Xem mẫu
- CÁC KHUYNH HƯỚNG
NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ QUA NGÔN NGỮ
TS. Lý Tùng Hiếu - TS. Nguyễn Văn Huệ
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
TP.HCM)
Văn hoá các dân tộc ở Việt Nam là đối tượng nghiên cứu thường xuyên
của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Và để tiếp cận đối tượng rộng
lớn đó, ngôn ngữ chính là một trong những ngả đường chủ yếu, không chỉ của
ngôn ngữ học mà cả các ngành khác như dân tộc học, nhân học, văn hoá học...
Chính vì vậy nên ngay từ khi các ngành khoa học trên hình thành ở Việt Nam,
việc tiếp cận văn hoá các dân tộc qua con đường ngôn ngữ và ngôn ngữ học
đã được tiến hành. Tuy nhiên, do đối tượng, phương pháp nghiên cứu chưa
được định hình thống nhất, hướng tiếp cận quan trọng ấy vẫn chưa thật sự
trở thành một chuyên ngành khoa học như nó đáng có, và phần lớn những
người chọn hướng tiếp cận ấy vẫn chưa được trang bị những tri thức và
phương pháp liên ngành cần thiết. Hậu quả khó tránh khỏi là những trường
hợp suy diễn chủ quan, phiến diện về những "thông điệp" văn hoá, lịch sử
chứa đựng trong ngôn ngữ.
Trước tình trạng đó, chúng tôi cho rằng cần phải xúc tiến một công
trình nghiên cứu tổng quan về lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học, và
về đối tượng, phương pháp, giá trị ứng dụng của ngôn ngữ học nhân học ở
Việt Nam. Vì vậy, năm 2007 khi còn công tác tại Viện Khoa học Xã hội vùng
Nam Bộ (nay là Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ), chúng tôi đã đăng
ký một Đề tài nghiên cứu cấp Viện mang tên Ngôn ngữ học nhân học: phác
thảo lịch sử, đối tượng, phương pháp, giá trỊ ứng dụng, và mời một bậc đàn
- anh của chúng tôi trong ngôn ngữ học là TS. Nguyễn Văn Huệ tham gia.
Ngày 18/2/2008, Đề tài đã được tổ chức nghiệm thu với Hội đồng nghiệm thu
gồm GS.TS. Bùi Khánh Thế (Chủ tịch), TS. Lê Khắc Cường, PGS.TS.
Nguyễn Công Đức, PGS.TS. Bùi Thế Cường, TS. Tô Đình Nghĩa (Uỷ viên).
Dưới đây, chúng tôi cho đăng lại hai chương của Đề tài nói về lịch sử
hình thành ngôn ngữ học nhân học trên thế giới và ở Việt Nam, để cung cấp
thông tin cho những người quan tâm đến hướng tiếp cận văn hoá qua ngả
đường ngôn ngữ và ngôn ngữ học. Trong đó, chương nói về ngôn ngữ học
nhân học ở Việt Nam đã được đăng trong Tạp chí Khoa học Xã hội, số 7 (119)
- 2008, trang 42-55, 33, và đã nhận được sự quan tâm góp ý của thầy chúng
tôi, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm.
{{{
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGÔN NGỮ HỌC NHÂN HỌC
TRÊN THẾ GIỚI
1. Quan điểm và phạm vi tổng thuật
Theo bài tổng thuật "Anthropological linguistics: An overview" ("Ngôn
ngữ học nhân học: Cái nhìn khái quát") của Jane H. Hill trong từ điển
International encyclopedia of linguistics (Bách khoa toàn thư quốc tế về ngôn ngữ
học, 1992: 65-69), "Lãnh vực ngôn ngữ học nhân học - hoặc như một số người gọi
là ‘nhân học ngôn ngữ' - được các học giả Bắc Mỹ hồi thập niên 1980 rất quan
tâm: họ kế thừa truyền thống nghiên cứu ‘bốn lãnh vực' của sự sống con người:
bao gồm nhân học tự nhiên, khảo cổ học, nhân học xã hội - văn hoá và nhân học
ngôn ngữ. Nhiều nhà nhân học ngôn ngữ cao cấp đã thụ giáo các học trò của
Edward Sapir; và các nhà nhân học ngôn ngữ thường xem Franz Boas, thầy của
Sapir, bản thân Sapir và học trò của ông, Benjamin Whorf, là những người sáng
lập môn học của mình. Tuy vậy, thuỷ tổ tinh thần của lãnh vực đa diện này rất
- phức tạp, có cội nguồn từ chủ nghĩa chức năng của trường phái Prague, chủ nghĩa
cấu trúc Mỹ ‘Neo-Bloomfieldian', phương ngữ học và tâm lý học xã hội (xem
Murray 1983). Bên ngoài nước Mỹ và Canada, sự quan tâm gần đây trong giới
nhân học xã hội Anh Quốc đối với vị trí của ngôn ngữ trong xã hội xác nhận sự
lưu truyền từ công trình của Malinowski về các chức năng của các ngôn ngữ
‘nguyên thuỷ' (xem Ardener 1971); Parkin 1982 gọi tên sự phát triển này là ‘nhân
học ngữ nghĩa'. Những công trình khác ở Anh Quốc có ảnh hưởng là công trình
của Bloch 1975 về thuật hùng biện chính trị trong các xã hội truyền thống, và các
công trình nghiên cứu xuyên văn hoá của Goody về tác động của việc biết đọc biết
viết (chẳng hạn năm 1977). Tại Pháp, tác phẩm của Claude Lévi-Strauss về sự
phân tích truyền thuyết về mặt cấu trúc đặc biệt có ý nghĩa; cũng được lưu ý như
vậy là các công trình nghiên cứu của Calame-Griaule năm 1965 về ngôn ngữ ở
vùng Dogon của Tây Phi, và nhân học nhận thức của Sperber năm 1985. Ngoài ra,
giới học giả Pháp theo lý thuyết xã hội nói chung cũng có ảnh hưởng đến nhân học
ngôn ngữ trên phạm vi quốc tế - chẳng hạn đề xướng của Pierre Bourdieu theo đó
các hình thức ngôn ngữ có thể cấu thành một loại ‘tài sản biểu trưng', hay quan
niệm của Michel Foucault về những giới hạn trong diễn đạt được cấu thành thông
qua sự cấu tạo có tính lịch sử gọi là ‘trật tự phát ngôn' ".
