ thuộc rất nhiều genotype của siêu vi . Việc nghiên cứu nhiều hơn bị dừng lại do độc tính cho tim được thấy ở vật nghiên cứu. Tuy nhiên nền tảng của cuộc nghiên cứu vẫn phát triển để giúp điều trị đồng nhiễm HIV. 3.NM283 : Là chất ức chế men polymerase NS5b . Cuộc nghiên cứu mới đây cho thấy sau 2 tuần điều trị lượng virus giảm từ 50----100 lần tùy theo liều điều trị. 4 .Thuốc mới giúp điều trị viêm gan siêu vi C(07/12/2009)
  8. Ed. - Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghi ên cứu sinh học và miễn dịch thuộc Tổ chức San Antonio (Texas, Mỹ) vừa cho biết họ đang thử nghiệm th ành công một loại thuốc mới nhằm điều trị chứng viêm gan siêu vi C (HCV). Đây là một trong những bệnh dễ đưa đến xơ gan và ung thư gan một cách nhanh chóng. Trong thử nghiệm này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một loại thuốc ức chế ở mức độ gen trong gan. Nó không tấn công trực tiếp lên virus mà chỉ ngăn cản sự sinh sôi nảy nở của loại virus này. Kết quả thử nghiệm trên cho thấy khi được điều trị với thuốc SPC3649 đã làm lượng HCV giảm xuống 350 lần. Quá trình điều trị cũng làm cho virus trở nên nhạy cảm hơn với các thuốc chống virus khác như interferon. Các nhà nghiên cứu hi vọng SPC3649 khi kết hợp thêm với interferon sẽ là một vũ khí mạnh có thể giúp loại trừ được virus nguy hiểm này. Theo Tuổi Trẻ III – ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C HIỆN TẠI: Pegylate interferon (alfa 2a và 2b) là thuốc điều trị chủ yếu nhất cho viêm gan siêu vi C mãn tính. Khi kết hợp với Ribavirin hiệu quả đạt được 54---63% . Người ta cũng thấy rằng genotype của siêu vi C có ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả điều
  9. trị. Genotype 1 chiếm đa số bệnh nhân ở Hoa Kỳ, th ường kháng với điều trị và ít đáp ứng điều trị so với genotyp 2,3. Những nghiên cứu cho thấy rằng genotype 1 nên điều trị 48 tuần peginterferon và ribavirin 1000—1200mg/ngày , genotype 2, 3 chỉ cần điều trị 24 tuần peginterferon và ribavirin 800mg. Bệnh nhân genotyp 3 đáp ứng điều trị kém hơn genotyp 2. Số lượng virus thấp , nhỏ hơn 2 triệu copy /ml máu thì đáp ứng điều trị tốt hơn số lượng virus nhiều. 1. Đáp ứng virus sớm : Khi bắt đầu điều trị genotype không thể giúp tiên đoán khả năng thành công, sự thay đổi nồng độ virus trong quá trình điều trị giúp tiên đoán hiệu quả điều trị và quyết định thời gian chấm dứt điều trị. Đáp ứng virus sớm được định nghĩa là sau 12 tuần điều trị , HCVRNA trở thành âm tính hay lượng siêu vi C giảm hơn 100 lần so với trước khi điều trị. Trong những cuộc nghiên cứu mới đây , điều trị Peginterferon , nếu bệnh nhân có hiện tượng đáp ứng virus sớm thì 97---100% sẽ thành công sau quá trình điều trị. Hiện tượng đáp ứng virus sớm , một phần nào phụ thuộc vào genotype của siêu vi C . Thật vậy , người ta thấy rằng bệnh nhân genotype 2, 3 hầu hết đều có hiện tượng đáp ứng virus sớm , vì vậy xem xét hiện tượng đáp ứng virus sớm ở
