- Trang Chủ
- Địa Lý
- Các lý thuyết địa lý học văn hóa, sinh thái học văn hóa và việc vận dụng trong nghiên cứu văn hóa
Xem mẫu
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
CÁC LÝ THUYẾT ĐỊA LÝ HỌC VĂN HÓA,
SINH THÁI HỌC VĂN HÓA VÀ VIỆC VẬN DỤNG
TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
LÝ TÙNG HIẾU
Tóm tắt
Các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa được phát triển ở phương Tây trong thế
kỷ XX đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của văn hóa, đồng
thời xác định mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường
tự nhiên, và sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người. Vận
dụng các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa trong nghiên cứu văn hóa, chúng tôi
nhận thức rằng, điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hóa là hai nhân tố hợp thành môi
trường văn hóa mà trong đó, nền văn hóa của các cộng đồng người hình thành, vận động và biến đổi.
Do những tác động khác nhau của hai nhân tố ấy, các nền văn hóa có thể mang tính chất tĩnh tại hay
năng động, biến đổi chậm chạp hay nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay nhiều. Trước những tác động
ấy, số phận của các nền văn hóa sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo và khả năng lựa chọn của các
chủ thể văn hóa.
Từ khóa: Địa lý học văn hóa, sinh thái học văn hóa, địa lý tự nhiên, giao lưu văn hóa, môi trường
văn hóa
Abstract
Theories of cultural geography and cultural ecology developed in the West in the twentieth century
have shown the role of the natural environment for the formation and transformation of culture, the
relationship between culture and the environment, the adaptation of people to the natural environment,
and the forming of landscape created by agricultural production, technology and construction.
Applying theories of cultural geography and cultural ecology in the study of culture, we recognizes that
natural geographic conditions and cultural interchange conditions are two components of a cultural
environment, in which the cultures of human communities form, move and transform. Due to the
varied effects of those two factors, cultures can be static or dynamic, slow or fast changing, more or
less variable. Faces these effects, the fate of those cultures will depend on the creativity and the choice
of the cultural subjects.
Keywords: Cultural geography, cultural ecology, natural geographic, cultural exchange, cultural
environment
Đặt vấn đề với môi trường, sự thích nghi của con người
C
ác lý thuyết địa lý học văn hóa với môi trường tự nhiên, và sự định hình cảnh
(cultural geography) và sinh thái quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây
học văn hóa (cultural ecology) được dựng của con người, các lý thuyết này đã làm
phát triển ở phương Tây trong thế kỷ XX với
sáng tỏ vai trò của môi trường địa lý tự nhiên
sự đóng góp của các nhà địa lý học như Carl
Ortwin Sauer, Joël Bonnemaison và các nhà đối với sự hình thành, biến đổi của văn hóa,
nhân học như Julian Haynes Steward… Thông đồng thời chỉ ra những tác động trở lại của
qua việc nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa văn hóa đối với môi trường sinh thái, từ đó đặt
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
33
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh môi trường (environmental determinism), một
thái của con người. lý thuyết phổ biến trong địa lý học khi Sauer
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa bắt đầu sự nghiệp, ông có thái độ phê bình
hiện nay, người nghiên cứu văn hóa Việt Nam quyết liệt. Ông đề xuất một cách tiếp cận khác
không thể quay lưng với các lý thuyết khoa gọi là “hình thái của cảnh quan” (landscape
học mà giá trị đã được thừa nhận trong nghiên morphology) hoặc “lịch sử văn hóa” (cultural
cứu văn hóa. Trong bài viết này, vận dụng history). Cách tiếp cận này liên quan đến việc
phương pháp phân tích - tổng hợp tư liệu và thu thập quy nạp các dữ kiện thực tế về tác
phương pháp so sánh, chúng tôi tóm lược nội động của con người lên cảnh quan theo thời
dung kèm theo nhận định về giá trị đóng góp gian. Sauer tin rằng nông nghiệp, sự thuần hóa
của các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái thực vật và động vật có ảnh hưởng đến môi
học văn hóa, để từ đó chọn lọc, đúc kết những trường tự nhiên. Ông cũng bày tỏ mối quan
luận điểm phù hợp, có thể vận dụng vào việc tâm về cách thức mà chủ nghĩa tư bản hiện
nghiên cứu văn hóa. đại và các chính phủ trung ương tập quyền
phá huỷ sự đa dạng văn hóa và sức khoẻ môi
1. Giá trị đóng góp của các lý thuyết địa lý
trường của thế giới.