Ở Việt Nam, Trần Ngọc Thêm trong bài "Đi tìm ngôn ngữ của văn hoá và
đặc trưng văn hoá của ngôn ngữ" (Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá,
1993) cũng cung cấp một cái nhìn tổng quan về quá trình nghiên cứu mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hoá trên thế giới, bao gồm bốn thời kỳ: "Thời kỳ của
Wilhelm von Humboldt (cuối thế kỷ 19) với luận điểm nổi tiếng về tính thống nhất
của ngôn ngữ và ‘linh hồn dân tộc'. Thời kỳ những năm 30 của E. Sapir và B.
Whorf với luận điểm về áp lực của cách chia cắt hiện thực đặc thù của mỗi ngôn
ngữ đối với những người nói bằng ngôn ngữ ấy. Thời kỳ những năm 50 của
Claude Lévi-Strauss, người đã vận dụng khá thành công phương pháp cấu trúc của
ngôn ngữ học đương thời để nghiên cứu mối liên hệ giữa quan hệ họ hàng và ngôn
- ngữ. Hiện nay chúng ta đang bước vào thời kỳ thứ tư, khi mà sự quan tâm đến văn
hoá nói chung và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá nói riêng đang được hồi
sinh".
Còn theo Nguyễn Văn Chiến trong công trình Tiến tới xác lập vốn từ vựng
văn hoá Việt (Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá) (2004) thì việc nghiên cứu ngôn
ngữ học về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá bao gồm ba giai đoạn cơ bản:
giai đoạn thứ nhất: tiền cấu trúc luận (trước F. de Saussure); giai đoạn thứ hai:
nghiên cứu cấu trúc luận cổ điển (F. de Saussure, C. Bally và A. Sechehaye); giai
đoạn thứ ba: hậu cấu trúc luận (1920-1930 đến nay).
Như vậy, khi nói về quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hoá trên thế giới, không phải các nhà nghiên cứu đều thống nhất trong việc
phân kỳ lịch sử và trong việc đánh giá sự đóng góp của các nhà khoa học trong
lãnh vực này. Nguyên nhân là quá trình ấy khá dài, số lượng tư liệu thu thập được
rất khác nhau, quan điểm đánh giá cũng khác nhau. Riêng ở Việt Nam, tình trạng
thiếu thốn tư liệu là một nguyên nhân lớn, vì những tư liệu liên quan đã biên dịch
và xuất bản thì số lượng không nhiều, còn lượng tư liệu đồ sộ trên Internet thì đòi
hỏi rất nhiều thời gian chọn lọc, biên dịch và tổng hợp.
Dẫu sao, trên cơ sở những tư liệu quan trọng nhất đã thu thập được trong
quá trình theo đuổi lãnh vực này từ năm 1985 đến nay, chúng tôi cho rằng, không
thể nói đến lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá hay lịch sử
hình thành ngôn ngữ học nhân học mà không nhắc đến những người đã khai sinh
ngôn ngữ học nhân học, nhưng đồng thời, cũng không thể không nhắc đến những
đóng góp cho lãnh vực này của một loạt nhà khoa học khác, những người đã tự
giác hay không tự giác, góp phần ươm mầm, bồi đắp hình hài cho ngôn ngữ học
nhân học ngày nay. Bởi lẽ, từ khi hình thành, ngôn ngữ đã luôn luôn gắn với văn
hoá của nhân loại, văn hoá của những tộc người cụ thể. Để nghiên cứu văn hoá,
thường người ta phải nghiên cứu cả ngôn ngữ của nền văn hoá đó. Ngược lại, trừ
- một số chuyên ngành của ngôn ngữ học ngày nay chuyên nghiên cứu về cấu âm,
cấu trúc..., nghiên cứu ngôn ngữ thường là nhịp cầu dẫn sang địa hạt văn hoá, đem
lại những phát hiện về nội hàm văn hoá được chuyển tải qua ngôn ngữ. Chính vì
vậy mà không phải đến khi ngôn ngữ học nhân học và ngôn ngữ học hiện đại được
khai sinh thì mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá và việc tìm hiểu văn hoá
thông qua ngôn ngữ mới bắt đầu. Trên thế giới, những công trình nghiên cứu như
vậy đã được tiến hành từ rất lâu trước khi người ta nghĩ ra những danh xưng,
những chuyên ngành khoa học để định danh, phân loại chúng. Vì vậy, bất cứ công
trình tổng thuật nào về lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học cũng cần phải
nhắc đến sự đóng góp của các tác giả, tác phẩm đó, mặc dù không phải ai trong số
đó cũng có ý thức theo đuổi một chuyên ngành khoa học có danh xưng như vậy.
Tuy nhiên, việc tổng thuật cũng cần có giới hạn. Do quy mô có hạn của Đề
tài và điều kiện có hạn của thông tin tư liệu, chúng tôi sẽ không thâu tóm hết mà
chỉ điểm qua một số nhà khoa học và công trình tiêu biểu của họ đóng góp vào
lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trên thế giới.
2. Giai đoạn phôi thai
Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà tư tưởng, nhà ngữ văn học người Phổ Wilhelm
von Humboldt (1767-1835), sau một quá trình nghiên cứu hàng chục ngôn ngữ
khắp thế giới, đã rút ra nhận xét: vì gắn bó với tinh thần, với từng dân tộc hay bộ
lạc, và có "hình thức bên trong" riêng, "mỗi ngôn ngữ đều chứa đựng một thế giới
quan của mình". Ông lấy thí dụ: trong tiếng Sanskrit, "con voi" được gọi bằng
những tên có nghĩa là "con uống hai lần" hoặc "con hai răng"...; mỗi tên gọi ấy tuy
cùng chỉ một đối tượng nhưng chứa đựng những khái niệm khác nhau. Và ông cho
rằng mỗi ngôn ngữ "miêu tả hoàn cảnh chung quanh mà nó phụ thuộc vào, miêu tả
khung cảnh chỉ có thể vượt ra khỏi ranh giới của nó khi gia nhập một khung cảnh
khác". Tuy thế, không phải là không có sự thống nhất của thế giới quanh ta. Ông
- viết: "Nhiều ngôn ngữ không phải là nhiều tiêu chí của một đối tượng mà là sự
nhận xét khác nhau về đối tượng ấy".