  10. genotype 2,3 có thể không cần thíêt . Tuy nhiên ở genotype 1 là rất cần thíêt , nếu sau 12 tuần điều trị , có hiện tượng đáp ứng virus sớm , sẽ tiếp tục điều trị, hy vọng bệnh nhân hết bệnh. Bệnh nhân không có hiện tượng đáp ứng virus sớm , phải xem xét , nếu lượng virus giảm hơn 10 lần mới tiếp tục điều trị , nếu không giảm hơn 10 lần phải chấm dứt điều trị và chuyển sang phương pháp điều trị khác. Trường hợp tiếp tục sau 24 tuần nếu HCVRNA âm tính thì điều trị cho đủ liệu trình 1 năm , nếu HCVRNA vẫn dương tính phải chấm dứt điều trị vì không đáp ứng. 2. Sự hạn chế của đáp ứng virus sớm: Việc hiểu và áp dụng hiện tượng đáp ứng sớm để quyết định điều trị phải hết sức cẩn thận .Trong một số bệnh nhân tuy không đáp ứng điều trị hoàn tòan là mất siêu vi nhưng tế bào gan cũng được cải thiện , ngăn chận tiến trình xơ gan , giảm biến chứng của các bệnh ngoài gan. Thêm vào đó dấu hiệu đáp ứng virus sớm có thể xuất phát từ một số thử nghiệm lâm sàng , có thể không đúng cho tất cả các nhóm bệnh nhân . Thông tin đáp ứng virus sớm ứng dụng nhiều ở những nhóm bệnh nhân: đồng nhiễm HIV , ng ười Mỹ gốc Phi , bệnh nhân ghép gan với HCV tái phát. Sau cùng những phân tích này định nghĩa đáp ứng virus sớm khi lượng virus giảm hơn 100 lần so với trước điều trị ở tuần thứ 12 . Trong thực tế sự thay đổi của virus có thể không r õ ràng do sự
  11. thay đổi những thử nghiệm HCV. Ở genotype 1 sự giảm virus chỉ có thể từ 10 lần - ---50 lần , không đạt đến 100 lần ở tuần 12 , phải đánh giá ở tuần 24 trước khi quyết định chấm dứt điều trị. IV – CÁC PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C MỚI: A - TIẾN BỘ MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ VI ÊM GAN C MÃN TÍNH THÔNG TIN HỘI NGHỊ GAN MẬT CHÂU ÂU (EASL 2006) 26-30/04/2006 tại VIENNA- ÁO 1.Peg-interferon alfa -2a phối hợp Ribavirin hiệu quả điều trị bệnh nhân vi êm gan C mãn tính sau ghép gan , giúp ngăn ngừa tái phát bệnh và bảo vệ gan mới ghép. 2. Peg-interferon alfa -2a phối hợp Ribavirin điều trị cho bệnh nhân viêm gan C type 1 hay 4 , nếu sau 4 tuần điều trị , HCVRNA giảm hơn 100 lần hay âm tính , có thể chấm dứt điều trị sớm 24 tuần thay vì 48 tuần. 3.VX -950 là thuốc viên uống , hiệu quả điều trị siêu vi C , dùng kết hợp Peg- Interferon cho hiệu quả cao 4.Valopicitabine kết hợp Peg-Interferon alfa-2a hiệu quả hơn Peg-interferon alfa - 2a phối hợp Ribavirin , đặc biệt đối với những bệnh nhân HCV type 1 đ ã thất bại với những điều trị trước đó.
  12. 5.SCH 503034 kết hợp Peg-Interferon alfa-2a hiệu quả hơn Peg-interferon alfa -2a phối hợp Ribavirin , đặc biệt đối với những bệnh nhân HCV type 1 đã thất bại với những điều trị trước đó. 6. Đối với bệnh nhân HCV genotype 2, 3 có thể dùng Ribavirin liều thấp 400 mg/ ngày nhưng vẫn hiệu quả 7. Albuferon : Intefreron có gắn albumin người , kết hợp Ribavirin hiệu quả điều trị cho bệnh nhân siêu vi C khó điều trị đã thất bại với những điều trị trước đó , đặc biệt có thể dùng theo phác đồ tiêm 2 tuần /lần hay 4 tuần / lần 8. Vaccin ngừa siêu vi C đang nghiên cứu E 1E 2/ MF 59 C.1 thấy có hiệu quả trên vật thí nhiệm , hứa hẹn trong trong lai chúng ta sẽ có vaccin ngừa viêm gan C hiệu quả. B - THÔNG TIN HÔI NGHỊ GAN MẬT CHÂU ÂU LẦN THỨ 43 MILAN- ITALY- 23/04-------27/04/2008 Có thể dùng Peg-Interferon liều thấp điều trị duy trì nhằm cải thiện tế bào gan , hạn chế giảm các dòng tế bào máu bằng cách kết hợp yếu tố tăng tr ưởng (G-CSF) và yếu tố kích thích tăng hồng cầu (EPO) => Phác đồ chuẩn hiện tại điều trị viêm gan C : Interferon hay Peg-Interferon kết hợp Ribavirin