văn hóa và sinh thái học văn hóa
1.1. Carl Ortwin Sauer với “hình thái của Lý thuyết của Carl Ortwin Sauer có ảnh
cảnh quan” hưởng ở cả Bắc Mỹ và châu Âu. Sau khi Sauer
nghỉ hưu, trường phái địa lý học con người -
Người được xem là có công đặt nền móng
môi trường của ông đã phát triển thành sinh
cho các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái
thái học văn hóa (cultural ecology), sinh thái
học văn hóa là Carl Ortwin Sauer (1889 - 1975),
học chính trị (political ecology) và sinh thái
nhà địa lý học người Mỹ đã phát triển phân
học lịch sử (historical ecology).
ngành địa lý học văn hóa, nghiên cứu sự tạo
thành các cảnh quan văn hóa từ các dạng thức 1.2. Julian Haynes Steward với “phương
xếp chồng lên trên cảnh quan tự nhiên. Bài báo pháp luận về tiến hóa đa tuyến”
“The Morphology of Landscape” (Hình thái của Học giả kế tiếp là Julian Haynes Steward
cảnh quan, 1925) của ông đăng trên University (1902 - 1972), nhà nhân học người Mỹ đã góp
of California Publications in Geography 2 được phần phát triển các khái niệm và phương
xem là bài báo tiếng Anh có ảnh hưởng nhất pháp của sinh thái học văn hóa, và lý thuyết
trong việc giới thiệu những ý tưởng về các khoa học về biến đổi văn hóa, có ảnh hưởng
cảnh quan văn hóa. Bài báo đó trình bày cái trong các nhà nhân học và khảo cổ học vào
nhìn của Sauer về quy tắc ứng xử của địa lý giữa thế kỷ XX. Steward đã đặt ra thuật ngữ,
học, thiết lập quy tắc ứng xử dựa trên cơ sở hình dung về sinh thái học văn hóa như một
hiện tượng học (phenomenology). Theo Sauer, phương pháp luận để hiểu con người thích
“trong mỗi cảnh quan, có những hiện tượng ứng với các môi trường đa dạng như thế nào.
không đơn giản có mặt ở đó nhưng có liên đới Trong công trình Theory of Culture Change: The
hoặc độc lập với nhau”. Do đó, theo ông, nhiệm Methodology of Multilinear Evolution (Lý thuyết
vụ của nhà địa lý học là phát hiện mối liên kết về biến đổi văn hóa: Phương pháp luận về
cấp vùng giữa các hiện tượng: “Nhiệm vụ của tiến hóa đa tuyến, 1955), ông cho rằng sinh
địa lý học được quan niệm là thiết lập một hệ thái học văn hóa là khoa học miêu tả những
thống có tính cách quyết định bao gồm các cách thức mà trong đó sự thích ứng với môi
hiện tượng cảnh quan, nhằm nắm bắt tất cả ý trường đã gây ra sự biến đổi văn hóa. Ông cho
nghĩa của nó và tạo màu sắc cho quang cảnh rằng bất kỳ sự thích nghi đặc biệt nào của con
đa dạng trên mặt đất”1. Đối với quyết định luận người cũng được thừa hưởng một phần từ
34 Số 28 - Tháng 6 - 2019
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
lịch sử và bao gồm các công nghệ, thực hành biến đổi xã hội, 1977) [7], Steward cũng thừa
và kiến thức cho phép con người sống trong nhận rằng những nguồn tài nguyên có thể
một môi trường nào đó. Điều này có nghĩa là được tạo ra thông qua môi trường xã hội. So
trong khi môi trường ảnh hưởng đến đặc điểm sánh người Shoshoni với người Indian Carrier
thích ứng của con người, nó không tự định ở British Columbia, Steward nhận thấy rằng sự
đoạt được chính nó. Bằng cách này, Steward du nhập việc buôn bán lông thú đã tạo ra một
đã khôn ngoan tách biệt tính cách hay thay thặng dư vật chất đủ cho người Carrier chuyển
đổi của môi trường khỏi những hoạt động bên hệ thống dòng họ đơn giản của họ thành một
trong của nền văn hóa chiếm chỗ môi trường hệ thống xây dựng trên địa vị, được duy trì
ấy. Xem xét về lâu dài, điều này có nghĩa là môi bởi tập tục potlatch (người chủ tiệc sẽ tặng
trường và văn hóa nằm trên những con đường quà cho khách tùy theo theo địa vị và cấp bậc
tiến hóa riêng rẽ ít nhiều, và khả năng ảnh trong bộ lạc), cho dù môi trường tự nhiên của
hưởng qua lại giữa môi trường và văn hóa phụ họ không thay đổi [7, tr.68-86; 10, tr.299-300].
thuộc vào cấu trúc của mỗi bên. Trong nhận 1.3. Joël Bonnemaison với “địa lý học văn
thức của sinh thái học văn hóa, địa bàn sinh hóa mới”
thái đóng một vai trò quan trọng trong việc
Góp phần quan trọng phát triển lý thuyết
định hình văn hóa của một vùng.