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của Wilhelm von Humboldt, nhà nghiên cứu
ngôn ngữ người Đức Heyman Steinthal (1823-1899) đã đi đến nhận định: ngôn
ngữ là "tự ý thức, thế giới quan và lô-gích của tinh thần dân tộc". Và ông khuyến
nghị: nghiên cứu ngôn ngữ có thể và cần phải đi sâu vào mọi sự sáng tạo tinh thần
phong phú của con người; nghiên cứu các hình thức của ngôn ngữ có thể cho ta
khả năng đạt tới chỗ hiểu thấu tinh thần của dân tộc: "Các dữ kiện của ngôn ngữ
minh hoạ rõ ràng nhất mọi nguyên lý của tâm lý các dân tộc".
Đó là một số thành quả và ý tưởng tiên phong về mối quan hệ hữu cơ giữa
ngôn ngữ với văn hoá nói chung và văn hoá các dân tộc nói riêng. Những thành
quả và ý tưởng đó có được là do giới nghiên cứu ngữ văn ở Tây Âu đương thời đã
có quá trình hơn ba thế kỷ tiếp xúc với các nền văn hoá và các ngôn ngữ xa lạ trên
khắp thế giới, hệ quả của công cuộc thực dân hoá thế giới xuất phát từ các nước
này. Và đến lượt nó, những thành quả và ý tưởng nói trên đã dần dần làm hình
thành một khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ nhằm những mục đích học thuật
nằm ngoài ngôn ngữ, mà Ferdinand de Saussure gọi là ngôn ngữ học ngoại tại.
Như đã biết, Ferdinand de Saussure (1857-1913), nhà ngôn ngữ học xuất
sắc người Thụy Sĩ, là người được xem là đã có công đem lại cho ngôn ngữ học tư
cách một khoa học độc lập, với nhiều luận điểm được đúc kết trong ý tưởng cơ
bản của công trình Cours de linguistique générale (Giáo trình ngôn ngữ học đại
cương, 1916): "đối tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn ngữ,
xét trong bản thân nó và vì bản thân nó". Do quan điểm đó, ông "gạt ra ngoài ngôn
ngữ tất cả những gì xa lạ đối với cơ chế của nó, đối với hệ thống của nó, tóm lại là
tất cả những gì mà người ta gọi là ‘ngôn ngữ học ngoại tại'". Thế nhưng, cũng
chính trong công trình đó, ông thừa nhận: "Phong tục của một dân tộc có tác động
đến ngôn ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ
- làm nên dân tộc". Và trong công trình đó, các môn đệ của ông là Charles Bally và
Albert Sechehayye đã dành đến hai chương để ghi nhận những ý kiến của ông về
vai trò của "ngôn ngữ học ngoại tại" và về tầm quan trọng của "tài liệu ngôn ngữ
đối với nhân loại học và tiền sử học". Tình trạng đó một mặt chứng tỏ sự cực đoan
và mâu thuẫn của Ferdinand de Saussure, một mặt chứng tỏ tầm quan trọng không
thể phủ nhận của "ngôn ngữ học ngoại tại". Vậy "ngôn ngữ học ngoại tại" là gì?
Theo Ferdinand de Saussure, "ngôn ngữ học ngoại tại" là một ngành ngôn
ngữ học "đảm đương những việc khá quan trọng và đó chính là những việc được
người ta nghĩ đến nhiều hơn cả, khi bắt tay vào nghiên cứu hoạt động ngôn ngữ".
Và theo ông, ngành ngôn ngữ học này có bốn đối tượng cần hướng tới: "Trước hết,
đó là tất cả những điểm mà ngôn ngữ học tiếp giáp với dân tộc học, tất cả những
mối liên hệ có thể có giữa lịch sử của một ngôn ngữ với lịch sử của một chủng tộc
hay của một nền văn minh. Hai thứ lịch sử này xen lẫn vào nhau và có những mối
quan hệ qua lại với nhau"; "thứ đến, phải ghi nhận những mối liên hệ giữa ngôn
ngữ và lịch sử chính trị"; kế tiếp là "những mối quan hệ giữa ngôn ngữ với những
thiết chế thuộc đủ các loại như nhà thờ, nhà trường, v.v."; và "cuối cùng, tất cả
những gì liên quan đến sự phát triển địa dư của các ngôn ngữ và đến sự phân chia
thành phương ngôn đều thuộc phạm vi của ngôn ngữ học ngoại tại".
Những thông tin, ý kiến của Ferdinand de Saussure mà chúng tôi tóm tắt
trên đây có thể nói vừa là một sự tổng kết về "ngôn ngữ học ngoại tại" trong thế kỷ
19, vừa như một sự gợi ý để các nhà ngôn ngữ đi sau tiếp tục sử dụng ngôn ngữ
học để góp phần giải mã văn hoá và lịch sử. Do đó, trong chặng đường phôi thai
này, cũng cần phải ghi nhận những đóng góp của ông.
3. Giai đoạn hình thành
Bước sang thế kỷ 20, việc nghiên cứu văn hoá, lịch sử các dân tộc từ tư liệu
ngôn ngữ đã có bước phát triển đột phá với sự ra đời của các chuyên ngành ngôn
- ngữ học nhân học (anthropological linguistics) và dân tộc-ngôn ngữ học
(ethnolinguistics).
