Xem mẫu
- CÁC LÝ THUYẾT VỀ
NGUỒN GỐC CỦA VĂN HÓA
P.X.Gurevits
Hiện nay tồn tại một số lý thuyết về nguồn gốc của văn hóa: lý thuyết tâm lý h ọc, lý thuy ết nhân
học và lý thuyết xã hội - văn hóa. Ngày nay phần lớn các nhà nghiên c ứu thừa nh ận r ằng: tìm hi ểu các lý
thuyết trên đây là hoàn toàn cần thiết.
1. Lý thuyết công cụ lao động
Thông thường tiếp cận hoạt động đối với văn hóa được gi ải thích theo truy ền th ống mácxít, trong
khuôn khổ của quan niệm này, cho rằng: sự khác bi ệt gi ữa con ng ười và đ ộng v ật trước h ết là ở kh ả
năng lao động như một hoạt động hướng đích hợp lý.
Có thể giả định rằng, nguồn gốc của xã hội và văn hóa g ắn liền v ới s ự hình thành lao đ ộng c ủa
con người, quá trình lao động đó đã làm cho vượn bi ến thành ng ười, b ầy đàn tr ở thành xã h ội, và t ự
nhiên thì trở thành môi trường văn hóa. Con ng ười, đó là k ẻ sáng t ạo văn hóa, là m ột th ực th ể có lý trí,
khôn ngoan và có tính xã hội.
Dựa theo khái niệm công cụ lao động để giải thích nguồn gốc văn hóa, thì con ng ười trong ho ạt
động lao động đã tách mình ra khỏi thế gi ới động vật. Lý thuy ết về ngu ồn g ốc con ng ười do F.Engels
(1820-1895) nêu ra trong bài báo Vai trò của lao động trong quá trình chuyển biến t ừ v ượn thành ng ười
công bố vào những năm 1873-1876. Bài báo này là một ch ương trong tác ph ẩm Phép biện chứng tự
nhiên. Phân tích các dữ kiện của nhiều nhà khoa học trước ông nói v ề ngu ồn g ốc loài ng ười, F.Engels
đã đi đến kết luận: “ lao động đã sáng tạo ra con người ”. Ông hiểu thuật ngữ lao động là hoạt động h ợp
lý có mục đích, bắt đầu từ việc chế tác ra những công cụ b ằng đá, x ương và g ỗ. Theo ý ki ến K.Marx và
F.Engels thì trong quá trình lao động, ý th ức ở con ng ười xuất hi ện, và cùng v ới ý th ức là xu ất hi ện nhu
cầu muốn nói điều gì đó với nhau. Thế là, tiếng nói ra đ ời nh ư là ph ương ti ện giao ti ếp trong quá trình
cùng nhau hoạt động. Hệ quả của những tiên đề trên đây là rất l ớn - quá trình lao đ ộng và ti ếng nói ra
đời. Vấn đề không phải chỉ là ở chỗ, con vượn đã bi ến thành con ng ười. Ho ạt đ ộng c ủa con ng ười đã
sản sinh ra văn hóa.
Cơ chế xã hội của sự tái sản xuất hoạt động người sẽ mở rộng đáng k ể không gian văn hóa. Ở
đây, con người, ngay từ đầu đã xuất hiện như một th ực th ể xã h ội, t ức m ột sinh th ể, nh ững khuôn m ẫu
hành vi của nó không chứa đựng trong bản thân (t ức là không di truy ền), mà ở ngoài b ản thân nó, bi ểu
hiện trong hình thái xã hội của sự giao tiếp.
2. Ma thuật - ngọn nguồn của văn hóa
Nhà văn hóa học Hoa Kỳ T.Rotszak (sinh năm 1933) đã đ ề xu ất m ột quan ni ệm khác v ề văn hóa.
