Xem mẫu

  1. CÁC VI KHUẨN GÂY BỆNH NGOÀI LAO TÓM TẮT Mở đầu: Nhiễm khuẩn là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra các đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT). Mục tiêu: Khảo sát các tác nhân vi khuẩn gây bệnh ngoài lao và độ nhạy cảm kháng sinh của các vi khuẩn này với các kháng sinh thông thường. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cấy định lượng các bệnh phẩm đàm và dịch rửa phế quản ở các bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp BPTNMT tại BV Phạm Ngọc Thạch được thực hiện từ 11/2006 đến 04/2007. Kết quả: Có 105 bệnh nhân với 110 các đợt cấp BPTNMT (độ tuổi trung bình 69,7 ± 10,9, 97 nam) được nghiên cứu. Phân lập được vi khuẩn gây bệnh ở 55 trường hợp (50%). Các vi khuẩn thường được phân lập: trực trùng gram âm không lên men đường chiếm 50,9% (28/55), tiếp theo là trực trùng đường ruột gram âm chiếm 25,5% (14/55) và Haemophilus influenzae chiếm 23,6% (13/55) các chủng phân lập được. Các tác nhân vi khuẩn mắc phải từ cộng đồng tương đối còn nhạy cảm với các kháng sinh thông thường, ngoại trừ Ampicillin, Trimethoprim-sulfamethoxazol.
  2. Kết luận: Các tác nhân vi khuẩn mắc phải từ bệnh viện đề kháng với rất nhiều loại kháng sinh. ABSTRACT Background: Bacterial infection is one of the major causes of acute exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease (AECOPD). Purpose: This prospective study was undertaken to determine potential pathogenic microorganisms (PPMs) except Mycobacteria and their susceptibility to commonly used antimicrobial agents. Method: Quantitative cultures from sputum and bronchoalveolar lavage of patients with AECOPD admitted to Pham Ngoc Thach hospital were performed from 11/2006 to 04/2007. Results: 105 patients with 110 episodes of AECOPD (mean age 69,7 ± 10,9, 97 males) were studied. PPMs were isolated from patients in 55 (50%) episodes of AECOPD. The predominant bacteria were glucose non- fermentative gram-negative bacilli (NFGNB) in 50.9% (28/55), followed by gram-negative enteric bacilli (GNEB) in 25.5% (14/55) and Haemophilus influenzae in 23.6% (13/55) of isolates. Community-acquired pathogens were susceptible to commonly used antimicrobial agents, except Ampicillin, Trimethoprim-sulfamethoxazol.
  3. Conclusion: Hospital-acquired pathogens were resistant to many commonly used antimicrobial agents. ĐẶT VẤN ĐỀ Các bệnh nhân BPTNMT thường xuất hiện các đợt cấp, đặc trưng bởi ho nhiều hơn, khạc đàm mủ và khó thở nhiều hơn. Các đợt cấp của bệnh là nguyên nhân chủ yếu về bệnh suất và tử vong và ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống của các bệnh nhân(20). Tuy các cơ chế gây ra các đợt cấp chưa được hiểu rõ, nhưng khả năng nhiễm trùng do vi khuẩn góp phần vào quá trình sinh bệnh học của các đợt cấp BPTNMT đã được nhận biết(4). Mặc dù vai trò nhiễm trùng do vi khuẩn vẫn còn đang bàn cãi, tuy nhiên các tác nhân vi khuẩn gây bệnh có thể được phân lập với mật độ đáng kể ở đường hô hấp dưới chiếm khoảng 40-60% các đợt cấp BPTNMT(26). Kháng sinh trị liệu đã được sử dụng với sự nỗ lực thúc đẩy khả năng hồi phục từ một đợt cấp. Một vài nghiên cứu đã cho thấy sự cải thiện đáng kể với kháng sinh trị liệu(1, 24). Tuy nhiên kháng sinh thường được chỉ định theo kinh nghiệm. Các tiêu chuẩn về điều trị các đợt cấp đã được công bố(7), nhưng sự thay đổi khắp nơi trên thế giới về việc sử dụng kháng sinh và các loại vi khuẩn đã được quan sát(9). Dữ liệu hiện nay về vi khuẩn học liên quan đến đợt cấp BPTNMT chủ yếu xuất phát từ các nước phương Tây. Tác nhân vi khuẩn gây bệnh trong