Góp công đầu trong việc hình thành chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học
(anthropological linguistics) là ba nhà khoa học Mỹ: Franz Boas, Edward Sapir và
Benjamin Lee Whorf. Ba nhà khoa học này, mà người trước là thầy của người sau,
đã có những công trình nghiên cứu nổi tiếng sử dụng cả ngôn ngữ học lẫn tri thức
và phương pháp của một số ngành khoa học tiếp giáp. Công trình đầu tiên phải kể
đến là ba tập Handbook of American Indian languages (Cẩm nang về các ngôn
ngữ bản xứ Mỹ) xuất bản vào các năm 1911, 1922 và 1938 của người sáng lập
ngành nhân học Bắc Mỹ, Franz Boas (1858-1942). Trước nhu cầu cấp bách phải
miêu tả các ngôn ngữ và nền văn hoá của người bản xứ Bắc Mỹ mà phần lớn có
nguy cơ diệt vong, Franz Boas trong cuốn sách trên đã lần đầu tiên phác thảo một
phương pháp để nhà nghiên cứu có thể điều tra và miêu tả các ngôn ngữ mà mình
không quen biết, đồng thời cũng cho thấy thông qua ngôn ngữ, nhà nghiên cứu có
thể "đọc" được nền văn hoá của dân tộc nói ngôn ngữ ấy như thế nào. Tư tưởng cơ
bản của ông là: "nghiên cứu ngôn ngữ là một bộ phận không thể tách rời của việc
nghiên cứu tâm lý các dân tộc trên thế giới... ngôn ngữ là một trong những địa hạt
thuận lợi nhất để nghiên cứu sự hình thành các biểu tượng đạo lý". Ông cũng thể
hiện quan điểm ấy trong các bài giảng tại Trường Đại học Columbia và từ đó xác
lập một khuynh hướng mới trong ngôn ngữ học: Ngôn ngữ học theo khuynh hướng
Boas (Boasian Linguistics).
Tiếp theo là Edward Sapir (1884-1939), nhà ngôn ngữ học xuất sắc nhất
trong số những người theo trường phái Boas. Chịu ảnh hưởng của Boas, Edward
Sapir đã đi sâu nghiên cứu cả hai khoa nhân học và ngôn ngữ học, dành nhiều thời
gian nghiên cứu các ngôn ngữ thổ dân da đỏ ở Mỹ, Canada, Mexico, Trung Mỹ.
Nhưng ông có điểm khác với thầy mình là đã làm cho ngôn ngữ học Mỹ trở thành
một khoa học độc lập chứ không còn là một bộ phận của nhân học nữa. Cho đến
- đầu thế kỷ 20, với các công trình đầu tay của Boas và thế hệ sinh viên đầu tiên của
ông, ngành ngôn ngữ học Mỹ gần như không thể tách khỏi cội rễ của nó là nhân
học. Ngay như các bản thảo đầu tay của Sapir cũng chấp nhận sự lệ thuộc lâu đời
kiểu Mỹ của các vấn đề ngôn ngữ học vào các vấn đề văn hoá và triết học. Nhưng
với công trình Language: An introduction to the study of speech (Ngôn ngữ: Dẫn
luận vào việc nghiên cứu tiếng nói) công bố năm 1921, ông đã biện luận cho sự
độc lập của ngôn ngữ học như một khoa học độc lập đối với nhân học hay bất cứ
ngành khoa học nào khác. Sapir cho rằng khả năng ứng dụng của các phương
pháp Ấn-Âu cho các ngôn ngữ không có chữ viết là điều đương nhiên và ngôn ngữ
học bản xứ Mỹ sẽ đóng góp một cách đáng kể vào cho ngành ngôn ngữ học chung.
Cũng trong công trình đó, ông đã xác lập các luận điểm cho rằng ngôn ngữ là một
cấu trúc mang dấu ấn của tư duy, nó mang thế giới quan đặc thù của một nền văn
hoá, nó tổ chức và là điều kiện cho tư duy hoạt động. Và rằng, mỗi ngôn ngữ đều
có khuôn cảnh riêng của nó, gắn liền với một tập thể có những đặc trưng vật chất
làm cho nó khác hẳn với những tập thể khác. Hơn nữa, ngôn ngữ không thể tồn tại
bên ngoài văn hoá, nghĩa là sự tập hợp những phong tục và tín ngưỡng có tính kế
thừa trong xã hội, quy định các sinh hoạt của đời sống chúng ta. Giữa ngôn ngữ và
văn hoá không có quan hệ nội tại hay quan hệ nhân quả, nhưng nội dung của ngôn
ngữ lại liên quan mật thiết với văn hoá: "Trong ý nghĩa là từ vựng của một ngôn
ngữ phản ánh ít nhiều trung thành với cái nền văn hoá mà ngôn ngữ đó phục vụ,
thì một điều hoàn toàn đúng là lịch sử của ngôn ngữ và lịch sử của văn hoá chuyển
động theo những đường song song nhau".
Quan điểm đó của Sapir đã được người học trò gần gũi và nổi tiếng nhất
của ông là Benjamin Lee Whorf (1897-1941) kế thừa và phát triển thêm trong các
tiểu luận như Science and linguistics (Khoa học và ngôn ngữ học, 1940), The
relation of habitual thought and behavior to language (Mối quan hệ giữa tư duy
và hành vi thông lệ với ngôn ngữ, 1941). Và do đó các nhà nghiên cứu đã dùng
thuật ngữ Sapir-Whorf Hypothesis (Giả thuyết Sapir-Whorf) để gọi chung quan
- điểm của hai ông. Điều đáng tiếc là ngôn ngữ của B.L. Whorf không dễ đọc, và để
hiểu được nó người ta phải "phiên dịch" ra ngôn ngữ bình thường! Theo một tóm
tắt thường được giới nghiên cứu trích dẫn thì dường như Whorf đã đưa ra hai giả
thuyết: "(1) Nhìn chung, những khác biệt về cấu trúc giữa hai hệ thống ngôn ngữ
sẽ kèm theo những khác biệt về tri nhận phi ngôn ngữ, dưới một hình thức không
cụ thể, ở người bản ngữ nói hai ngôn ngữ đó. (2) Cấu trúc của tiếng mẹ đẻ của bất
kỳ người nào cũng ảnh hưởng mạnh mẽ hoặc hoàn toàn quyết định cách nhìn thế
giới mà người này sẽ có được trong quá trình thủ đắc thứ tiếng đó" (R. Brown,
1976: 128; theo P. Kay & W. Kempton, 1984: 65-79).
Các công trình của Franz Boas, Edward Sapir, Benjamin Lee Whorf và
những người kế tục không chỉ khai mở mà còn đem lại cho chuyên ngành ngôn
ngữ học nhân học (anthropological linguistics) một vị thế vững chãi trong các
nước nói tiếng Anh cho đến tận ngày nay.