Ông cho rằng, trước khi xuất hiện thời đại đồ đá cũ, đã t ừng t ồn t ại m ột th ời đ ại khác - th ời c ổ đ ại kỳ
diệu. Khi ấy chưa có một công cụ lao động nào xuất hi ện, nh ưng đã có ma thu ật. Nh ững gi ọng hát và
điệu múa huyền bí biểu hiện cái bản chất t ự nhiên của con ng ười và chúng xác đ ịnh tính tiên đ ịnh c ủa
những bài hát và điệu múa này, trước khi viên đá cuội đ ược đẽo g ọt thành cái rìu. T.Rotszak cho r ằng,
- người cổ đại tự biểu hiện mình trước hết như một người mộng tưởng, ng ười giầu xúc đ ộng, ng ười tìm tòi
ý tưởng, người sáng tạo ra những bóng ma (ảo ảnh), và cuối cùng là Con người chế tác (Homo faber).
Nhà khoa học đã phác thảo ra cuộc sống cổ đại nh ư sau: Kh ởi đ ầu là nh ững ảo ảnh huy ền bí,
sau đó mới là những công cụ linh phù (mandala) thay cho bánh lái, l ửa thiêng đ ể hi ến t ế (ch ỉ v ề sau thì
mới dùng để nấu đồ ăn), tế lễ các vì sao, không đếm th ời gian b ằng sao ho ặc đ ếm nh ững m ốc kh ởi
hành, cành vàng thay cho tượng gỗ (gậy) của người chăn chiên hoặc quy ền tr ượng c ủa nhà vua. Tóm
lại, theo ý kiến T.Rotszak, tri giác khấn cầu - mãnh liệt v ề cuộc s ống đã x ảy ra tr ước óc th ực d ụng c ủa
thời đại đá cũ.
3. Khúc dạo đầu của văn hóa - những biểu tượng
Nhà triết học, xã hội học, văn hóa học Hoa Kỳ L.Mamphord (1895-1973) quan ni ệm: Không th ể
gán cho lao động và công cụ lao động có ý nghĩa đ ịnh h ướng, và đ ặt chúng vào v ị trí trung tâm trong s ự
phát triển của con người và văn hóa. L.Mamphord đã m ỉa mai quan ni ệm xem con ng ười nh ư là đ ộng v ật
sử dụng công cụ lao động, còn Platon thì cảm thấy lạ lùng, vì ông ghi nh ận h ướng đi lên c ủa con ng ười
trong trạng thái nguyên thủy ở trình độ như nhau, nh ư Mars (con trai th ần Zeus) và Orphée, nh ư
Prométhée và Kêphêutx, như thần - thợ rèn.
Hơn nữa, Mamphord còn nhấn mạnh rằng, sự miêu tả con ng ười, ch ủ yếu về ph ương di ện s ử
dụng và chế tác công cụ lao động bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX đ ược thừa nh ận chung trong truy ền th ống
khoa học tại các nước Âu Mỹ, nhất là trong nhân h ọc. Mamphord kh ẳng đ ịnh r ằng, s ự ph ối k ết c ủa các
giác quan là điều kiện cần thiết để tạo ra những công cụ lao đ ộng s ơ đ ẳng làm b ằng đá ho ặc g ỗ, không
đòi hỏi phải có bất cứ sự sắc sảo đáng kể nào về ý t ưởng. Ngoài ra, ông còn cho r ằng, n ếu các ph ẩm
chất trí năng của con người gắn liền với hoạt động công cụ, với s ự trau dồi k ỹ thu ật, thì t ất y ếu ph ải bác
bỏ sự kiện nói rằng, những công cụ của người tối cổ như: răng, xương, n ắm đấm c ủa nó - đ ược làm ra
cũng giống như công cụ của những động vật linh trưởng khác. Vì v ậy, cho đ ến nay v ấn đ ề v ẫn còn ti ếp
tục bàn cãi..., trong khi con người hãy còn chưa thành th ạo trong vi ệc t ạo ra nh ững công c ụ đá, v ận
hành có hiệu quả hơn, là tạo ra các cơ quan t ự nhiên thiên b ẩm c ủa nó t ốt h ơn. Nhà bác h ọc nh ấn
mạnh: Tôi cho rằng: tài năng thoát hiểm (vượt thoát) không c ần đ ến các công c ụ khác l ạ, đã cung c ấp
cho con người tối cổ một thời gian vừa đủ để phát tri ển nh ững yếu t ố phi v ật th ể c ủa văn hóa c ủa nó,
các yếu tố phi vật thể này, trong chừng mực cần thiết, đã làm phong phú thêm k ỹ thu ật c ủa nó.