địa lý học văn hóa là nhà địa lý học văn hóa
Phương pháp của Steward là dẫn chứng người Pháp Joël Bonnemaison (1940-1997).
các công nghệ và phương pháp được con Với lập luận cho rằng các nền văn hóa đều
người sử dụng để khai thác môi trường và được xây dựng và định vị trong một không
kiếm sống, quan sát các mô hình hành vi/văn gian nhất định, và có một mối quan hệ biện
hóa của con người liên quan đến việc sử dụng chứng giữa văn hóa với không gian của nó,
môi trường, cuối cùng là đánh giá các mô hình Joël Bonnemaison đã kế thừa các quan điểm
hành vi ấy có ảnh hưởng như thế nào đến các địa lý học văn hóa trước đó và góp phần xây
khía cạnh khác của văn hóa. Chẳng hạn, ở một dựng một trường phái mà ông gọi là “địa lý học
vùng dễ bị hạn hán, sự quan tâm lớn của cư văn hóa mới” (new cultural geography). Trong
dân đối với các mô hình lượng mưa có nghĩa là công trình Culture and Space: Conceiving a New
điều đó đã trở thành trung tâm của cuộc sống Cultural Geography (Văn hóa và không gian: Sự
hàng ngày, và dẫn đến sự phát triển của một hình thành địa lý học văn hóa mới, 2005), Joël
hệ thống niềm tin tôn giáo mà trong đó, lượng Bonnemaison giải thích lý thuyết của mình
mưa và nước nổi bật lên. Hệ thống tín ngưỡng như sau: “Thuật ngữ địa văn hóa” là mới, nhưng
này có thể không xuất hiện trong một xã hội ý niệm về nó lại không mới. Ý niệm về địa văn
có lượng mưa tốt cho cây trồng, hoặc nơi đã hóa xuất hiện lần đầu tại Đức, nơi các nhà địa
được thực hiện thuỷ lợi [6]. lý học ít “tự nhiên chủ nghĩa” hơn ở Pháp. Vào
Sự khẳng định của Steward rằng môi thế kỷ XIX, Friedrich Ratzel đã đề cập đến địa
trường tự nhiên và sinh học ảnh hưởng đến lý nhân học, sau đó quan niệm về địa văn hóa
văn hóa đã gây tranh cãi, bởi nó có hơi hướng đến Pháp thông qua ảnh hưởng của nhân học
của quyết định luận môi trường đối với hành Mỹ với những đóng góp quan trọng về địa văn
động của con người. Tuy nhiên, trong một hóa của Carl Sauer - một học trò của Ratzel và
công trình khác là tiểu luận “Evolutionary là người sáng lập trường phái Berkeley. Đối với
principles and social types” (Các nguyên tắc tiến Pháp, đây là một sự trở lại hơn là một sự xuất
hóa và các loại hình xã hội) in trong Evolution hiện mới. Với sự nhấn mạnh đến tầm quan
and ecology: essays on social transformationm trọng của văn hóa, các nhà địa lý học nổi tiếng
(Sự tiến hóa và sinh thái học: các tiểu luận về của Pháp ở Quebec đã có ảnh hưởng lớn đến
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
35
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
sự phục hưng của cách tiếp cận địa văn hóa tượng địa lý có ý nghĩa đều liên quan đến đạo
vào những năm 1980. Sự trở lại của cách tiếp đức học và siêu hình học. Chúng đại diện cho
cận địa văn hóa gắn với trường phái địa lý học giá trị tinh thần của xứ sở mà chúng ta gọi là
của Pháp qua cách tiếp cận khá đặc trưng của linh hồn của xứ sở” [5].