  4. đợt cấp BPTNMT và sự đề kháng kháng sinh của chúng ở Việt Nam và các nước châu Á khác vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng. Để góp phần hiểu rõ hơn về các tác nhân vi khuẩn gây bệnh trong các đợt cấp BPTNMT, qua đó khảo sát sự nhạy cảm của chúng đối với các kháng sinh thông thường, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các tác nhân vi khuẩn gây bệnh ngoài lao ở các bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp BPTNMT tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, với hy vọng từ những kết quả thu đ ược có thể giúp các bác sĩ lâm sàng hướng đến việc lựa chọn kháng sinh ban đầu cho các bệnh nhân đợt cấp BPTNMT. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu Dân số nghiên cứu Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang với cỡ mẫu khoảng 97 bệnh nhân ≥ 18 tuổi nhập viện vì đợt cấp BPTNMT tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 11/2006 đến 04/2007. Tiêu chuẩn đưa vào là bệnh nhân được chẩn đoán đợt cấp BPTNMT theo GOLD 2006(7), không mắc bệnh lao (X quang phổi không có hình ảnh nghi ngờ lao, soi đàm AFB âm tính, cấy đàm vi khuẩn lao âm tính). Tiêu chuẩn loại trừ là bệnh nhân mắc bệnh lao (X quang phổi có hình ảnh nghi ngờ lao, soi đàm AFB dương tính hoặc cấy đàm vi khuẩn lao dương tính).
  5. Phương pháp tiến hành Vật liệu Tất cả các vật liệu được cung cấp bởi công ty Nam Khoa (ISO 9001: 2000): môi trường nuôi cấy (Blood Agar, Mac Conkey Agar, Chocolate Agar Haemophilus influenzae có bổ sung yếu tố XV và bacitracin), môi trường làm kháng sinh đồ (Mueller Hinton Agar, Mueller Hinton Agar + 5% máu cừu đối với Streptococcus pneumoniae, môi trường Haemophilus Test Medium (HTM) đối với Haemophilus influenzae), bộ kit thử nghiệm sinh hóa định danh trực khuẩn gram âm IDS 14 GNR, các đĩa giấy kháng sinh (chọn lựa theo Viện tiêu chuẩn các phòng thí nghiệm lâm sàng (CLSI)(3) và là các kháng sinh đang sử dụng tại BV Phạm Ngọc Thạch); chất làm tan đàm 1,4-Dithiothreitol được cung cấp bởi hãng Merck. Kỹ thuật xét nghiệm Quan sát đại thể bệnh phẩm, làm phết tiêu bản nhuộm gram, đánh giá chất lượng mẫu đàm theo tiêu chuẩn của Murry & Washington(6), quan sát sơ khởi về các đặc điểm của vi khuẩn, cấy định lượng bệnh phẩm trên các môi trường Mac Conkey Agar (ủ 37 oC), Blood Agar (sau khi cấy xong đặt thêm 1 đĩa Optochin) và Chocolate Agar Haemophilus influenzae (ủ 37oC / CO2 5 – 8%), tiến hành định danh vi khuẩn trong trường hợp ≥ 107 vi khuẩn/ml đàm(17), ≥ 104 vi khuẩn/ml dịch rửa phế quản(22) và làm kháng sinh đồ vi