Trong khi đó, ở Pháp, các nhà khoa học quan tâm đến mối tương quan giữa
ngôn ngữ và văn hoá vẫn tiếp tục tìm tòi theo những hướng riêng, nối tiếp truyền
thống đã có của các ngành Đông phương học, ngôn ngữ học, nhân học, dân tộc
học. Nổi bật nhất trong số đó là Claude Lévi-Strauss (sinh 1908), nhà nhân học
xuất sắc, người đã sưu tầm, phân tích và khái quát các tư liệu nhân học theo một
phương pháp luận mới gắn liền với tên tuổi của mình: chủ nghĩa cấu trúc. Công
trình Les structures élémentaires de la parenté (Các cấu trúc sơ đẳng của thân
tộc) công bố năm 1949 của ông được đánh giá như một cuộc cách mạng về nhân
học. Tập tiểu luận Chủng tộc và Lịch sử của ông được Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hoá của Liên hiệp quốc UNESCO công bố năm 1952 đã vượt xa chủ
đề của nó để đưa ra một sự suy nghĩ mới về văn hoá phương Tây, ý nghĩa của văn
minh, tính chất bấp bênh của thời gian lịch sử v.v. Tiếp tục sử dụng phương pháp
luận ấy, ông đã viết nhiều công trình vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị văn
chương, như Tristes tropiques (Nhiệt đới buồn, 1955, 1977), Anthropologie
- Structurale (Nhân học cấu trúc, 1958, bản tiếng Anh Structural anthropology,
1963), Totemism (Tín ngưỡng tô-tem, 1963), Le triangle culinaire (Tam giác bếp
núc, 1965), The savage mind (Tinh thần hoang dã, 1966), The raw and the cooked
(Sống và chín, 1969), Myth and meaning (Huyền thoại và ý nghĩa, 1978). Trong
khi kiên trì mục tiêu phát hiện những lô-gích xã hội mà trước hết là lô-gích tinh
thần, ông cũng đồng thời chấp nhận những sửa đổi điều chỉnh về phương pháp
luận khi cần thiết. Đối với ông, các nền văn minh và văn hoá đều có những giá trị
lớn, ngang nhau, nói lên tính thống nhất của loài người, trong khi mỗi tộc người
vẫn mang sâu đậm những bản sắc của mình.
Cùng thời hoặc nối tiếp Claude Lévi-Strauss là một số nhà ngôn ngữ học
Pháp, tiếp tục tham gia vào việc khai mở văn hoá, lịch sử các dân tộc bằng cách
kết hợp ngôn ngữ học với tư liệu của dân tộc học, khảo cổ học. Trong số đó, có thể
kể đến nhà ngữ pháp so sánh Emile Benveniste (1902-1976) với những công trình
nghiên cứu về ngôn ngữ Ấn-Âu mà kết quả tìm tòi đã vượt xa khuôn khổ ngữ pháp
so sánh. Khi phân tích ý ngh ĩa cơ bản của từ ngữ, ông đã soi sáng tổ chức về mặt
kinh tế, xã hội, chính trị, tôn giáo của nền văn hoá cổ đại hiện đang còn ảnh hưởng
đến nền văn hoá ngày nay. Công trình để lại nổi tiếng nhất của ông là cuốn
Problèmes de linguistique générale (Những vấn đề của ngôn ngữ học đại cương,
1939, 1966, 1974, bản tiếng Anh Problem of general linguistics, 1971). Cũng có
thể kể đến nhà ngôn ngữ học, dân tộc học André-Georges Haudricourt (sinh
1911) với một loạt bài nói về mối tương liên giữa dân tộc học với ngôn ngữ học và
dân tộc-ngôn ngữ học: "Linguistique et ethnologie" ("Ngôn ngữ học và dân tộc
học", Ethnologie générale, Vol. XXIV, Paris, 1968), "Ethnoscience et
ethnolinguistique ("Khoa học dân tộc và dân tộc-ngôn ngữ học", Annuaire 1970-
1971, Ecole pratique des Hautes Etudes), "Ethnoscience et ethnolinguistique"
("Khoa học dân tộc và dân tộc-ngôn ngữ học", Annuaire 1974-1975, Ecole des
Hautes en Sciences sociales)...
- Các công trình của các nhà ngôn ngữ học, dân tộc học Pháp đã làm hình
thành chuyên ngành dân tộc-ngôn ngữ học (ethnolinguistics) mà hiện nay có thể
xem là một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ học nhân học hiện đại, mặc dù nó có
hướng phát triển riêng.
Ở Liên Xô đương thời, cũng có một vài nhà ngôn ngữ học chú ý đến mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá mà nổi bật là E.M. Vereshchagin và V.G.
Kostomarov, với các công trình như Jazyk i kul'tura: Lingvostranovedenie v
prepodavanii Russkovo jazyka kak inostrannogo (tiếng Nga, Moskva, 1976) và
Lingvostranovedcheskaja teorija slova (tiếng Nga, Moskva, 1980).
4. Giai đoạn phát triển
Trong những thập niên cuối thế kỷ 20, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và văn hoá đã có bước phát triển mới với sự phát triển chuyên ngành
nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology) chuyên khảo sát vị trí của ngôn ngữ
trong đời sống của các cộng đồng người, và sự phát triển trở lại của chuyên ngành
ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) sau một thời gian ít được
quan tâm.
Nguyên nhân khiến cho chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học
(anthropological linguistics) có một thời gian ít được quan tâm là do sự nổi lên
của các chuyên ngành, trường phái mới trong ngôn ngữ học. Nhưng vào năm 1992,
như chúng tôi đã trích dẫn bên trên, trong bài tổng thuật "Anthropological
linguistics: An overview" (International encyclopedia of linguistics, 1992: 65-69),
Jane H. Hill đã ghi nhận một sự quan tâm trở lại của các học giả Bắc Mỹ đối với
lãnh vực này trong thập niên 1980.