trường phái này đối với địa văn hóa. Có thể Theo Bonnemaison, các nền văn hóa đều
nêu một số dữ kiện nhằm làm sáng tỏ sự tái được xây dựng và định vị trong một không
khám phá này: gian tương ứng, do đó các hệ thống văn hóa
“Sự phục hưng của địa văn hóa gắn liền với đều bao hàm yếu tố không gian. Trong công
sự mở rộng của thuật ngữ “văn hóa”. Ở thế hệ trình La géographie culturelle (Địa lý học văn
của tôi người ta thường nói rằng “mọi thứ đều hóa, 2004), ông cho rằng hệ thống văn hóa
là chính trị”; còn bây giờ thì “mọi thứ đều là bao gồm bốn yếu tố, được xem là bốn cực hay
văn hóa”. Có thể thấy rằng nói về văn hóa đang bốn trụ cột:
như một cái mốt (fashion). Hiện nay chúng ta
- Di sản kiến thức: Văn hóa trước hết là di sản
thường hay nói về văn hóa công ty, văn hóa
kiến thức. Đó là sự hiểu biết về thế giới, làm
đảng phái chính trị, v.v. Mỗi hoạt động, từng
cho văn hóa mang tính “khoa học”. Bên cạnh
nhóm người đều có văn hóa của riêng họ.
khoa học phương Tây có tính phổ quát, còn có
Thậm chí chúng ta thấy có cả Bộ Văn hóa trong
các “khoa học” trong mỗi nền văn minh khác
Chính phủ Pháp. Cùng với địa lý học, văn hóa
nhau, ở mỗi tộc người ngoại lai, gọi là các khoa
xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực khoa học
xã hội. Thực tế là trước đây các nhà khoa học học tộc người (ethnosciences) ngoài phương
xã hội thường xác định những nhân tố thuộc Tây, được coi là các khoa học hoặc kiến thức
về văn hóa là những nhân tố có tính định tính, tiền hiện đại. Ngày nay, văn hóa bản địa được
không thể định lượng và kiểu xác định này làm đánh giá cao, không bị coi là thấp kém như
hạn chế ít nhiều đến việc nghiên cứu thấu đáo đầu những năm 1950...
nhiều sự vật, hiện tượng. - Di sản kỹ thuật: Gồm các kỹ năng và công
Ba chiều kích của không gian cảnh quan cụ. Theo cách nói của nhà địa lý người Pháp
trong địa văn hóa gồm: Vidal de la Blache (1845 - 1918), đó là các lối
sống, dựa vào các kỹ thuật cơ bản, đáp ứng
- Lãnh thổ: Liên quan đến các cột mốc và
đường biên giới lãnh thổ; đến cơ cấu chính các nhu cầu đầu tiên của đời sống để sinh tồn,
trị với những vùng trọng điểm, trung tâm và để phân biệt con người với loài vật. Đó còn là
vùng ngoại vi. nghệ thuật sống, một lý lẽ để sống.
- Môi trường địa lý: Một cấu trúc địa lý và - Tín ngưỡng: Kiến thức và kỹ thuật ngoài
sinh thái - đất trồng, thực vật, nước, khí hậu, phương Tây còn dựa trên tín ngưỡng tôn giáo,
mật độ dân cư, hệ thống thông tin liên lạc. thể hiện một cách nhìn về thế giới, thường
Con người hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống được coi là tầng cao của văn hóa, biểu hiện
sinh thái này bởi vì toàn bộ môi trường địa lý mối liên hệ cơ bản giữa các giá trị và kỹ thuật.
được nhân hóa thành một quy mô nhỏ hơn - Không gian: Các nền văn hóa được xây
hoặc lớn hơn. dựng và định vị trong một không gian. Fernand
- Biểu tượng địa lý: Cấu trúc biểu trưng Braudel (1902 - 1985), nhà sử học người Pháp
một môi trường địa lý và ý nghĩa của nó. Khái nổi tiếng với Lý thuyết hệ thống kinh tế - xã
niệm này tương tự như khái niệm “médiance” hội trên phạm vi thế giới, cũng cho rằng văn
đã từng được Augustin Berque đưa ra từ năm hóa có một chỗ dựa địa lý. Khác với quyết định
1990 để chỉ những tác động và những giá trị luận địa lý, nó có quan hệ biện chứng giữa môi
con người đem lại cho cảnh quan. Những biểu trường và văn hóa [4; 9, tr.51-54].
