Xem mẫu
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 29
BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU
BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC VIỆT NAM NĂM 1979
VŨ DƯƠNG NINH *
Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày bùng nổ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
phía Bắc Việt Nam (1979 - 2019). Độ lùi thời gian cho phép nhìn lại sự kiện lịch
sử để có sự đánh giá khách quan, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần thiết. Bài
viết này phân tích vấn đề từ góc độ quan hệ quốc tế trong hai thập niên 70 và 80
thế kỷ XX nhằm tìm hiểu tác động của mối quan hệ giữa các nước lớn đến tình
hình khu vực và đối sách của Việt Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương
Tổ quốc.
1. CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG hai đảng cộng sản, hai quốc gia lớn
GIỮA QUÂN ĐỘI HAI NƯỚC XÔ - trong khối xã hội chủ nghĩa. Đỉnh
TRUNG NĂM 1969 VÀ BƯỚC ĐỘT điểm của mâu thuẫn Xô - Trung là
PHÁ TRONG MỐI QUAN HỆ TRUNG - cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội
MỸ NĂM 1972 hai nƣớc ở vùng đảo Damansky/Trân
Lịch sử thế giới và khu vực trong Bảo kéo dài hơn 6 tháng, từ ngày 2/3
thập niên 70 của thế kỷ XX đƣợc đến 11/9/1969.
phác họa nhƣ một bức tranh đầy biến Không chấp nhận vị trí lãnh đạo của
động, phản ánh cục diện vô cùng Liên Xô trong khối xã hội chủ nghĩa
phức tạp trong quan hệ quốc tế. Trật theo thuyết “thế giới hai cực”, ngƣời
tự hai cực và tình trạng chiến tranh đứng đầu Trung Quốc đƣa ra luận
lạnh vẫn là nét chủ đạo xuyên suốt thuyết về “ba thế giới”. Theo lập luận
thời gian từ sau Thế chiến 2 đến sự của Mao Trạch Đông, các nƣớc
sụp đổ của chế độ Xô viết (1945 - nghèo, đã từng là thuộc địa và nửa
1991). Mâu thuẫn cơ bản chi phối thuộc địa hợp lại thành thế giới thứ ba,
toàn cục vẫn là mâu thuẫn giữa hai trong đó có Trung Quốc và đƣơng
chế độ chính trị đối lập nhau - chủ nhiên Trung Quốc phải là nƣớc lãnh
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tƣ bản do đạo thế giới này. Quan điểm đó thể
hai siêu cƣờng đứng đầu là Liên Xô hiện trong đƣờng lối chính trị của Bắc
và Mỹ. Nhƣng từ cuối thập niên 50 Kinh khi coi Liên Xô là kẻ thù và sau
bắt đầu xuất hiện cuộc tranh luận nội đây là sự cân nhắc mối nguy hiểm của
bộ, sau dẫn đến cuộc đối đầu công kẻ thù Xô viết so với Mỹ: “Kẻ địch
khai giữa Liên Xô và Trung Quốc - chính yếu nhất này có trên 2.000km
đƣờng biên giới với Trung Quốc,
*
Đại học Quốc gia Hà Nội. không cách xa Trung Quốc bởi một
- 30 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
Thái Bình Dƣơng rộng lớn nhƣ nƣớc 2.1. Trận chiến trên vùng biển đảo
Mỹ xa xôi kia. Do đó cần phải liên kết (1974 và 1988)
gây dựng đồng minh với kẻ địch Hiệp định Genève 1954 về Đông
không đe dọa trực tiếp tới mình để đối Dƣơng quy định nƣớc Việt Nam tạm
phó với kẻ địch đang là mối đe dọa thời bị chia cắt thành hai miền theo vĩ
trực tiếp của mình”(1) (Tiêu Thị Mỹ, tuyến 17. Vùng biển phía Nam gồm
2016: 350). Cách lập luận đó đã làm các quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng
nổi lên hình thái tam giác ba đỉnh Mỹ - Sa thuộc quyền quản lý của Chính
Xô - Trung trong quan hệ quốc tế. phủ Việt Nam Cộng hòa. Lợi dụng
Cuộc gặp gỡ Mao - Nixon ở Bắc Kinh thời gian chuyển giao quyền quản lý
và Thông cáo Thƣợng Hải tháng các quần đảo giữa quân đội Pháp và
2/1972 là bƣớc đột phá trong mối quân đội Sài Gòn, quân Trung Quốc
quan hệ Trung - Mỹ, qua đó Trung đã chiếm đóng trái phép phía đông
Quốc muốn kéo Mỹ để cùng chống Hoàng Sa, trong đó có 2 đảo lớn là
Liên Xô. Mối quan hệ này diễn biến Phú Lâm và Linh Côn: “Năm 1956
phức tạp trong suốt thập niên 70, chi nửa phía đông quần đảo Hoàng Sa bị
phối tình hình thế giới, nhất là ở khu ngƣời Trung Quốc chiếm đóng, có thể
vực Đông Á. nói là lén lút nhân lúc quân đội viễn
Việt Nam bị kẹt trong mối quan hệ tam chinh Pháp rút khỏi khu vực. Hải quân
giác đó. Song giữ vững đƣờng lối đối Nam Việt Nam lúc này còn giữ phần
ngoại độc lập tự chủ, tranh thủ tối đa phía Tây” (Monique Chemilier -
sự đồng tình và viện trợ quốc tế, Việt Gendreau, 1998: 8). Chính quyền Việt
Nam đã kết thúc thành công cuộc hòa Nam Cộng hòa đã nhiều lần ra tuyên
đàm Paris và đƣa cuộc kháng chiến bố khẳng định chủ quyền của Việt
đến thắng lợi cuối cùng. Miền Nam Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, và Trƣờng Sa.