  13. Tuy nhiên phác đồ này ít bệnh nhân Việt Nam theo đuổi điều trị vì: giá thành cao , nhiều tác dụng phụ…..Nhiều loại thuốc viên dạng uống ,dễ sử dụng đang được nghiên cứu: -NM 283 : là thuốc viên uống dễ sử dụng , hiệu quả tốt cho siêu vi C genotype 1 , hoặc những bệnh nhân đã điều trị that bại với Interferon - NM 107 : thuốc viên uống , hiệu quả kháng siêu vi rất cao , hiệu quả càng tăng nếu kết hợp Interferon. * Nếu người nhiễm siêu vi C kết hợp nhiễm HIV thì dự hậu rất xấu và khó điều trị, bệnh nhân nhiễm siêu vi C , khuyên nên: -Truy tìm HIV -Khuyên không nên dùng rượu , bia -Nên tiêm ngừa: siêu vi A , siêu vi B C -THÔNG TIN HỘI NGHỊ GAN MẬT HOA KỲ San Francisco California – 31/10 - 3/11/2008 Bệnh nhân viêm gan C mạn đã thất bại với điều trị trước , khi tái điều trị phải nhận định: - Sự chịu đựng của điều trị trước: ảnh hưởng tác dụng phụ
  14. - Phác đồ điều trị trước : Interferon hay Peg-Interferon , đơn thuần hay kết hợp Ribavirin - Loại đáp ứng: · Hầu như không hiệu quả · Đáp ứng một phần · Phản ứng dội của siêu vi · Tái phát - Bệnh nhân: · Chủng tộc · Genotype · Mức độ tổn thương gan , có hay không có kèm gan thấm mỡ · Trạng thái tâm thần D - THÔNG TIN HỘI NGHỊ TIÊU HÓA - GAN MẬT HOA KỲ NĂM 2007 Washington, DC. 19/05 - 24/05/2007
  15. 1.Vấn đề điều trị viêm gan C hiện nay còn gặp nhiều khó khăn , một số bệnh nhân không đáp ứng điều trị , nhất là bệnh nhân genotype 1 , lượng virus cao , bệnh nhân béo phì. Đối với những bệnh nhân khó nh ư vậy, các khuyến cáo được đưa ra như sau: _ Phối hợp : Peg-Interferon+ Ribavirin+ Thymosin-alfa _Peg-Interferon + Ribavirin với liều cả hai đếu tăng gấp đôi _ Một số thuốc viên uống mới ra đời : ức chế men protease, ức chế men polymerase: R 1626, HCV-796… Phối hợp các thuốc viên này với Peg-Interferon hay Peg-Interferon+ Ribavirin 2. Vấn đề bệnh nhân tái phát sau khi ngưng điều trị cũng là vấn đề đáng lo lắng : vì vậy để hạn chế tái phát , các bệnh nhân genotype 1 nên điều trị 18 tháng thay vì 12 tháng. Các bệnh nhân tái phát , khi điều trị lại phải kéo d ài thời gian điều trị ít nhất 18 tháng. E - THÔNG TIN HỘI NGHỊ GAN –MẬT HOA KỲ BOSTON 27--- 31/10/2006 + Bệnh nhân viêm gan siêu vi C genotype 1 bị tái phát sau điều trị, có thể dùng: CPG 10101 (ACTILON) + Pegylated Interferon ± Ribavirin
  16. + Bệnh nhân viêm gan C genotype 1 chưa từng điều trị , có thể dùng: Valcopicitabine (NM283) + Peginterferon , sẽ làm sạch virus sau 24 tuần điều trị. + PF-03491390 làm giảm ALT hiệu quả trong bệnh nhân viêm gan C mãn tính họat động V – MỘT SỐ KHUYNH HƯỚNG MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C * Trong những trường hợp nhiễm siêu vi C , men gan bình thường , qua sinh thiết gan người ta vẫn thấy có tổn thương gan , những trường hợp này vẫn diễn tiến xơ gan , ung thư gan ….. Do đó nên điều trị những trường hợp này. Người ta thấy ràng với Peg-interferon phối hợp Ribavirin rất có hiệu quả trong trường hợp viêm gan siêu vi C , men gan bình thường. * Peg-inteferon alfa-2b và Ribavirin điều trị viêm gan C typ 2, 3 . hiệu quả điều trị 12 tuần so với 24 tuần Một nghiên cứu ngẫu nhiên 283 bệnh nhân siêu vi C type 2,3 điều trị bằng Peg- inteferon alfa-2b và Ribavirin . Trong nhóm này 70 bệnh nhân điều trị 24 tuần(nhóm I) , 213 bệnh nhân c òn lại (nhóm II)nếu HCVRNA âm tính sau 4 tuần chỉ điều trị tiếp tục cho đến 12 tuần rồi chấm dứt , nếu HCVRNA d ương tính sau 4 tuần thì điều trị 24 tuần. Ở tuần thứ 4 ,64% bệnh nhân nhóm I có HCVRNA âm