Từ đó đến nay, hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học đã liên tục phát
triển ở phương Tây, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh. Theo cỗ máy dò tìm
Google ngày 12/2/2008, hiện nay có đến 108.000 địa chỉ trên Internet cung cấp
- thông tin về từ khoá "anthropological linguistics", mà trong số đó có rất nhiều
trang web của các trường đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ. Số lượng các ấn phẩm
cũng rất lớn, và một số tài liệu trong số đó cũng đã có mặt ở Việt Nam dưới dạng
bản sao, bản dịch. Chẳng hạn cuốn Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận
liên ngành (2006), một công trình biên dịch rất công phu của Vũ Thị Thanh
Hương và Hoàng Tử Quân. Tổng cộng 12 công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh
có liên quan đến ngôn ngữ học nhân học đã được tuyển chọn và dịch thuật, cung
cấp những thông tin rất hữu ích cho những người quan tâm đến hướng nghiên cứu
đó ở Việt Nam: "Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ với ngôn ngữ"
("The relation of habitual thought and behavior to language" , 1941) của Benjamin
Lee Whorf; "Thế nào là giả thuyết Sapir-Whorf?" ("What is the Sapir-Whorf
Hypothesis?", 1984) của Paul Kay và Willett Kempton; "Phạm vi vấn đề tính
tương đối ngôn ngữ: Phân tích và đánh giá những nghiên cứu thực nghiệm" ("The
scope of linguistic relativity: An analysis and review empirical research", 1996)
của John A. Lucy; "Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu" ("The pronouns of power
and solidarity", 1960) của Roger Brown và Allbert Gilman; v.v.
Trong giai đoạn này, ngôn ngữ học nhân học thế giới quan tâm đến điều gì?
Có thể tìm thấy câu trả lời vắn tắt qua các chủ đề lớn mà tác giả William A. Forley
quan tâm giải quyết trong công trình Anthropological linguistics. An introduction
(Ngôn ngữ học nhân học. Dẫn luận, 2000), xuất bản ở Mỹ và Anh, như: "Sự tiến
hoá của ngôn ngữ" ("The evolution of language"), "Phổ niệm: Những ràng buộc
bẩm sinh đối với tinh thần" ("Universalism: Innate constraints on mind"), "Thuyết
tương đối: Những ràng buộc văn hoá và ngôn ngữ học đối với tinh thần"
("Relativism: Cultural and linguistic constraints on mind"), "Dân t ộc học của phát
ngôn" ("The ethnography of speaking"), "Văn hoá và sự biến đổi ngôn ngữ"
("Culture and language change").
- Bên cạnh đó là sự phát triển của chuyên ngành nhân học ngôn ngữ
(linguistic anthropology), một bộ phận của ngành nhân học, với những mối quan
tâm gần gũi với chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học. Như nhận định của Jane H.
Hill trong bài tổng thuật "Anthropological linguistics: An overview" (International
encyclopedia of linguistics, 1992: 65-69): "Trong ba mươi năm qua, một ‘nhân
học ngôn ngữ' mới chuyên khảo sát vị trí của ngôn ngữ trong đời sống của các
cộng đồng người đã phát triển bên trong ngành nhân học, bên cạnh ‘ngôn ngữ học
nhân học'. Hai chuyên ngành phụ này có một ảnh hưởng phối hợp quá lớn so với
số lượng nhà nghiên cứu ít ỏi của chúng".
Theo cỗ máy dò tìm Google ngày 12/2/2008, hiện nay có đến 178.000 địa
chỉ trên Internet cung cấp thông tin về từ khoá "linguistic anthropology", mà trong
số đó cũng có rất nhiều trang web của các trường đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Số
lượng các ấn phẩm cũng vô cùng lớn, và một số tài liệu trong số đó cũng đã có
mặt ở Việt Nam dưới dạng bản sao, bản dịch.
Vậy chuyên ngành nhân học ngôn ngữ trên thế giới quan tâm đến điều gì?
Có thể tìm thấy câu trả lời vắn tắt qua các chủ đề lớn mà tác giả Alessandro
Duranti quan tâm giải quyết trong công trình Linguistic anthropology (Nhân học
ngôn ngữ, 2000), xuất bản ở Anh: "Phạm vi của nhân học ngôn ngữ" ("The scope
of linguistic anthropology"), "Các lý thuyết về văn hoá" ("Theories of culture"),
"Tính đa dạng ngôn ngữ học" ("Linguistic diversity"), "Các phương pháp dân tộc
học" ("Ethnographic methods"), "Sự ghi chép: từ chữ viết đến những hình ảnh số
hoá" ("Transcription: from writing to digitized images"), "Ý nghĩa dưới các hình
thái ngôn ngữ học" ("Meaning in linguistic forms"), "Phát ngôn như một hành
động có tính xã hội" ("Speaking as social action"), "Những trao đổi đàm thoại"
("Conversational exchanges"), "Các đơn vị tham gia" ("Units of participation").
Chính do sự gần gũi về mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
nên ranh giới giữa nhân học ngôn ngữ với ngôn ngữ học nhân học đôi lúc khó xác
- định. Đây cũng là tình trạng chung của các chuyên ngành, bộ phận khác của ngành
nhân học, do sự chồng lấn về mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của
chúng đối với các ngành và chuyên ngành khoa học tương cận như dân tộc học,
khảo cổ học, xã hội học, văn hoá học, ngôn ngữ học...
Chính vì thế nên, mặc dù kể từ khi Edward Sapir xuất bản công trình
Language: An introduction to the study of speech vào năm 1921, ngành ngôn ngữ
học Bắc Mỹ đã trở thành một khoa học độc lập chứ không còn là một bộ phận của
nhân học nữa, nhưng gần đây lại có một số tài liệu quan niệm ngôn ngữ học nhân
học (anthropological linguistics) như là một tên gọi khác của nhân học ngôn ngữ
(linguistic anthropology) hoặc như là một bộ phận của nhân học văn hoá (cultural
anthropology). Tiêu biểu là Jane H. Hill, người đã dùng lời kết của bài tổng thuật
"Anthropological linguistics: An overview" trong từ điển International
encyclopedia of linguistics (1992: 65-69) để nói về mối quan tâm của các nhà nhân
học ngôn ngữ (linguistic anthropologists): "Các nhà nhân học ngôn ngữ thống nhất
ở sự chú trọng chung vào việc nghiên cứu các cuộc đàm thoại diễn ra tự nhiên, và
vào việc thừa nhận tầm quan trọng của tính đa dạng xuyên văn hoá trong các chức
năng của ngôn ngữ. Họ cũng thống nhất ở sự khẳng định rằng ngôn ngữ gắn bó rất
chặt chẽ với nền văn hoá và xã hội con người, và đến một mức độ cao cấu tạo nên
chúng. Do vậy, họ xem việc nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ và việc sử dụng ngôn
ngữ như một công việc lô-gích đối với khoa nhân học".
