Xem mẫu

  1. Câu 1: Quan hệ giữa quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng qui luật này vào Việt Nam. Câu 2: Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Liên hệ với con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay Câu 3:Quan điểm Macxit về bản chất của con người. Vấn đề phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay Câu 1: Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng quy luật này ở nước ta. I- Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1. Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động) và người lao động với kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân người lao động, với trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của họ. Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển; những tư liệu sản xuất, những tiến bộ của công nghệ và phương pháp sản xuất là kết quả vật chất của nhận thức khoa học. Thời đại ngày nay tri thức khoa học trở thành một bộ phận cần thiết của kinh nghiệm và tri thức của người sản xuất v.v. và được phát triển mạnh mẽ. Đó là lực lượng sản xuất to lớn thúc đẩy quá trình phát triển tiến bộ xã hội trên thế giới. 2. Quan hệ sản xuất Quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính vật chấ của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức quản lý trong sản xuất; quan hệ phân phối sản phẩm. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào trước hết do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định. II. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất 1. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất. - Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức. - Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó
  2. sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới xuất hiện... - Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau. 2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất - Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lựclượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. - Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. - Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v.. - Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất và biểu hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao. 3. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta.Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài vàđầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực lượng sảnxuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã v.v. để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  3. Câu 2: Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Liên hệ với con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay Đề cương: - Làm rõ khái niệm hình thái kinh tế xã hội, phân tích định nghĩa hình thái kinh tế xã hội (trong hình thái kinh tế xã hội có 3 lực lượng cơ bản cấu thành là: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Ngoài ba yếu tố cơ bản còn có các mối quan hệ khác, ví dụ như quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình) - Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. + Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động và phát triển của xã hội. + Sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội bị chi phối bởi các quy luật xã hội khách quan. k h Làm rõ tính khách quan của quy luật xã hội là quy luật hoạt động có mục đích của con người nhưng tồn tại và vận động không phụ thuộc vào ý muốn của con người. ờ h Hai quy luật cơ bản chi phối: Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; Quy luật về mối liên hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. + Quá trình lịch sử tự nhiên của sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội không chỉ diễn ra theo con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự phát triển rút ngắn, bỏ qua (lưu ý quá trình phát triển rút ngắn bỏ qua cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nói cách khác nó tùy thuộc vào sự phát triển cúa hoạt động sản xuất vật chất của quốc gia và thế giới. Quá trình phát triển này vẫn phải phát triển theo quy luật khách quan. Do đó rút ngắn, bỏ qua phải có điều kiện: ệ Đii u kiềệ khách quan vốn có trong nước và trên thế giới. n ớ ớ NN lỗự chủ quan ). c - Liên hệ với con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay. + Quan điểm của Đảng ta về con đường đã lựa chọn: Chúng ta đổi mới nhưng không đổi mục tiêu, không đổi mới con đường. + So với quan điểm trước đổi mới, quan điểm mới chú ý chúng ta làm rõ quan điểm “bỏ qua” sao cho đúng. Trước đổi mới chúng ta quan niệm bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là sai lầm. Theo tư duy mới bỏ qua là bỏ qua chế độ chính trị TBCN, bỏ qua quan hệ SX TBCN với tư cách là QHSX thống trị. + Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan cho con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. ệ ệ YYu tếố ủa thời đại: Trình độ lực lượng sản xuất đã mang tính chất quốc tế c ngày càng cao, toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu. ế ế YYu tếố ủ quan: Với chính sách mở cửa của Đảng ta tạo điều kiện để tranh thủ ch được sản xuất hiện đại. ạ ạ YYu tếố chính trị: Đảng và Nhà nước. + Kết luận con đường của Việt Nam là đúng đắn. Trả lời:
  4. Lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội như hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủ, hình thái kinh tế - xã hội nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và hiện nay đang bước vào xây dựng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một “nấc thang văn minh được quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra quy luật phát triển từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế xã hội. Để minh chứng cho luận điểm này, trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm hình thái kinh tế xã hội cũng như các yếu tố cấu thành của nó. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ một xã hội cụ thể ứng với một nấc thang phát triển cụ thể của lịch sử, với một quan hệ sản xuất đặc trưng tồn tại trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được thiết lập trên những quan hệ sản xuất đó. Hình thái kinh tế - xã hội cấu thành từ ba yếu tố cơ bản: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Ngoài ba yếu tố cơ bản trên còn có các yếu tố không cơ bản khác như giai cấp, dân tộc và gia đình, chúng là những yếu tố không cơ bản vì sự thay đổi của những yếu tố này phụ thuộc vào sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội. Lực lượng sản xuất là những phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất và kinh nghiệm lao động. Lực lượng sản xuất cấu thành từ ba yếu tố: người lao động, tư liệu sản xuất và công cụ lao động trong đó công cụ lao động đóng vai trò quyết định. Những yếu tố này tác động lẫn nhau làm cho lực lượng sản xuất thành yếu tố động nhất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất cấu thành từ ba quan hệ cơ bản là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Ba mối quan hệ này tác động làm cho quan hệ sản xuất cũng động nhưng có tính ổn định hơn lực lượng sản xuất. Tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định gọi là cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo, triết học, văn hoá, nghệ thuật và những thiết chế tương ứng sinh ra từ cơ sở hạ tầng. Theo quan điểm của triết học Mác, các hình thái kinh tế - xã hội không phải ra đời một cách ngẫu nhiên mà nó phát sinh – phát triển dựa trên những tiền đề, những quy luật. Sự phát triển đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều này được thể hiện qua hai luận điểm sau: Một là: Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động và phát triển của xã hội. Triết học Mác đã tìm ra điểm xuất phát mới trong việc nghiên cứu xã hội là xuất phát từ con người thực tiễn tức là xuất phát từ đời sống hiện thực của họ, từ đó Mác đã đi đến xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: “người ta phải có khả năng sống đã rời mới có thể làm ra lịch sử” nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy. Mác cũng phát hiện ra các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt động là nhu cầu và lợi ích, nhu cầu của con người hình thành một cách khách quan và nhu cầu là động lực thúc đẩy con người hoạt động. Hoạt động của con người thỏa mãn nhu cầu này lại làm nẩy sinh nhu cầu khác.
  5. Không ngừng nảy sinh nhu cầu mới là động lực thúc đẩy con người hoạt động, là động lực phát triển của xã hội. Hai là: Sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội bị chi phối bởi các quy luật xã hội khách quan. Các quy luật xã hội là quy luật hoạt động có mục đích của con người nhưng tồn tại và vận động không phụ thuộc vào ý muốn của con người.Chính sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của xã hội với tất cả tính phong phú đa dạng của nó. Cho nên từ sản xuất ra của cải vật chất để đi đến các mặt khác của đời sống xã hội tìm ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội. Từ nghiên cứu hoạt động sản xuất vật chất, Mác đi đến nghiên cứu các mặt khác của đời sống xã hội như chính trị, pháp quyền, các hình thái ý thức xã hội. Trong các mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp và tác động qua lại một cách biện chứng ông phát hiện ra: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Từ đó cho thấy xã hội là một hệ thống trong đócác mặt là mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, làm cho xã hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan. Mác cũng chỉ ra rằng lịch sử phát triển xã hội phải thông qua hoạt động có mục đích của con người. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật khách quan nhưng có khả năng nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực tiễn. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội bị chi phối bởi hai quy luật, đó là Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và Quy luật về mối liên hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử vận động phát triển thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao tức là loài người muốn tồn tại thì phải sản xuất, muốn sản xuất phải có lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại trong sản xuất vật chất hình thành nên phương thức sản xuất. Sản xuất phát triển thể hiện ở sự phát triển của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển bắt đầu từ công cụ sản xuất và từ đó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, nhưng do quan hệ sản xuất vận động chậm hơn so với lực lượng sản xuất nên tạo ra mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi mâu thuẫn này lên đến đỉnh điểm thì đòi hỏi khách quan phải thay quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với quan hệ sản xuất nhưng doquy quy luật phát triển nên sau một thời gian thì quan hệ sản xuất mới lại khôngcòn phù hợp nữa, tức là lại tạo nên mâu thuẫn và quá trình này tồn tại khách quan trong mọi phương thức sản xuất của lịch sử. Do đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng không phải là quan hệ của hai vấn đề mà là mối quan hệ giữa hai mặt của một vấn đề. Cơ sở hạ tầng thực chất là cơ sở hạ tầng kinh tế của một xã hội nhất định, còn kiến trúcthượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo… sinh ra từ cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng là nền tảng sinh ra những hiện tượng của kiến trúc thượng tầng nên cơ sở hạ tầng thay đổi thì sơm muộn gì kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Như vậy cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng. Chúng tác động qua lại, là quy luật khách quan, là quá trình lịch sử tự nhiện. Quá trình lịch sử tự nhiên của sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội không chỉ diễn ra theo con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự phát triển rút ngắn, bỏ qua. Quá trình phát triển rút ngắn bỏ qua cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nói cách khác nó tùy thuộc vào sự phát triển cúa hoạt động sản xuất vật chất của quốc gia và thế giới. Quá trình phát triển này vẫn phải phát triển theo quy luật khách quan. Do đó rút ngắn, bỏ qua phải có hai điều kiện, đó là điều kiện khách quan vốn có trong
  6. nước, trên thế giới.và điều kiện phải có nỗ lực chủ quan. Lịch sử của các hình thái kinh tế - xã hội đã từng chứng kiến sự “rút ngắn, bỏ qua” ví dụ như ở nước Mĩ từ hình thái chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên Chủ nghĩa Tư bản hay ở Việt Nam chúng ta từ hình thái thực dân nửa phong kiến đã tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử không chỉ có ý nghĩa thực tiễn mà còn có ý nghĩa lý luận to lớn đối với hoàn cảnh nước ta hiện nay. Chúng ta đã thấy được sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Viêt Nam là hoàn toàn phù hợp và theo đúng quy luật phát triển. Đảng ta đã đưa ra quan điểm về con đường đã lựa chọn là: Chúng ta đổi mới nhưng không đổi mới mục tiêu, không đổi mới con đường. So với quan điểm trước đổi mới, chúng ta đã làm rõ quan điểm “bỏ qua” sao cho đúng. Theo tư duy mới chúng ta bỏ qua là bỏ qua chế độ chính trị TBCN, bỏ qua quan hệ SX TBCN với tư cách là QHSX thống trị. Việt Nam tiến lên CNXH không phải từ CNTB mà từ một nước thuộc địa – nửa phong kiến bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là chúng ta tiến lên CNXH từ một xuất phát điểm rất thấp. Sự lựa chọn con đường XHCN không sai về định hướng và mục đích bởi vì về mặt lý luận thì CNXH là một xã hội tốt đẹp trong tương lai, nhưng phải xuất phát từ thực tiễn, phải xây dựng những tiền đề kinh tế vật chất cho nó. Trước đổi mới do sự tác động của nhiều yếu tố và hạn chế về nhận thức CNXH và CNTB không đúng chúng ta đã quan niệm CNTB và nền kinh tế thị trường là một, đó là một xã hội và nền kinh tế chỉ toàn cái xấu và cần phải loại bỏ nghĩa là phủ định những thành tựu to lớn của nhân loại đã đạt được ở trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa mà chưa nhận thấy mặt ưu điểm, cái hợp lý của hinh thái TBCN và kinh tế thị trường. Kể từ Đại hội VI (1986) Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành đổi mới tư duy, tiến hành cuộc cách mạng đổi mới cách nghĩ, cách làm. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sáng nền kinh tế thị trường mang đặc trưng XHCN, từ việc chuyển đổi này đã dần khắc phục được sự trì trệ, bảo thủ đem lại sự năng động, sáng tạo, hiệu quả trong tổ chức quản lý điều hành kinh tế xã hội. Việc lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được dựa trên cơ sở những điều kiện khách quan và chủ quan. Về điều kiện khách quan của khu vực và thế giới, chúng ta đang sống trong giai đoạn quốc tế hoá, toàn cầu hóa và toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu sắc, trình độ của lực lượng sản xuất mang tính quốc tế ngày càng cao. Quá trình toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu không thể tránh khỏi đã đặt nước ta trước một vận hội lớn để nắm bắt những thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất, thừa hưởng những thành quả tiến bộ của lực lượng sản xuất quốc tế. Cùng với điều kiện khách quan đó chính là nỗ lực chủ quan của Đảng và nhà nước ta, chúng ta đã và đang thực hiện chính sách mở của, tạo mọi điều kiện tăng cường thu hút đầu tư, tranh thủ sản xuất hiện đại để đưa đất nước ta có những bước tăng trưởng nhảy vọt. Sự kết hợp giữa các yếu tố khách quan và nỗ lực chủ quan là cơ sở để chúng ta thực hiện quá trình rút ngắn, bỏ qua Qua một số phân tích trên, một lần nữa chúng ta khẳng định con đường chúng ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn. Mối công dân cần tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta tiến lên xã hội chủ nghĩa.