  17. tính , 62% nhóm II có HCVRNA âm tính. Tỉ lệ điều trị thành công lâu dài ở nhóm I 76% và nhóm II là 77%, tỉ lệ tái phát tương tự 2 nhóm. Điều này cho thấy rằng nếu bệnh nhân siêu vi C type 2,3 mà điều trị HCVRNA âm tính sau 4 tuần đầu chỉ cần điều trị 12 tuần thay vì 24 tuần. 1 – Những yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng tối đa: Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có những yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đối với điều trị kháng virus để đạt được hiệu quả cao . Sự ngăn cản lớn nhất là tác dụng phụ của Interferon và Ribavirin. Trong vô số tác dụng phụ , tác dụng phụ về tâm thần kinh là phải chấm dứt điều trị sớm . Sự giảm liều của Peginterferon thuờng là giảm bạch cầu , giảm liều Ribavirin là do thiếu máu. Sự giảm liều ít ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị hơn là chấm dứt điều trị sớm . Những nghi ên cứu cho thấy rằng liên quan sự giảm liều phụ thuộc vào yếu tố để giảm liều. Những bệnh nhân diễn tiến xơ gan hay xơ gan đã thất bại với điều trị kháng virus tr ước đây được tái điều trị với Peg-interferon alfa và Ribavirin , tỉ lệ điều trị thành công thấy chỉ 28% đối với người trước đó điều trị chỉ Interferon , 12% ở người trước đó điều trị Interferon và Ribavirin . Một quan sát quan trọng cho thấy rằng việc giảm liều ribavirin sớm trong vòng 20 tuần đầu điều trị , hứa hẹn thành công sau điều trị hơn là giảm liều Ribavirin trễ hoặc là giảm liều Peginterferon . Những bệnh nhân đã điều trị đầy đủ Interferon và Ribavirin tái điều trị Peg-interferon và Ribavirin nên được chọn lựa kỹ lưỡng , chỉ điều trị bệnh nhân thất bại điều trị do tác dụng phụ hay lý do khác , không nên điều trị bệnh nhân đã kháng interferon nguyên phát .
  18. Cuộc tranh luận đang tiếp diễn về cách giải quyết tốt sự thiếu máu do ribavirin gây ra. 2 – Dùng Epoeitin alfa hạn chế tối thiểu giảm liều do Ribavirin Những thử nghiệm lâm sàng trước đây ngăn cấm dùng yếu tố tăng trưởng, chẳng hạn epoetin alfa hoặc dùng yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt để duy trì điều trị khi có giảm tế bào máu trong quá trình điều trị. Mới đây Afdhal và cộng sự đã công bố kết quả của thử nghiệm lâm sàng dùng Epoetin alfa trong trường hợp thiếu máu do dùng ribavirin . Khi dùng Epoetin alfa không cần giảm liều ribavirin khi Hb< 12g/dl , bệnh nhân cảm thấy thoải mái , dễ chịu và khỏe hơn . Tuy nhiên nghiên cứu này chưa nói rõ ảnh hưởng của Epoetin alfa đối với đáp ứng điều trị sau cùng. Vì vậy khi dùng Epoetin phải nghiên cứu kỹ hơn , chọn bệnh nhân để điều trị cho thích hợp , trước khi đưa vào sử dụng thường qui cho tất cả bệnh nhân thiếu máu 3 – Thông tin về những nhóm bệnh nhân đặc biệt Bệnh nhân viêm gan siêu vi C với đặc điểm địa lý khác nhau , đặc điểm bệnh khác nhau , yếu tố di truyền …….. thì đáp ứng điều trị khác nhau. Đáp ứng điều trị rất khác ở những nhóm bệnh nhân đặc biệt: đồng nhiễm HIV, người Mỹ gốc Phi , bệnh nhân lọc thận………cần có những nghi ên cứu kỹ hơn mới biết rõ đáp ứng đặc biệt ở những nhóm bệnh nhân này.