Nhưng trên thực tế, các nhà ngôn ngữ học nhân học và các nhà nhân học
ngôn ngữ không phải luôn luôn có cùng mối quan tâm và có cùng quan điểm. Chỉ
căn cứ vào bài tổng thuật của Jane H. Hill và vào nội dung các công trình của hai
tác giả William A. Forley và Alessandro Duranti nêu trên, cũng đủ thấy có một
khoảng cách nhất định giữa cái được gọi là ngôn ngữ học nhân học với cái được
gọi là nhân học ngôn ngữ. Chưa kể sự tồn tại song song hai tên gọi chuyên ngành
khác nhau trong cùng một địa hạt nghiên cứu hẳn phải có lý do, thể hiện quan
- điểm khác nhau của những người trong cuộc khi họ tự nhận là mình thuộc chuyên
ngành này hay thuộc chuyên ngành khác.
Trong khi đó, ở Pháp, truyền thống dân tộc-ngôn ngữ học vẫn tiếp tục được
duy trì. Mới đây, trong chuyến thăm Việt Nam, nhà ngôn ngữ học Pháp Laurent
Sagart, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ học về Đông Á thuộc
Trung tâm Nghiên cứu khoa học Xã hội, Paris, đã có buổi báo cáo khoa học tại
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh về công trình Thoughts of the
formation of East Asian language families (Những suy nghĩ về sự hình thành của
các ngữ hệ ở Đông Á) do ông thực hiện và công bố vào năm 2004. Theo đó, sự kết
hợp các bằng chứng ngôn ngữ học với các bằng chứng dân tộc học và khảo cổ học
cho phép giả thuyết rằng hai ngữ hệ Hán Tạng và Nam Đảo xưa kia từng là một
(Proto-Sino-Austronesian). Sau đó ngữ hệ Hán Tạng mới hình thành ở phía Tây
Trung Quốc; còn ngữ hệ Nam Đảo hình thành ở phía Đông Trung Quốc, thiên di
ra Đài Loan khoảng 3.500 năm trước, từ đó phân tán ra khắp Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương, v.v. Công trình này của Laurent Sagart cho thấy rằng hướng
nghiên cứu dân tộc-ngôn ngữ học vẫn đang được giới ngôn ngữ học Pháp chú ý
phát triển và vận dụng.
{
Tóm lại, căn cứ vào những tư liệu thu thập được, có thể nói về mặt cội
nguồn, chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học hiện nay bắt nguồn từ ngôn ngữ học
nhân học Mỹ, nhưng đồng thời cũng có mối liên quan mật thiết với các chuyên
ngành tương cận như ngôn ngữ học ngoại tại trong thế kỷ 19, dân tộc-ngôn ngữ
học và nhân học ngôn ngữ trong thế kỷ 20.
Việc phân giới giữa ngôn ngữ học nhân học với các chuyên ngành tương
cận nói trên như thế nào, là tuỳ theo quan điểm, mục đích phân loại của nhà
nghiên cứu hoặc người tổng thuật. Nếu lấy nguồn gốc và danh xưng làm trọng,
- người ta buộc phải tách rời các chuyên ngành tương cận ấy ra, vì chúng có nhiều
chỗ khác nhau. Theo đó, không thể xem chuyên ngành dân tộc-ngôn ngữ học như
một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ học nhân học hiện đại. Cũng không thể xem
nhân học ngôn ngữ và ngôn ngữ học nhân học chỉ là hai tên gọi khác nhau của
cùng một chuyên ngành.
Ngược lại, nếu như lấy nội dung, lấy những điểm chung về mục đích, đối
tượng và phương pháp làm trọng, người ta vẫn có thể, trong khi theo đuổi một
chuyên ngành nhất định, tiếp thu những tinh hoa của các chuyên ngành tương cận
để bổ sung, phát triển hướng nghiên cứu của mình. Cần lưu ý là giữa các nhà khoa
học theo đuổi các chuyên ngành khoa học nói trên luôn luôn tồn tại một số điểm
chung rất cơ bản. Điểm chung quan trọng nhất có lẽ là, họ đều quan niệm ngôn
ngữ là thành tố thiết yếu cấu tạo nên văn hoá và xã hội, đồng thời phản ánh văn
hoá và xã hội, cho nên để có thể thấu hiểu các nền văn hoá và xã hội thì không thể
không nghiên cứu ngôn ngữ của nền văn hoá và xã hội ấy. Điểm chung quan trọng
kế tiếp là họ thường vận dụng chuyên ngành khoa học này để giải quyết các vấn
đề ngôn ngữ của các xã hội thuộc thời kỳ tiền văn tự.
Trong công trình này, chúng tôi theo quan điểm thứ hai.