36 Số 28 - Tháng 6 - 2019
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
2. Vận dụng các lý thuyết địa lý văn hóa học môi trường tự nhiên của con người, của các tộc
và sinh thái học văn hóa người, chính là văn hóa. Vì vậy, điều kiện địa lý
2.1. Xác định các tác nhân của môi trường tự nhiên vừa là nguyên liệu vừa là tác nhân làm
làm hình thành và biến đổi văn hóa hình thành văn hóa. Và những yếu tố tự nhiên
của một vùng đất là nguyên liệu và tác nhân
Các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái
làm hình thành văn hóa của một tộc người sẽ
học văn hóa nhằm nghiên cứu quan hệ giữa
hợp thành không gian văn hóa (cultural space)
văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con
của tộc người đó, góp phần làm hình thành
người với môi trường tự nhiên, và sự định hình
đặc trưng của văn hóa tộc người và văn hóa
cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật,
vùng.
xây dựng của con người, có giá trị đóng góp
rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa, Như vậy, theo quan điểm của địa lý học văn
đặc biệt là nghiên cứu các vùng văn hóa và hóa, có một sự khác biệt nhất định giữa điều
phân vùng văn hóa. Như một nhận định của kiện địa lý tự nhiên là nguyên liệu và tác nhân
Trần Ngọc Khánh: “Môi trường tự nhiên và môi khách quan với không gian văn hóa là sản
trường nhân văn không cách ly lẫn nhau, mà phẩm nhân hóa giới tự nhiên của con người.
tạo nên môi trường văn hóa và môi trường địa “Đối với các nhà địa lý với tư duy thực nghiệm
lý. Sự phân chia các nền văn hóa trong không ở Mỹ, văn hóa bao gồm các thứ không thuộc
về tự nhiên. Họ phân biệt văn hóa là cái nhìn
gian tạo nên các vùng văn hóa. Vùng văn hóa
thấy được trong cảnh quan địa lý, do con người
được định nghĩa là một không gian tương
tạo lập nên và có khả năng làm thay đổi môi
đối đồng nhất, trong đó có kết hợp một số
trường tự nhiên. Đó là cảnh quan được nhân
đặc trưng văn hóa chủ đạo. Các vùng văn hóa
hóa” [8].Theo quan điểm ấy, con người cần
không khép kín, mà có thể tiếp nhận, trao đổi
phải dựa vào các nguồn nguyên liệu, nhiên
các đặc trưng văn hóa với nhau. Có thể hình
liệu, phương tiện của giới tự nhiên để làm ra
dung ba cấp độ cấu thành một hệ thống văn
văn hóa. Tuy nhiên, cách thức tận dụng, thích
hóa là: vùng văn hóa, không gian sinh sống và
nghi, ứng phó, chế ngự môi trường tự nhiên
không gian văn hóa” [8].
trước hết phụ thuộc vào kinh nghiệm, tri thức,
Vận dụng các lý thuyết địa lý học văn hóa kỹ thuật cũng như nhu cầu, lợi ích, mục đích
và sinh thái học văn hóa vào việc nghiên cứu của con người. Với tư duy phát triển và tính
văn hóa, chúng ta có thể thấy rằng, sự hình xã hội cao, con người không phản ứng một
thành và biến đổi của văn hóa các tộc người cách đồng loạt giống như nhau trước những
và văn hóa các vùng miền trước hết bắt nguồn tác nhân của môi trường tự nhiên, như các loài
từ hai tác nhân then chốt: điều kiện địa lý tự động vật. Ngược lại, con người có khả năng lựa
nhiên và điều kiện giao lưu văn hóa. chọn và thường xuyên lựa chọn những cách
1) Điều kiện địa lý tự nhiên (physical thức phản ứng phù hợp với kinh nghiệm, tri
geography): Bao gồm phạm vi không gian, địa thức, kỹ thuật cũng như nhu cầu, lợi ích, mục
hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh thái, đích của mình. Do đó, mặc dù không gian văn
tài nguyên, những biến đổi của môi trường, v.v. hóa của một vùng văn hóa thường có điều kiện
của vùng cư trú. Các điều kiện địa lý tự nhiên địa lý tự nhiên tương đối đồng nhất, nhưng
ấy cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, phương những tộc người cư trú trên đó có thể tạo ra
tiện mà các tộc người có thể thích nghi, tận những không gian văn hóa riêng, khác biệt với
dụng để sinh tồn và phát triển, đồng thời đặt nhau, vì họ chỉ chú trọng khai thác một số yếu
ra những hiểm họa, thách thức mà các tộc tố tự nhiên nào đó chứ không phải là toàn bộ
người phải tìm cách ứng phó và chế ngự. Cách điều kiện địa lý tự nhiên tiềm tàng của vùng
thức thích nghi, tận dụng, ứng phó, chế ngự văn hóa. Nói cách khác, không phải tất cả yếu
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
37
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
tố của địa lý tự nhiên trong một không gian nhất giữa các vùng miền, và không bất biến
nào đó mà chỉ những yếu tố của tự nhiên đã trong lịch sử. Do đó, các nguyên liệu, phương
được một cộng đồng người nhận thức, thích tiện, cách thức thích nghi, ứng phó với tự nhiên
nghi, định danh, khai thác, cải biến hay huỷ và xã hội mà hai tác nhân ấy cung cấp cho con
hoại, mới hợp thành không gian văn hóa của người ở các vùng miền khác nhau và ở những
họ. giai đoạn khác nhau, tất yếu phải khác nhau.