  6. khuẩn ngoài lao theo phương pháp khuếch tán kháng sinh trên thạch (Kirby – Bauer)(12); đánh giá kết quả thử nghiệm kháng sinh đồ dựa vào đường kính vòng kháng khuẩn theo tiêu chuẩn của CLSI (Hoa Kỳ)(3). Tiêu chuẩn phân loại nhiễm khuẩn cộng đồng và nhiễm khuẩn bệnh viện Theo(11, 30) , chúng tôi phân loại: nhiễm khuẩn cộng đồng (NKCĐ) có thời gian từ lúc bệnh nhân nhập viện đến khi nhận bệnh phẩm cấy ≤ 48 giờ, nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) có thời gian từ lúc bệnh nhân nhập viện đến khi nhận bệnh phẩm cấy > 48 giờ. Phương pháp thu thập số liệu Người thu thập số liệu là người nghiên cứu cùng các bác sĩ và kỹ thuật viên phòng xét nghiệm vi khuẩn ngoài lao bệnh viện Phạm Ngọc Thạch với phương tiện thu thập là bảng thu thập số liệu. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Nhập số liệu, xử lý thống kê và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5. KẾT QUẢ Tổng số mẫu nghiên cứu là 110 (105 bệnh nhân, có 5 trường hợp bệnh nhân nhập viện lần hai). Mẫu nghiên cứu có độ tuổi từ 32 – 92, trung bình là 69,7
  7. ± 10,9; phần lớn (80%) bệnh nhân trên 60 tuổi và bệnh nhân nam chiếm đa số (88,2%). Phân lập được vi khuẩn gây bệnh chiếm 50% các trường hợp, trong đó NKCĐ chiếm 60% (33/55), NKBV chiếm 40% (22/55). Nhóm NFGNB chiếm tỉ lệ cao nhất 50,9% (28/55), tiếp theo là nhóm vi khuẩn đường ruột chiếm 25,5% (14/55), Haemophilus influenzae chiếm 23,6% (13/55) chủng phân lập được (bảng 1). Bảng 1: Phân bố tác nhân vi khuẩn gây bệnh NKBV Tổng cộng NKCĐ Tác nhân vi khuẩn gây bệnh (n = 33) (n = 22) (n = 55) Nhóm trực khuẩn gram âm không lên men đường 13 (39,4) 15 (68,2) 28 (50,9) (NFGNB) 4 (12,1) 6(27,3) 10 (18,2) Pseudomonas aeruginosa 5 (22,7) 8 (14,5) 3 (9,1) Pseudomonas spp. khác 4 (12,1) 4 (18,2) 8 (14,5) 0 Acinetobacter spp. 2 (6,1) 2 (3,6) Stenotrophomonas maltophilia Nhóm trực khuẩn đường ruột (GNEB) 10 4 (18,2) 14 (25,5)
  8. Klebsiella pneumoniae (30,3) 3 (13,6) 6 (10,9) Enterobacter spp. 3 (9,1) 0 4 (7,3) Escherichia coli 4 (12,1) 0 2 (3,6) Serratia spp. 2 (6,1) 1 (4,5) 2 (3,6) 1 (3,0) 10 Haemophilus influenzae 3 (13,6) 13 (23,6) (30,3)
  9. Phân tích độ nhạy cảm kháng sinh của các vi khuẩn gây NKCĐ (bảng 2), chúng tôi nhận thấy phần lớn (7/10) chủng H. influenzae phân lập được nhạy cảm với các loại kháng sinh thông thường, ngoại trừ Ampicillin (10/10 chủng đề kháng) và Trimethoprim-sulfamethoxazole (9/10 chủng đề kháng). Đối với nhóm GNEB, đa số (7/10) chủng phân lập được nhạy cảm với các kháng sinh: Ticarcillin-clavulanic acid, các cephalosporin thế hệ III, IV, Imipenem, các aminoglycoside và quinolone; tất cả các chủng phân lập được đều đề kháng với Ampicillin. Đối với nhóm NFGNB, phần lớn (8/13) chủng nhạy cảm với các kháng sinh: Ticarcillin-clavulanic acid, Cefoperazone, Ceftazidime, Cefepime, Imipenem, các aminoglycosige và quinolone. Qua phân tích độ nhạy cảm kháng sinh của các vi khuẩn gây NKBV, trong số 15 chủng vi khuẩn phân lập đ ược thuộc nhóm NFGNB, 9-10 chủng chỉ còn nhạy với Ticarcillin-clavulanic acid và Imipenem; 5-7 chủng nhạy cảm với các kháng sinh: Cefoperazone, Ceftazidime, Cefepime, các aminoglycoside và quinolone; đặc biệt, nhóm vi khuẩn này có tỉ lệ đề kháng rất cao đối với Cefotaxime, Ceftriaxone (13-14 chủng đề kháng). Trong số 6 chủng Pseudomonas aeuginosa phân lập được (bảng 3), có 4 chủng nhạy cảm với các loại kháng sinh: Ticarcillin-clavulanic acid, Imipenem, các aminoglycoside và quinolone; các vi khuẩn này có tỉ lệ đề kháng cao với Cefotaxime và Ceftriaxone (5/6 chủng phân lập được). Chỉ còn 2 trong số 4