  7. Câu 3: Quan điểm Macxit về bản chất của con người. Vấn đề phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay Đề cương: - Các quan điểm trước Mác và ngoài Mác về con người và bản chất con người. + Quan điểm tôn giáo. + Quan điểm duy sinh vật. + Quan điểm duy xã hội. + Quan điểm của Phoi ơ bắc (con người trừu tượng).  Phê phán, chỉ ra những hạn chế của các quan điểm đó. - Quan điểm Macxit. + Con người là một thực thẻ sinh vật – xã hội. Chú ý cả mặt sinh vật và mặt xã hội, trong đó nhấn mạnh mặt xã hội của con người. Con người khác nhau chủ yếu là về mặt xã hội. + Các quan hệ xã hội quy định bản chất của con người. - Vấn đề phát huy nhân tố con người. + Tiềm năng sáng tạo và tính tích cực xã hội của con người. + Trước đổi mới, trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp chúng ta không phát huy được nhân tố con người. Thời kỳ đó con người thụ động, không phát huy được khả năng. + Hiện nay Đảng ta xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực do đó để phát huy nhân tố con người cần tạo ra môi trường xã hội để kích thích con người sáng tạo, kích thích tính hoạt động của con người.  Môi trường kinh tế xã hội: Kinh tế thị trường.  Môi trường chính trị xã hội: Dân chủ.  Môi trường văn hóa xã hội: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trả lời: Từ lâu con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau nhưng vấn đề chung nhất về con người như bản chất con người là gi`, con người từ đâu sinh ra, do ai tạo thành, con người có vai trò như thế nào đối với thế giới xung quanh và đối với chính bản thân mình… Tất cả những vấn đề đó thuộc đối tượng nghiên cứu của triết học. Chúng ta thấy rằng không có một hệ thống trường phái triết học nào mà không đề cập đến con người, bản chất con người.
  8. Bản chất của con người, nó là cái vốn có hay chịu sự tác động của đời sống xã hội… Đây là một vấn đề để triết học và lịch sử triết học cho đến nay vẫn tiếp tục giải quyết. Các quan điểm triết học ngoài Mácxit cho rằng con người và bản chất con người là do một lực lượng siêu nhiên nào đó quy định chứ không phải kết quả phát triển của lịch sử, của tiến hóa. Quan điểm này sẽ dẫn đến một kết quả là chúng ta không hiểu được một cách đầy đủ bản chất của con người là gì. “Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luân. Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Vì vậy, cuộc đời con người khi còn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt. Còn theo Nho giáo, các nhà tư tưởng Nho giáo cho rằng bản chất con người là do trời sinh, khi vừa mới sinh ra con người đã mang sẵn bản chất thiện hoặc ác. Trong triết phương Tây trước Mác, các nhà triết học cho rằng số phận con người là do thượng đế sắp đặt. Đó là những quan niệm theo chủ nghĩa thần học thời trung cổ. Đến thời kỳ Phục Hưng triết học đã phát triển thêm một bước khi đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người. Con người trong triết học trước Mác đã trải qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu và đạt đến đỉnh cao trong triết học của Phoiơbắc nhưng với tư cách của một nhà triết học thì Phoiơbắc là một nhà duy vật không triệt để. Ông chỉ duy vật trong tự nhiên còn trong đời sống xã hội ông lại là một nhà duy tâm. Tính chất duy tâm trong triết học Phoiơbắc thể hiện rõ nhất khi ông luận giải vấn đề con người, bản chất con người. Theo C.Mác con người trong triết học của Phoiơbắc là một con người chung chung, phi lịch sử, con người đó không gắn liền với đời sống lịch sử, tách con người ra khỏi xã hội. Chính vì vậy, bản chất con người trong triết học của ông cũng là một cái gi` không xác định. Khác với các quan điểm triết học của thế giới quan duy tâm, tôn giáo, CNDVBC xem xét vấn đề con người trong tính hiện thực của nó, nghĩa là khi tìm hiểu bản chất của con người thì chúng ta phải đặt con người trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể với tất cả các mối quan hệ đan xen chằng chịt nhau. Phê phán quan điểm duy tâm về bản chất con người trong triết học Phoiơbắc, Mác đã đưa đến kết luận sau đây về bản chất con người. Mác viết: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Khác với Phoiơbắc, Mác đi tìm bản chất của con người trong đời sống hiện thực của nó với tất cả các mối quan hệ xã hội bởi vì chỉ có xem xét con người trong đời sống xã hội hiện thực mới hiểu đúng bản chất của con người. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người sống, hành động trong một xã hội nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định. Nghĩa là con người cùng với xã hội, thời đại mình khai thác giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên để phục vụ lại lợi ích của con người. Triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
  9. Con người tồn tại trước hết với tư cách là sản phẩm của tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Con người trước hết là một tồn tại của dạng sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó với tự nhiên. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định bản chất con người. Con người trước hết là một động vật, nhưng chỉ dừng lại ở những thuộc tính chung của động vật thì không thể giải thích được gì nhiều về con người với tính cách là con người. Ngày nay những khoa học về cơ thể con người đã đạt đến trình độ rất cao trong nghiên cứu về các quá trình hoạt động thần kinh cao cấp, di truyền, sinh hoá, tâm- sinh lý… Các kết quả nghiên cứu này đã đem lại sự hiểu biết sâu sắc về những thuộc tính sinh học của con người, vạch ra các cơ sở, quy luật tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến hành vi của con người. Từ đấy vạch ra các phương hướng hoàn thiện, phát triển cơ thể con người, thích ứng hơn nữa với đời sống xã hội như về sức khỏe, tuổi thọ, hoạt động thần kinh, tạo tiền đề sinh học cho trí thông minh… Đây là những giá trị mới của văn minh nhân loại, mở ra một giai đoạn đi sâu vào bí mật tự nhiên trong cơ thể con người và tác động chủ động đến nó để tạo ra sức sống và hoạt động tối ưu của các cá nhân người. Nhưng từ đấy đi đến sinh vật hoá toàn bộ con người trong lịch sử xã hội sẽ dẫn đến nhận thức sai lầm về bản chất và chỉnh thể cuộc sống của con người. Chẳng hạn như xem văn hoá là sản phẩm tính sinh học, xem mâu thuẩn trong cuộc sống của con người là do tác động qua lại của hoàn cảnh và các thực thể sinh học của hoàn cảnh ấy. Và cố giải thích lịch sử loài người bằng những luận giải về sinh học kể cả lý tưởng, đạo đức, hành vi, trí thông minh, số phận của mỗi con người đều được định sẵn trong thể trạng con người… Đem những tính chất riêng biệt để giải thích chỉnh thể con người mà vốn nó có chất lượng hoàn toàn khác với động vật như quan điểm trên rõ ràng không thể phản ánh đúng con người như nó đang sống. Con người thời xa xưa và con người ngày nay khác nhau biết bao về năng lực sáng tạo, về lối ống, về hoạt động sản xuất,… nhưng về mặt cơ thể, di truyền sinh vật chưa có biến đổi gì đáng kể. Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền có sẵn như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Ngay một đứa bé bắt chước giọng nói, nụ cười, tiếng gọi cha, mẹ, tiếp theo là tính hiếu kỳ, so sánh… không thể chỉ cắt nghĩa từ nguồn gốc sinh vật thuần tuý. Nói một cách khác, ngay trong di truyền sinh vật ở con người cũng đã chứa nội dung xã hội. Đó là chưa nói đứa bé còn phải học, phải làm việc mới trở thành người. Con người không phải là động vật thường mà là một thực thể vật chất đặc biệt, hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo lại mọi đối tượng khác theo nhu cầu của mình. Nội dung của thế giới nội tâm và chỉnh thể cuộc sống từng con người không thể là những gì chỉ tự nhiên trực tiếp đưa lại mà chủ yếu là từ cuộc sống, từ quan hệ xã hội, từ khoa học,kỹ thuật, kinh tế cho đến âm nhạc, thơ ca,… Con người đâu có phải chỉ là sự tiến hoá sinh vật. Tiếp cận từ mặt sinh vật, nhiều lắm chỉ dẫn đến hoàn thiện cơ thể con người chứ không thể hoàn thiện toàn bộ cuộc sống và hoạt động của con người.