2) Điều kiện giao lưu văn hóa (cultural Điều đó giải thích vì sao, cho dù cùng một tộc
interchange): Bao gồm những yếu tố của điều người, nhưng cư trú trên những vùng địa lý
kiện địa lý tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình khác nhau, có quá trình giao lưu văn hóa khác
của vùng cư trú, tạo thuận lợi hay gây khó nhau, cũng có thể làm hình thành những nhóm
khăn cho việc giao lưu văn hóa. Những vùng địa phương có đặc trưng văn hóa khác nhau.
đất có điều kiện địa lý tự nhiên thoáng mở như Ngược lại, cho dù khác tộc người, nhưng cư trú
vị trí tiếp giáp các tuyến đường giao thương, trên cùng một địa bàn, có quá trình giao lưu
văn hóa mật thiết với nhau, cũng có thể làm
địa hình thảo nguyên hoặc đồng bằng châu
hình thành những nhóm trung gian có những
thổ không bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội
đặc trưng văn hóa chung, biến đổi từ văn hóa
giao lưu văn hóa nội vùng và giao lưu văn hóa
truyền thống của các tộc người tổ tiên.
với bên ngoài sẽ gia tăng. Ngược lại, những
vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên biệt lập Có thể diễn giải dây chuyền tác động của
như vị trí địa lý tách biệt khỏi các tuyến đường hai tác nhân địa lý tự nhiên và giao lưu văn hóa
giao thương, địa hình đồi núi hoặc hải đảo trong sự hình thành và biến đổi văn hóa tộc
bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội giao lưu người và văn hóa vùng theo sơ đồ:
văn hóa nội vùng và giao lưu văn hóa với bên - Điều kiện địa lý tự nhiên => không gian
ngoài sẽ giảm đi. Thông thường, giao lưu văn văn hóa => hình thành, biến đổi văn hóa tộc
hóa sẽ được khởi đầu bằng trao đổi thương người => hình thành, biến đổi đặc trưng văn
mại và tôn giáo. Qua đó, nó cung cấp cho con hóa vùng.
người những nguyên liệu, phương tiện, cách - Điều kiện giao lưu văn hóa => tiếp biến
thức thích nghi, ứng phó mới, làm giàu, làm văn hóa => biến đổi văn hóa tộc người => biến
mới hành trang văn hóa của họ trên những đổi đặc trưng văn hóa vùng.
chặng đường cải biến tự nhiên và xã hội để 2.2. Phê phán quan điểm của quyết định
sinh tồn và phát triển. luận môi trường
Giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp biến văn Tuy nhiên, điều kiện địa lý tự nhiên không
hóa (acculturation), tức là tiếp thu, biến đổi quyết định số phận của các nền văn hóa như
những yếu tố văn hóa ngoại sinh thành những quan điểm của quyết định luận môi trường
yếu tố văn hóa tộc người, đồng thời biến đổi (environmental determinism). Đây là một quan
văn hóa tộc người để thích ứng với những yếu điểm đã được Carl Ortwin Sauer phê phán
tố văn hóa mới. Nếu giao lưu văn hóa chỉ là ngay từ thập niên 1920, nhưng cho đến nay
trao đổi để tăng cường hiểu biết và thoả mãn vẫn còn rơi rớt trong một số công trình nghiên
nhu cầu của con người, thì tiếp biến văn hóa sẽ cứu văn hóa. Ở Việt Nam, quyết định luận môi
làm biến đổi văn hóa tộc người. trường thậm chí còn được vận dụng để phân
Hai tác nhân địa lý tự nhiên và giao lưu văn loại các nền văn hóa và truy tìm nguồn gốc các
hóa là tiền đề của văn hóa tộc người và văn ưu khuyết điểm của văn hóa ở môi trường địa
hóa vùng, nên khi chúng biến đổi, văn hóa lý tự nhiên.