  10. chủng Acinetobacter spp. phân lập được nhạy cảm duy nhất với Imipenem; các vi khuẩn này đề kháng với hầu hết các kháng sinh thường được sử dụng (≥ 3/4 chủng đề kháng). Trong số 3 chủng Klebsiella pneumoniae phân lập được, 2/3 chủng nhạy cảm với các loại kháng sinh: Cefepime, Imipenem, các aminoglycoside và quinolone; 2/3 chủng đề kháng với các kháng sinh: Ampicillin, Amoxicillin-clavulanic acid, các cephalosporin thế hệ II, III và Trimethoprim-sulfamethoxazole. Bảng 2: Kết quả kháng sinh đồ của nhóm vi khuẩn gây nhiễm khuẩn cộng đồng H. NFGNB GNEB influenzae(n = 13) (n = Kháng sinh (n = 10) 10) S R S I R S IR Ampicillin 0 10 0 0 10 Amoxicillin- 10 0 5 05 clavulanic acid Ticarcillin- 12 1 0 9 0 1 clavulanic acid
  11. Cefaclor 9 1 6 13 Cefuroxime 10 0 3 34 Cefoperazone 10 0 8 4 1 7 12 Cefotaxime 10 0 1 7 5 7 21 Ceftazidime 10 0 9 2 2 9 01 Ceftriaxone 10 0 3 3 7 7 21 Cefepime 10 0 9 2 2 10 0 0 Imipenem 10 0 11 0 2 10 0 0 Amikacin 11 0 2 10 0 0 Gentamicin 11 0 2 8 0 2 Ciprofloxacin 7 3 9 1 3 8 02 Levofloxacin 9 1 10 0 3 9 0 1 Ofloxacin 8 2 Trimethoprim- 1 9 6 04 sulfamethoxazole
  12. Bảng 3: Kết quả kháng sinh đồ của nhóm vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện P. AcinetobacterK. aeuginosa sp. pneumoniae Kháng sinh (n = 3) (n = 6) (n = 4) S I RS I R S I R Ampicillin 0 03 Amoxicillin- 1 02 clavulanic acid Ticarcillin- 4 020 1 3 1 11 clavulanic acid Cefaclor 1 02 Cefuroxime 0 12 Cefoperazone 2 040 0 4 1 02 Cefotaxime 0 150 0 4 1 02 Ceftazidime 3 030 0 4 1 02
  13. P. AcinetobacterK. aeuginosa sp. pneumoniae Kháng sinh (n = 3) (n = 6) (n = 4) S I RS I R S I R Ceftriaxone 0 150 0 4 1 02 Cefepime 3 030 1 3 2 01 Imipenem 4 022 0 2 3 00 Amikacin 4 020 0 4 2 01 Gentamicin 4 021 0 3 2 01 Ciprofloxacin 4 020 0 4 2 01 Levofloxacin 4 020 0 4 2 01 Trimethoprim- 1 02 sulfamethoxazole BÀN LUẬN Nhiễm khuẩn đóng một vai trò quan trọng trong các đợt cấp BPTNMT. Có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới bằng các kỹ thuật chẩn đoán
  14. khác nhau chẳng hạn như cấy định lượng các bệnh phẩm được lấy từ dịch hút khí phế quản, chải phế quản có bảo vệ, dịch rửa phế quản phế nang và đàm đã chứng minh rằng ít nhất 50% bệnh nhân có các vi khuẩn với mật độ cao ở đường hô hấp dưới trong các đợt cấp BPTNMT(2, 8, 15, 18, 23, 25). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ phân lập được vi khuẩn gây bệnh cũng tương tự các nghiên cứu này là 50% với ngưỡng nồng độ vi khuẩn/ml đàm và dịch rửa phế quản lần lượt là ≥ 107 và ≥ 104 để phân biệt sự cư trú của vi khuẩn và nhiễm trùng thật sự. Rasmussen và cộng sự(22) đã cho thấy với một giá trị ngưỡng nuôi cấy dương tính ≥ 104 vi khuẩn/ml, độ đặc hiệu của nuôi cấy tác nhân vi khuẩn gây bệnh trong dịch rửa phế quản liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp dưới thật sự là 100%. Theo Monroe và cộng sự(17), vi khuẩn liên quan đến một nhiễm trùng đường hô hấp dưới hiện diện ở nồng độ ≥ 107 vi khuẩn/ml đàm; quần thể vi khuẩn bình thường và các vi khuẩn cơ hội ở miệng được tìm thấy trong đàm trước điều trị có nồng độ ≤ 106 vi khuẩn/ml. Wilson và Martin(29) đã cho thấy sử dụng ngưỡng nồng độ ≥ 107 vi khuẩn/ml đàm đã giảm số báo cáo kết quả cấy đàm dương tính giả từ 36% xuống còn 13%. Kết quả nuôi cấy dương tính giả sẽ làm cho các bác sĩ điều trị hiểu sai và dẫn đến sự điều trị kháng sinh không cần thiết. Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi đã phân lập được 55 chủng: nhóm NFGNB (Pseudomonas spp., Acinetobacter spp., Stenotrophomonas