  10. Và về mặt xã hội, cách đó tất nhiên cũng chỉ dẫn đến một số biện pháp “khai sáng” riêng biệt mà không dẫn đến cải biến toàn bộ đời sống thật của con người, đó là chưa nói đến những xu hướng phản động, phân biệt chủng tộc, hay muốn tạo ra những cá nhân ưu việt thống trị mọi người khác.Tất cả hoạt động của con người đều phải qua cơ thể sinh vật của mình, phụ không ít vào chất lượng của cơ thể đó. Nhưng đó mới chỉ là cơ sở tự nhiên chứ không phải là toàn bộ ngọn nguồn và nội dung sống của con người. Con người là một động vật có tính xã hội với tất cả nội dung văn hoá - lịch sử của nó. Đó là điểm xuất phát để tiếp cận con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. C.Mác và Ph.Angghen đã nêu vai trò của lao động sản xuất ở con người: “Có thể phân biêt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được.Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức của cơ thể con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. “Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Mác thực hiện một hướng tìm tòi khác đi sâu vào nghiên cứu những hoạt động của con người và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Từ kết quả nghiên cứu này, Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiển của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.” Để hiểu đúng quan điểm của Mác trước hết cần thấy rằng, cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là cái bộ phận chi phối trong chỉnh thể phong phú và đa dạng. Ở đây, cái phổ biến tồn tại và thể hiện qua cái đơn nhất. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì của con người vào bản chất đều là sai lầm. Những quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở những quan hệ xã hội của từng hình thái xã hội riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ
  11. xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang tức là đương đại vừa theo chiều dọc lịch sử. Nói một cách khác, ngoài bản chất giai cấp qua từng giai đoạn lịch sử xã hội có giai cấp còn có bản chất chung của con người qua mọi giai đoạn lịch sử xã hội. Khi bàn đến bản chất chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các tầng lớp người khác nhau và ngược lại, khi nói về bản chất giai cấp của các lớp người không được quên bản chất chung của con người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất con người. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo đường thẳng, trực tiếp mà theo đường gián tiếp, quanh co qua hàng loạt quan hệ mâu thuẩn giữa cá nhân và xã hội; giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học; giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức; giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thuẩn đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó. Trong từng hành vi riêng biệt của con người cái gì chi phối trực tiếp là còn tuỳ thuộc điều kiện cụ thể. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. “Con người với tư cách là chủ thể của các quan hệ xã hội đồng thời còn có mặt trong quan hệ sản xuất gắn liền với lực lượng sản xuất tạo ra một phương thức sản xuất nhất định thuộc về một thời đại lịch sử xác định. Đó là những con người hiện thực, tồn tại một cách hiện thực trong hoạt động thực tiễn, trước hết trong thực tiễn lao động sản xuất vật chất, chứ không phải con người ý niệm, ý thức của chủ nghĩa duy tâm hay con người sinh vật, kinh tế thuần tuý của chủ nghĩa duy vật siêu hình” Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến lại tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không cần tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.” Vấn đề con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta Vấn đề nhân tố con người, nguồn lực con người. Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hành động với tổng hòa các đặc trưng về năng lực, phẩm chất của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
  12. Khi chúng ta nói đến chiến lược con người là chúng ta phải tạo ra môi trường xã hội kích thích con người sáng tạo và thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người trong những điều kiện l ịch sử, xã hội cụ thể. Đó là môi trường kinh tế xã hội, chính trị xã hội, văn hóa xã hội. Trong các nguồn lực để thú đẩy sản xuất phát triển như lao động, vốn, tài nguyên, khoa học, công nghệ, trình độ phân công lao động, quan hệ xã hội… thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với các nguồn lực khác. Chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta chính thức bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng (1986). Từ đó cho đến nay chúng ta đã thu được những thành tựu vô cùng to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Yếu tố quyết định những thành tựu, những thắng lợi to lớn đó ngoài việc đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn còn có một nguyên nhân khác đó là chúng ta biết phát huy nguồn lực con người, chúng ta lấy con người làm trung tâm của mọi sự phát triển. Đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Điều đó hoàn toàn phù hợp quan điểm của triết học Mác khi nói rằng con người là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, con người là chủ thể của mọi sáng tạo lịch sử. Để thực hiện chiến lược con người đòi hỏi chúng ta phải: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ổn định chính trị, xã hội, mở rộng dân chủ bởi muốn phát triển phải ổn định. Không ổn định thì không thể phát triển được. Mặt khác phải mở rộng dân chủ để phát huy hết mọi tiềm năng sáng tạo của người lao động… Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đào tạo. Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế thế giới.
nguon tai.lieu . vn