Không chỉ con người, mà còn có nhiều loài sinh vật khác đã và đang t ạo ra vô s ố thi ết b ị t ự t ạo.
Có thể nhận thấy loài kiến và loài ong đã tạo ra sự kỳ di ệu c ủa ngh ệ thu ật ki ến trúc. Nh ững con h ải ly
đã khá thành thạo trong việc xây dựng những cái đ ập (b ờ ch ắn n ước), nh ững con nh ện bi ết t ết thành
các tấm mạng (nhện). Ở đây, một vài loài sinh vật dường nh ư đã biểu thị tài năng sáng t ạo khéo léo h ơn
con người. Nếu sự hiểu biết về kỹ thuật được coi là đầy đủ để khẳng định trí tuệ tích c ực c ủa loài ng ười,
thì con người trong một thời gian dài đã được xem nh ư kẻ hoàn toàn không may m ắn, n ếu đem so nó v ới
các loài sinh vật khác. Và chỉ về sau này khi sự sản xu ất ra các bi ểu t ượng đã v ượt tr ội h ẳn vi ệc s ản
xuất ra công cụ, khi ấy nó mới thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ khả năng k ỹ thuật c ủa con ng ười.
Chính vì vậy, nếu xem xét con người chủ yếu như một động vật ch ế tác công c ụ, thì đi ều ấy có
nghĩa là, theo ý kiến Mamphord, đã bỏ qua nh ững đ ặc điểm c ơ b ản trong th ời ti ền s ử c ủa nhân lo ại, trên
thực tế các đặc điiểm ấy là những giai đoạn quyết định của phát tri ển. Con ng ười, v ề c ơ b ản là m ột
động vật tự hoàn thiện, là kẻ biết sử dụng trí tuệ và sản xuất ra nh ững bi ểu t ượng.
Mamphord khẳng định rằng, dấu ấn cơ bản trong hoạt động của con ng ười là ở b ản thân c ơ th ể
của nó. Khi con người tự bản thân nó không t ạo ra đ ược v ật thể nào, thì nó khó có th ể t ạo ra môi tr ường
xung quanh.
- Chúng tôi xin dẫn ra một vài ví dụ. Lao động trong b ộ môn văn hóa h ọc theo đ ịnh h ướng mác xít
được xem như quá trình tác động qua lại giữa con người và thiên nhiên, trong đó con ng ười không ch ỉ
biến đổi cái thiên nhiên bên ngoài, mà nó còn bi ến đ ổi c ả cái b ản ch ất c ủa nó (t ức cái thiên nhiên bên
trong). Lao động - đó là phương thức tồn tại của con ng ười, là ph ương ti ện và đi ều ki ện trao đ ổi v ật th ể
một cách tự nhiên giữa con người và thiên nhiên. Con ng ười không ch ỉ bi ến c ải hình thái c ủa cái mà
thiên nhiên cấp cho nó, hơn thế nó còn t ạo ra m ột hình ảnh đ ầy ý t ưởng c ủa cái mà nó c ần ph ải làm
như thế, nó đặt ra mục tiêu một cách hữu thức, m ục tiêu ấy xác đ ịnh ph ương th ức và tính cách hành
động của nó.
Công cụ lao động thực ra đóng vai trò không nhỏ trong cuộc s ống con ng ười. Tuy v ậy, nó hoàn
toàn không thể vạch ra cái bí mật của s ự chuyển biến t ừ v ượn thành ng ười, không th ể gi ải thích đ ến t ận
cùng sự kỳ diệu của ý thức, quà t ặng của lương tâm và nh ững bí ẩn c ủa đ ời s ống xã h ội. Lý thuy ết ti ến
hóa xuất phát từ sự phát triển tiến lên của vật thể sống, ở đây d ường nh ư không hoàn toàn th ỏa đáng.