  15. maltophilia) chiếm tỉ lệ cao nhất 50,9% (28/55), nhóm GNEB (Klebsiella pneumoniae, Escherichia coli, Enterobacter spp., Serratia spp.) chiếm 25,5% (14/55) và Haemophilus influenzae chiếm 23,6% (13/55). Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh sự khác nhau đáng kể về tỉ lệ các tác nhân vi khuẩn gây bệnh ở nhóm bệnh nhân này có thể liên quan đến tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu, các kỹ thuật cấy bệnh phẩm và các yếu tố môi trường hoặc dịch tễ học. Các tỉ lệ phân lập cao về nhóm NFGNB và nhóm GNEB ở nghiên cứu này lại trái ngược nhiều với các nghiên cứu khác(8, 13, 14). Trong 50 bệnh nhân đợt cấp BPTNMT cần có sự thông khí cơ học, Soler và cộng sự(27) đã rằng tỉ lệ phân lập các GNEB và tìm ra Pseudomonas/Stenotrophomonas spp. là 44% (15/34). Gần đây, có hai nghiên cứu cũng đã chứng minh sự gia tăng tỉ lệ phân lập được các trực trùng gram âm ở đợt cấp BPTNMT(15, 16). Người ta không biết hoặc điều này có liên quan đến áp lực chọn lọc kháng sinh, sự phơi nhiễm với quần thể vi khuẩn trong bệnh viện, hoặc mức độ tổn thương miễn dịch của ký chủ. Do đó, nên thận trọng trong việc chọn lựa kháng sinh trị liệu thích hợp ở các bệnh nhân này. Về phân tích độ nhạy cảm của các vi khuẩn với các loại kháng sinh khác nhau, ở nhó m vi khuẩn gây NKCĐ, H. influenzae là tác nhân thường được phân lập nhất. Nhìn chung, đa số các chủng phân lập được đều nhạy cảm với
  16. các kháng sinh thông thường, ngoại trừ Ampicillin và Trimethoprim- sulfamethoxazole, H. influenzae đã đề kháng rất nhiều (≥ 9/10 chủng). Theo nghiên cứu của Delmée và cộng sự vào năm 1994-1995(5), hơn 80% các chủng H. influenzae phân lập được từ các bệnh phẩm đường hô hấp vẫn còn nhạy với các kháng sinh thường được sử dụng (Ampicillin , Amoxicillin- clavulanic acid, Cefaclor, Cefuroxime, Cefotaxime). Trong nghiên cứu của Jacobs và cộng sự vào năm 1998-2000(10), tỉ lệ H. influenzae gây NKCĐ phân lập được đề kháng với Ampicillin là khoảng 17%. Theo nghiên cứu của Phạm Hùng Vân và cộng sự vào năm 2003-2005(21), H. influenzae phân lập được đề kháng Ampicillin (49%), đề kháng Trimethoprim-sulfamethoxazole (60%). Qua đó cho thấy, tỉ lệ vi khuẩn H. influenzae kháng Ampicillin và Trimethoprim-sulfamethoxazole ngày càng gia tăng. Có lẽ do đây là những kháng sinh thường được các bác sĩ chỉ định cho các bệnh nhân nhiễm khuẩn hô hấp cấp, cũng như việc sử dụng tự ý của một số bệnh nhân khi có triệu chứng nhiễm khuẩn. Ở nhóm NGEB, hầu hết các chủng phân lập được đều nhạy cảm với các kháng sinh thông thường, ngoại trừ Ampicillin (10/10 chủng kháng), Cefuroxime (3/10 chủng còn nhạy cảm). Đối với nhóm NFGNB, hầu hết các chủng phân lập được còn nhạy cảm với các kháng sinh thường được sử dụng, ngoại trừ Cefotaxime (1/13 chủng nhạy cảm), Ceftriaxone (3/13 chủng nhạy cảm). Nói chung, nhóm vi khuẩn gây N KCĐ