tộc người và văn hóa vùng sẽ tất yếu biến đổi. Trên thực tế, trong quan hệ với môi trường
Trong thực tiễn, hai tác nhân ấy không đồng tự nhiên, con người khác rất xa các loài động
38 Số 28 - Tháng 6 - 2019
- VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
vật. Bởi vì con người không chỉ khai thác tự Kết luận
nhiên đơn thuần và mãi mãi lệ thuộc tự nhiên. Những đóng góp quan trọng nhất của các
Ngược lại, trong quá trình khai thác tự nhiên, lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học
con người có khả năng sáng tạo và khả năng văn hóa là làm sáng tỏ vai trò của môi trường
tiếp nhận kinh nghiệm, tri thức của các nền tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của
văn hóa khác để từ đó, họ giảm dần sự lệ thuộc
văn hóa, đồng thời xác định mối quan hệ giữa
vào giới tự nhiên, thậm chí có thể tác động trở
văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con
lại tự nhiên, vươn lên kiểm soát giới tự nhiên.
người với môi trường tự nhiên, và sự định hình
Chính từ thực tế đó, các nhà nghiên cứu văn
cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật,
hóa ngày nay cho rằng, tự nhiên chỉ tác động
xây dựng của con người. Từ thực tiễn những
có mức độ vào quá trình hình thành và biến
đổi của văn hóa. Tác động của tự nhiên theo gì mà một số nền văn hóa đã làm đối với môi
thời gian và sự phát triển của khoa học kỹ thuật trường tự nhiên trong thế kỷ XX, các lý thuyết
cũng đã giảm đi, tỷ lệ nghịch với tác động trở địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa đã
lại của con người đối với tự nhiên. Như một chỉ ra sai lầm của quyết định luận môi trường,
nhận định của Simon During, nhà nghiên cứu chứng minh những tác động trở lại của văn
văn học, văn hóa người New Zealand sinh năm hóa đối với môi trường tự nhiên, từ đó đặt
1950: “Thoạt tiên, tự nhiên (nature) được định ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường tự
nghĩa trái ngược với kỹ xảo và công nghệ. nhiên của con người.
Trong điều kiện ấy, nó trở thành một lĩnh vực Tiếp thu, vận dụng những giá trị đóng góp
của những gì không thuộc quyền kiểm soát của các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái
của cơ quan con người, hoặc ngay cả những gì học văn hóa trong nghiên cứu văn hóa, chúng
được tạo ra hoặc được đánh dấu bởi cơ quan tôi nhận thức rằng, điều kiện địa lý tự nhiên là
con người. Điều trở ngại trước mắt của định tiền đề hình thành không gian văn hóa; và
nghĩa này là ngày nay những gì tồn tại với tư
điều kiện giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp
cách “tự nhiên” gần như đều là một sản phẩm
biến văn hóa. Cư trú trong một không gian văn
trực tiếp hoặc gián tiếp của sự thao túng lâu
hóa, tuỳ theo nhu cầu và năng lực sáng tạo của
dài của con người, đến mức trên hành tinh này
mình, các chủ thể văn hóa có thể khai thác các
hầu như không còn gì là “tự nhiên” thuần tuý
yếu tố của tự nhiên như là nguồn nguyên liệu,
đúng nghĩa nữa” [11, tr.208]2.