Cần phải nói lại một cách nghiêm túc rằng, nhân lo ại hãy còn ch ưa có đ ược nh ững lý thuy ết, gi ải
thích tỷ mỉ về mọi chi tiết của sự hình thành con người.
Sự xuất hiện việc sáng tạo kỳ diệu ra con người trên trái đ ất g ắn li ền v ới nh ững đ ột phá ch ất
lượng trong sự phát triển vật thể sống, vật thể ấy đã bỗng trở thành k ẻ bi ết suy nghĩ m ột cách hào
hứng. Rất có thể, điều đó xảy ra đúng như C.Marx và F.Engels đã hình dung. Cũng có th ể ý th ức c ủa
con người sinh ra từ những điều kiện hoàn toàn khác, nh ư Rotszak và Mamphord đã gi ải thích. M ột s ố
nhà khoa học khác lại gắn văn hóa với các tín ngưỡng tôn giáo c ổ đại. Tuy v ậy, trong m ọi bi ến d ạng c ủa
hiện tượng văn hóa có thể xem xét như là một đột biến c ơ b ản trong s ự phát tri ển con ng ười, nhân lo ại
và lịch sử.
4. Về những khởi nguyên của văn hóa
Có không ít nhà khoa học đã viện dẫn nguồn gốc của t ừ văn hóa xu ất phát t ừ t ừ c ổ thờ cúng
(culte). Họ cho rằng, văn hóa đi song hành với tính ch ất tinh th ần, trong đó có tôn giáo. Đ ương nhiên, ở
các dân tộc khác nhau có những quan niệm khác nhau v ề các vị th ần, cho nên cũng có nh ững hình th ức
thờ cúng khác nhau, tuy vậy trong đó có nhiều điểm chung. M ột s ố nhà văn hóa h ọc xem hình thái tôn
giáo đầu tiên là bái vật giáo - thờ cúng những vật thể vô tri như đá, cây... d ường nh ư ở các v ật th ể này
có mang các thuộc tính siêu nhiên. Theo ý kiến của các nhà khoa h ọc, thì bái v ật giáo (v ật t ổ) có ở kh ắp
các dân tộc nguyên thủy. Một số biểu hiện tàn d ư của nó còn đ ược b ảo trì trong các tôn giáo hi ện đ ại
như: sự thờ cúng tảng đá đen tại thánh địa Islam ở Mecca, thờ cúng cây thập t ự và các s ức m ạnh trong
Thiên chúa giáo,...
Bên cạnh sự thờ cúng các vật thể vô tri, chúng khó đ ược th ừa nh ận là s ở thu ộc th ần linh, vì r ằng
các ấn tượng thực tế về khúc gỗ hoặc tảng đá xù xì không gợi ra hình ảnh v ị th ần linh trong ý th ức con
người; sự thần linh hóa các vì sao, mặt trời, mặt trăng, biển, sông, các l ực l ượng t ự phát trong t ự nhiên
(bão, dông, động đất...) đã tồn tại thực sự trong đời s ống khi ến cho s ự th ờ cúng ngày càng sâu đ ậm
thêm. Các bậc cha mẹ đã trở thành đối tượng của sự thờ cúng ng ười sống, tuy v ậy trong th ời m ẫu h ệ thì
đối tượng thờ cúng là phụ nữ, còn trong thời phụ hệ - thì đối t ượng là đàn ông. Theo d ẫn ch ứng c ủa nhà
triết học Nga V.X. Soloviev thì dân tộc Trung Hoa đ ương th ời (n ửa sau th ế k ỷ XIX) là dân t ộc có tôn giáo
thờ cúng tổ tiên. Hơn nữa, khi tình cảm tôn giáo h ướng v ề các vị t ổ tiên đã khu ất, thì nh ững y ếu t ố đ ạo
đức trong tình yêu của lớp con cháu sẽ gắn liền với việc thờ cúng ông bà, t ổ tiên.