  17. trong nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn nhạy cảm với nhiều loại kháng sinh thông thường. Đối với nhóm vi khuẩn gây NKBV, tác nhân thường được phân lập nhất là nhóm NFGNB. Qua phân tích độ nhạy cảm với các loại kháng sinh thường được sử dụng, chúng tôi nhận thấy chỉ còn Ticarcillin-clavulanic acid và Imipenem là có đa số các chủng phân lập được nhạy cảm với hai loai kháng sinh này. Trong đó, đáng lo nhất là các chủng Acinetobacter spp. mắc phải ở bệnh viện, vì chỉ có 2 trong số 4 chủng phân lập đ ược còn nhạy cảm duy nhất với Imipenem; Acinetobacter spp. đều đã đề kháng với tất cả các loại kháng sinh khác. Một tác nhân khác cũng đáng lo ngại là các chủng P. aeuginosa mắc phải ở bệnh viện, vì chỉ có 3 hay 4 trong số 6 chủng phân lập được nhạy cảm với các loại kháng sinh: Ticarcillin-clavulanic acid, Ceftazidime, Cefepime, Imipenem, Amikacin, Gentamicin, Ciprofloxacin, Levofloxacin. Trong nghiên cứu(15) tại Đài Loan vào năm 2000-2004, P. aeruginosa tương đối vẫn còn nhạy với các kháng sinh thông thường này. Theo nghiên cứu của Vũ Thị Kim Cương(28), P. aeruginosa gây nhiễm khuẩn hô hấp mắc phải ở bệnh viện nhạy cảm rất thấp (
  18. Những phát hiện từ công trình nghiên cứu này có thể sẽ góp phần trong việc chọn lựa kháng sinh điều trị cho các bệnh nhân đợt cấp BPTNMT, đặc biệt ở bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn còn có một vài điểm hạn chế. Thứ nhất, do thời gian nghiên cứu có hạn nên số chủng vi khuẩn phân lập được trong giai đoạn này còn ít, vì vậy chúng tôi gặp khó khăn khi so sánh với các công trình nghiên cứu khác. Thứ hai, mặc dù chúng tôi đã phân lập được một số chủng vi khuẩn đường ruột tỏ ra đề kháng khá nhiều với các cephalosporin thế hệ III và IV, chúng tôi đã không có điều kiện tiến hành thử nghiệm xác định chúng có phải thuộc nhóm vi khuẩn sinh men -lactamase phổ rộng hay không, vì vậy nên có một nghiên cứu tiếp theo để làm rõ vấn đề này. Thứ ba, chúng tôi không thể xác định chắc chắn được là có hay không việc bệnh nhân tự ý sử dụng kháng sinh trước nhập viện bởi vì sử dụng kháng sinh trước đó là một yếu tố nguy cơ nhiễm trùng do P. aeruginosa(19), mà tỉ lệ các bệnh nhân nhiễm P. aeruginosa trong quần thể nghiên cứu của chúng tôi cũng khá cao. KẾT LUẬN Nghiên cứu này đã cho thấy tác nhân vi khuẩn gây bệnh thường được phân lập trên nhóm bệnh nhân đợt cấp BPTNMT là NFGNB, GNEB, H. influenzae. Các tác nhân vi khuẩn gây NKCĐ tương đối vẫn còn nhạy cảm với các loại kháng sinh thông thường, trong khi các tác nhân vi khuẩn gây
  19. NKBV giảm nhạy cảm với nhiều loại kháng sinh. Do đó, lựa chọn đầu tiên khi bệnh nhân mới nhập viện cần điều trị kháng sinh, nên phối hợp nhóm kháng sinh cephalosporin thế hệ III và nhóm aminoglycoside hoặc nhóm quinolone sau khi đã loại trừ lao, vì đa số các tác nhân vi khuẩn gây NKCĐ mà chúng tôi phân lập được tương đối nhạy cảm với các loại kháng sinh này. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu với quy mô lớn hơn nhằm đánh giá toàn diện về nhóm bệnh nhân này, chẳng hạn như chức năng hô hấp của bệnh nhân, mức độ tuân thủ điều trị, cũng như việc sử dụng kháng sinh tự ý, vì tất cả các yếu tố trên đều có ảnh hưởng đến loại tác nhân vi khuẩn gây bệnh mắc phải, cũng như ảnh hưởng đến mức độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với các loại kháng sinh; và đánh giá độ nhạy cảm với kháng sinh của tất cả các tác nhân thường gây nhiễm khuẩn trên nhóm bệnh nhân này.
nguon tai.lieu . vn