phương tiện để làm ra văn hóa. Và cùng với
Do đó, khi khảo sát mối tương quan giữa
năng lực sáng tạo của mình, các chủ thể văn
môi trường và văn hóa, thiết tưởng người
hóa có thể lựa chọn, tiếp biến những tri thức,
nghiên cứu cần xem xét vận dụng những quan
phương pháp, phương tiện, nguyên liệu mới
điểm chừng mực hơn, thay cho quyết định luận
và cả những nhu cầu mới thông qua sự tiếp
môi trường. Chẳng hạn quan điểm của Phạm
xúc với các cộng đồng cư dân lân cận, để đổi
Đức Dương: “Môi trường trong quan hệ với con
người được nhận thức như là tiền đề quy định mới, nâng cao nền văn hóa của mình. Do đó,
chứ không phải quyết định thế ứng xử của con không gian văn hóa và giao lưu tiếp biến văn
người với hai đặc trưng cơ bản: Xét về mặt sinh hóa đóng vai trò như là hai tác nhân hợp thành
học, đó là sự cân bằng giữa cơ thể - môi trường một môi trường văn hóa (cultural environment)
và sự thích nghi với các nền sinh thái. Xét về mặt mà trong đó, nền văn hóa của các cộng đồng
xã hội, vì hoạt động có ý thức nên con người người hình thành, vận động và biến đổi. Nền
luôn luôn muốn biến đổi tự nhiên phù hợp với văn hóa của một cộng đồng người mang tính
mình, do đó, con người tự đặt mình đối lập với chất tĩnh tại hay năng động, biến đổi chậm
tự nhiên, biến hệ sinh thái tự nhiên thành hệ chạp hay nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay
sinh thái nhân văn” [2, tr.67-68]. nhiều, phụ thuộc một phần vào không gian
Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
39
- VĂN HÓANGHIÊN CỨU
văn hóa và quá trình giao lưu tiếp biến văn Cultural Geography, New York, 2005, cập nhật
hóa mà cộng đồng người ấy đã trải qua. Phần ngày 23/5/2009, http://www.vanhoahoc.vn/
còn lại, nó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vhh-phuong-
khả năng lựa chọn của chủ thể văn hóa trước phap-nghien-cuu/1273-joel-bonnemaison-su-
hoi-sinh-cua-mot-cach-tiep-can-van-hoa.html.
những tác động đến từ môi trường văn hóa ấy.
6. Julian Haynes Steward (1972), Theory of
L.T.H Culture Change: The Methodology of Multilinear
(TS., Khoa Văn hóa học, Evolution, University of Illinois Press.
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGTPHCM) 7. Julian Haynes Steward (1977), “Evolutionary
principles and social types”, Evolution and
ecology: essays on social transformationm, ed. J.C.
Chú thích Steward and R.P Murphy, Urbana: University of
1
Nguyên văn: “Within each landscape there Illinois Press, pp. 68-86.
are phenomena that are not simply there but 8. Trần Ngọc Khánh (2011), “Mấy cơ sở tiếp
are either associated or independent of each cận lý thuyết nghiên cứu văn hóa”, cập nhật ngày
other”. “The task of geography is conceived as 05/09/2011, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-
the establishment of a critical system which cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de-
embraces the phenomenology of landscape, in chung/2073-tran-ngoc-khanh-may-co-so-tiep-
order to grasp in all of its meaning and colour the can-ly-thuyet-nghien-cuu-van-hoa.html.
varied terrestrial scene” [1].
9. Trần Ngọc Khánh (2012), Văn hóa đô thị
2
Nguyên văn: “Nature is defined, first, against giản yếu, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
artifice and technology. In these terms it becomes Chí Minh.
the domain of what is not under the control
10. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết
of human agency, or even what is produced
nhân học, Phan Ngọc Chiến dịch, Lương Văn Hy
or marked by human agency. The immediate
hiệu đính, từ nguyên tác tiếng Anh An introduction
difficulty with this definition is that today what
to the theory in anthropology, Published by the
exists as nature is almost wholly a direct or
press syndicate of the University of Cambridge,
indirect product of long human manipulation
1997, 1998, 2000, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ
so that, on this planet, there is almost no pure
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
nature in this sense” [11, tr.208].
11. Simon During (2005), Cultural Studies:
Tài liệu tham khảo a Critical Introduction, London and New York:
Routledge.
1. Carl Ortwin Sauer (1925), “The Morphology
of Landscape”, University of California Publications
Ngày nhận bài: 22 - 01 - 2019
in Geography 2, p. 20.
Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 5 - 2019
2. Phạm Đức Dương (2013), Văn hóa học dẫn
luận, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019
3. Lý Tùng Hiếu (2017), Trường Sơn - Tây
Nguyên: Tiếp cận văn hóa học, Nxb. Tri thức, Hà
Nội.
4. Joël Bonnemaison (2004), La géographie
culturelle, établi par Maud Lasseur et Christel
Thibault, Paris, C.T.H.S., 152 p.
5. Joël Bonnemaison (2009), “Sự hồi sinh của
một cách tiếp cận văn hóa”, Nguyễn Thanh Tùng
dịch, Nguyễn Văn Hiệu hiệu đính, từ nguyên bản
tiếng Anh Culture and Space: Conceiving a New
40 Số 28 - Tháng 6 - 2019
nguon tai.lieu . vn