Lịch sử loài người đã biết đến nhiều dạng thờ cúng khác khau. Ph ần trên chúng tôi đã nói v ề
những thờ cúng của người nguyên thủy. Trong thời cổ đ ại các t ục th ờ cúng này ngày càng tr ở nên ph ức
tạp hơn, vì thế nhà nước, thượng đế, con người, đền miếu... đã trở thành đ ối t ượng c ủa s ự th ờ cúng
trong tôn giáo. Các hành động cúng lễ cũng phức t ạp hơn, nh ư: R ước, múa nh ảy, c ầu kh ấn. Đã xu ất
hiện các hình thức cúng bái bí mật (huyền bí) như nhập đồng, thôi miên.
- Nhìn chung, trong văn hóa cổ đại (Hy La) và cổ đại ph ương Đông, có th ể tìm th ấy r ất nhi ều hình
thức thờ cúng cụ thể: thờ các vì sao cụ thể, thờ những con ng ười c ụ thể nh ư: ng ười anh hùng, ng ười có
quyền lực... Nhưng điều quan trọng là ở chỗ, tất cả các hình th ức th ờ cúng, tín ng ưỡng trong th ời kỳ này
đều được tiến hành ở nhiều nước khác nhau, dẫn đến việc thành l ập các tôn giáo th ế gi ới, còn t ồn t ại
đến tận ngày nay. Cùng với sự ra đời của các tôn giáo ấy là s ự xu ất hiện nh ững công trình ki ến trúc nhà
thờ tuyệt vời, hội họa dưới dạng tranh thánh (Iconographie) âm nh ạc có dàn đ ồng ca (c ầu kh ấn, hát
thánh ca, đơn ca và múa...). V.X. Soloviev đã nh ận rằng: “n ếu cái đ ẹp c ủa s ự th ờ chúa ki ểu Hy L ạp
trong nhà thờ Xôphia không tạo ra ấn tượng mạnh mẽ, tác đ ộng đến ngôn t ừ c ủa công t ước Vladimir ở
Kiev, thì có lẽ ngày nay sẽ không có nước Nga theo đ ạo chính th ống. Và, chính cái đ ẹp này đã hi ện lên
sáng chói, thể hiện toàn vẹn nội dung tinh thần của tôn giáo”.
Theo ý kiến của nhà triết học nước Nga khác là N.A. Berdiaev, thì tính ch ất g ần gũi gi ữa văn hóa
và tôn giáo đã chứng tỏ tính chất biểu tượng của văn hóa, theo ông thì văn hóa đã ti ếp thu tính ch ất này
từ biểu tượng thờ cúng trong tôn giáo. Toàn bộ những thành t ựu c ủa văn hóa, th ực ch ất đ ều mang tính
biểu tượng.
Vậy là, giữa văn hóa và tôn giáo có mối liên hệ vô cùng sâu s ắc. V ấn đ ề đ ặt ra ở đây hoàn toàn
không phải chỉ là nói về họ hàng của từ văn hóa (culture) và th ờ cúng (culte), mà chính là trong t ừ
nguyên (nguồn gốc của từ) của chúng. Đó là nói về ngu ồn g ốc c ủa văn hóa, v ề tính ch ất ph ụ thu ộc
mang tính lịch sử của văn hóa với sự thờ cúng như một hiện t ượng đặc biệt.
Tuy vậy, văn hóa không tồn tại bất biến. Khi g ạt bỏ các ng ọn ngu ồn th ờ cúng, tôn giáo kh ởi đ ầu
của mình, văn hóa dần dần chuyển sang văn minh. V ề mặt nguyên lý trong văn hóa h ọc có t ồn t ại hai
quan điểm nói về mối tương quan giữa văn hóa và văn minh. Vì th ế, N.A. Berdiaev v ề ph ương di ện này
đã đồng tình với quan điểm của O.Spengler, nghiêng về phía c ần phân bi ệt văn hóa / văn minh (nh ư hai
thực thể), bên cạnh đó nhà thần học G.Mariten lại phản đối sự phân biệt này.
Tuy vậy, cho đến nay vấn đề trên đây vẫn là một trong nh ững v ấn đ ề gay c ấn nh ất c ủa văn hóa
học.
HOÀNG VINH dịch
__________________
My Thuat Viet Nam
nguon tai.lieu . vn