  19. 4 – Đáp ứng điều trị ở những bệnh nhân men gan bình thường: Người ta đã thực hiện nhiều nghiên cứu ở nhóm bệnh nhân nhiễm siêu vi C , men gan bình thường . Những bệnh nhân này được điều trị với Peg-interferon alfa-2a 180mcg/ tuần + Ribavirin 800mg/ngày trong 24 tuần hay 48 tuần . Đáp ứng điều trị 30% ở nhóm dùng 24 tuần , 52% ở nhóm dùng 48 tuần . Như vậy thuật ngữ ‘men gan luôn bình thường’ thật là sai lầm vì người ta thấy có sự tăng men gan thoáng qua trong quá trình điều trị. 5 – Đáp ứng điều trị ở nhóm bệnh nhân Genotype 1 và lượng virus cao: Bệnh nhân genotype 1 và lượng siêu vi cao thường thấy ở bệnh nhân viêm gan C , đặc biệt chiếm phân nửa bệnh nhân viêm gan C ở Mỹ. Tỉ lệ đáp ứng điều trị ở nhóm bệnh nhân này thấp. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng đáp ứng điều trị cao hơn khi dùng Peg-interferon+Ribavirin so với dùng Interferon+Ribavirin. Tỉ lệ đáp ứng điều trị tăng từ 32% khi dùng Interferon+Ribavirin lên 41---46% khi dùng Peg-interferon + Ribavirin . Mặc dù vậy vẫn thấy phân nửa bệnh nhân không đáp ứng điều trị. Vì vậy, nhóm bệnh nhân này cần có cách điều trị mới hơn : thuốc mới, kéo dài thời gian điều trị , tăng liều ribavirin 6 – Đáp ứng điều trị Peg – Interferon + Rinbavirin ở bệnh nhân đồng nhiễm HCV + HIV
  20. Bệnh nhân nhiễm HCV+HIV có đặc điểm lâm sàng đặc biệt . Những bệnh nhân này có nguy cơ phải ngưng điều trị vì nhiễm acid lactic , thiếu máu , ngộ độc gan ……..Những bệnh nhân này dễ đưa đến diễn tiến nặng hay tử vong do bệnh gan nhiều hơn là do HIV . Đáp ứng điều trị tốt hơn khi dùng Peg-interferon+ribavirin so với Interferon+ribavirin. Tỉ lệ đáp ứng điều trị thấp hơn là chỉ nhiễm HCV mà thôi. Đáp ứng điều trị thấp ở nhóm bệnh nhân này do giảm liều Ribavirin hay do tác nhân kháng thuốc cần được nghiên cứu kỹ hơn. Người ta thấy rằng khỏang 30% bệnh nhân nhiễm HIV có nhiễm HCV. Peginterferon kết hợp Ribavirin là điều trị thích hợp cho bệnh nhân đồng nhiễm HCV và HIV. Đáp ứng bền vững đạt được từ 27%----40%. Bệnh nhân HIV cần được giáo dục để hạn chế nhiễm HCV. 7 – Đáp ứng điều trị Peg – Interferon + Rinbavirin ở bệnh nhâ người Mỹ gốc Phi Đáp ứng điều trị với Peg-interferon+ribavirin hay Interferon+ribavirin rất thấp ở người Mỹ gốc Phi so với người châu Au. Nghiên cứu mới đây dùng Peg-interferon alfa –2a 180mcg/tuần+Ribavirin 1000-1200mg/ngày , tất cả đều genotyp 1 , điều trị trong 48 tuần , tỉ lệ đáp ứng điều trị người Mỹ gốc Phi là 26% , người châu Au
nguon tai.lieu . vn