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGÔN NGỮ HỌC NHÂN HỌC
Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm và phạm vi tổng thuật
Với tư cách một chuyên ngành khoa học, ngôn ngữ học nhân học chỉ mới
bắt đầu bén rễ ở Việt Nam chừng một thập niên. Tuy nhiên, đối tượng, phạm vi,
nội dung, phương pháp nghiên cứu của nó không phải là điều hoàn toàn xa lạ đối
với các nhà ngôn ngữ học, dân tộc học, nhân học Việt Nam. Bởi trước đó, từ cuối
thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20, việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc với những
mục đích khác nhau trong đó có mục đích tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với
- văn hoá và những thông điệp văn hoá thông qua ngôn ngữ, là công việc thường
xuyên của đông đảo các nhà Đông phương học, ngôn ngữ học, dân tộc học Việt
Nam và nước ngoài. Các cơ sở khoa học danh tiếng như Trường Viễn Đông Bác
cổ của Pháp, Viện Ngữ học Mùa hè của Mỹ, Viện Đông phương học của Liên Xô,
Viện Ngôn ngữ học và Viện Dân tộc học của Việt Nam, Khoa Ngữ văn của
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh, v.v. đều rất quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu các ngôn ngữ dân
tộc ở Việt Nam và Đông Dương, mà mục đích, đối tượng, phương pháp rất gần gũi
với ngôn ngữ học nhân học. Và giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu đó
cũng cực kỳ to lớn, là tiền đề khoa học vững chắc của chuyên ngành ngôn ngữ học
nhân học Việt Nam. Vì vậy, cũng như trên thế giới, có thể nói việc nghiên cứu
ngôn ngữ học nhân học ở Việt Nam đã được tiến hành từ rất lâu trước khi chuyên
ngành này thật sự hình thành ở Việt Nam. Và bất cứ công trình tổng thuật nào về
lịch sử hình thành chuyên ngành này ở Việt Nam cũng không được phép bỏ qua
những thành tựu nghiên cứu của các nhà Đông phương học, ngôn ngữ học, dân tộc
học vừa nêu, vì đó chính là tiền đề, tiền thân hoặc là bạn đồng hành của ngôn ngữ
học nhân học ngày nay.
Tuy nhiên, ở đây cũng cần hạn định. Mặc dù tất cả các công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ dân tộc, về nhân chủng, về dân tộc... nói trên đều trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học ở Việt Nam,
nhưng không phải bất cứ công trình nào trong số đó cũng có thể quy vào hướng
nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học. Xét về mục đích, đối tượng, phương pháp và
nguồn tư liệu, chỉ một phần trong số đó thật sự là những công trình nghiên cứu có
tính chất liên ngành, trực tiếp liên quan đến sự hình thành ngôn ngữ học nhân học
và các chuyên ngành tương tự. Do số lượng, quy mô các công trình nghiên cứu
thuộc các lãnh vực nói trên là cực kỳ to lớn, việc tổng thuật về lịch sử hình thành
ngôn ngữ học nhân học ở Việt Nam chỉ nên giới hạn trong phạm vi những công
trình liên quan trực tiếp đó mà thôi.
- Dựa trên quan điểm lịch sử nói trên, chúng tôi xác định việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá ở nước ta đã có tuổi đời gần một trăm
năm, và bao gồm một số khuynh hướng khác nhau, phản ánh ảnh hưởng của các
khuynh hướng học thuật khác nhau đối với ngôn ngữ học Việt Nam. Đại thể, có tất
cả bốn khuynh hướng liên quan: khuynh hướng ngôn ngữ học tiếp xúc (contact
linguistics) hay khuynh hướng tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ
(theory of contact language), khuynh hướng dân tộc-ngôn ngữ học
(ethnolinguistics), khuynh hướng văn hoá-ngôn ngữ học (culturolinguistics) hay
ngôn ngữ học văn hoá (cultural linguistics), khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học
(anthropological linguistics) và nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology).
Dĩ nhiên, trên thực tế không có ranh giới nghiêm ngặt giữa các khuynh
hướng đó ở Việt Nam. Không phải nhà nghiên cứu nào ở Việt Nam khi tiến hành
một công trình ngôn ngữ học liên quan đến văn hoá, dân tộc hay nhân học cũng có
ý thức rằng mình hay công trình của mình thuộc về khuynh hướng này hay khuynh
hướng nọ. Nhưng theo hình dung của chúng tôi thì bốn khuynh hướng nghiên cứu
nêu trên là có thật. Và sự phân loại như vậy là cần thiết để chúng ta dễ dàng nắm
bắt được các cội nguồn của ngôn ngữ học nhân học Việt Nam, đồng thời chỉ ra
những nguồn sinh lực mà chuyên ngành khoa học này cần phải thu nạp để làm
giàu cho hành trang nghiên cứu của mình.
Ngoài bốn khuynh hướng ấy, chúng tôi cũng ghi nhận những công trình
khác có chung mục đích nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, với
đối tượng và phương pháp ít nhiều có tính chất liên ngành.
Dưới đây xin lần lượt điểm qua các khuynh hướng đó và những tác giả, tác
phẩm tiêu biểu theo ghi nhận của chúng tôi.
- 2. Khuynh hướng ngôn ngữ học tiếp xúc (contact linguistics) hay
khuynh hướng tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ (theory of
contact language)
Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ đã được manh nha từ thế kỷ 19 với H.
Schuchargt (1842-1927), nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Đức, là người đầu tiên
nghiên cứu về ngôn ngữ pha trộn (mixed language), về Pidgin và Creole. Sau đó lý
thuyết tiếp xúc ngôn ngữ (language contact) trở nên phổ biến từ những năm đầu
của thập niên 1950 với công trình Language in contact (1953) của U. Weinreich.
Ở Việt Nam, ý tưởng về một ngôn ngữ pha trộn đã được Henri Maspéro
nhắc đến khi nói về nguồn gốc tiếng Việt trong công trình "Études sur la
phonétique historique de la langue annamite. Les initiales" ( BEFEO, Vol. 12, no. 1,
1912).
G. Coedès cũng đề cập đến tiếp xúc ngôn ngữ khi bàn về các ngôn ngữ ở
Đông Dương trong bài "Les langues de l'Indochine" (Extrait des conférences de
l'Institut de Linguistique de l'Université de Paris, T.VIII, année 1940-1948).
Tương tự là S.E. Jakhontov trong bài "Về sự phân loại các ngôn ngữ ở
Đông Nam châu Á" (tiếng Nga, 1973, bản dịch Nguyễn Văn Lợi, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 1/1991).
Một số công trình khác gián tiếp đề cập đến tiếp xúc ngôn ngữ qua khảo sát
các từ vay mượn gốc Hán, gốc Pháp...
Cột mốc đánh dấu việc giới thiệu đầy đủ và áp dụng một cách có hệ thống
lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ vào việc nghiên cứu nguồn gốc tiếng Việt cũng như
các ngôn ngữ ở khu vực Đông Nam Á là công trình Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông
Nam Á của hai tác giả Phan Ngọc và Phạm Đức Dương (1983).
nguon tai.lieu . vn