chuẩn bị bƣớc vào thời kỳ hòa bình,
Tháng 1/1974, Trung Quốc điều
xây dựng. Nhƣng thực tiễn cuộc sống
nhiều chiến hạm đánh chiếm các đảo
đã không diễn ra đúng nhƣ điều mong
thuộc phía tây Hoàng Sa và đổ bộ
ƣớc đó.
quân chiếm đóng các đảo trên. Đây
2. NHỮNG TRẬN CHIẾN MỚI TRÊN thực sự là hành động xâm lƣợc đối
BA VÙNG ĐẤT NƯỚC (1974 - 1989) với vùng biển đảo thuộc chủ quyền
Tiếng súng lại vang lên từ biển khơi, của Việt Nam. Tại thời điểm này
từ những vùng biên cƣơng của Tổ chính quyền Sài Gòn kêu gọi sự trợ
quốc Việt Nam. Chỉ trong vòng 15 giúp của Mỹ nhƣng các chiến hạm
năm (1974 - 1989), đã xảy ra những Hạm đội 7 hoạt động trên Biển Đông
trận chiến mới trên ba vùng đất nƣớc đƣợc lệnh rút xa nơi chiến sự. Rõ
với đối tƣợng mới và nội dung mới. ràng, sự thỏa hiệp Bắc Kinh năm
Có ba sự kiện lớn sau đây: 1972 đã dẫn đến thái độ lảng tránh
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 31
của Mỹ năm 1972, có lợi cho phía Đến ngày 31/12/1977 Chính phủ
Trung Quốc. Campuchia Dân chủ ở Phnom Penh
Sau nhiều vụ khiêu khích ngang tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao
ngƣợc trên Biển Đông, tháng 3/1988 với Việt Nam. Ngày 18/7/1978 chúng
Trung Quốc dùng một biên đội chiến tấn công suốt dọc biên giới dài 40km
đấu gồm 6 chiếc tấn công vào đoàn thuộc tỉnh Kiên Giang. Tháng
tàu vận tải của Việt Nam ở quần đảo 12/1978 chúng tập trung 19 trong
Trƣờng Sa. Các chiến sĩ hải quân Việt tổng số 25 sƣ đoàn chủ lực ở biên
Nam đã chiến đấu dũng cảm bảo vệ giới đánh vào Tây Ninh, vạch kế
lá cờ Tổ quốc, hy sinh gìn giữ chủ hoạch tiến về TPHCM. Hành động
quyền biển đảo của đất nƣớc. Nhƣng xâm phạm của Khmer Đỏ bị quân dân
cuối cùng, đối phƣơng đã dùng vũ Việt Nam giáng trả đích đáng, đẩy lui
lực chiếm đóng trái phép các đảo đá chúng ra khỏi bờ cõi.
Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Tƣ Cùng thời gian đó, tập đoàn Khmer
Nghĩa, Gạc Ma, Su Bi. Khoảng giữa Đỏ thi hành chính sách diệt chủng, tàn
các lần đánh chiếm, nhiều loại tàu sát ngƣời dân Campuchia, giết chết
Trung Quốc thƣờng xuyên quấy phá, gần 2 triệu ngƣời (trong tổng số dân
ngăn cản việc đánh bắt cá của ngƣ cƣ 8 triệu, chiếm 25%). Nhiều ngƣời
dân, gây tình trạng mất an ninh trên Việt sinh sống lâu đời ở Campuchia
vùng biển thuộc chủ quyền của Việt cũng bị đánh đập, giết chóc. Những
Nam. ngƣời cách mạng chân chính
2.2. Trận chiến bảo vệ biên giới Tây Campuchia đã nổi dậy chống chế độ
Nam năm 1975 - 1979 tàn bạo Polpot nhƣng đều bị đàn áp
Ngay sau khi Sài Gòn đƣợc giải dã man. Một số chạy sang Việt Nam
phóng, ngày 1/5/1975 quân Khmer kêu gọi sự giúp đỡ. Ngày 2/12/1978
Đỏ đã đồng loạt xâm phạm nhiều Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nƣớc
điểm biên giới Việt Nam - Campuchia Campuchia đƣợc thành lập đề ra
từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tấn công cƣơng lĩnh 11 điểm với nhiệm vụ
đảo Phú Quốc, chiếm đảo Thổ Chu chính là đoàn kết toàn dân đánh đổ
của Việt Nam. Ngày 30/4/1977, quân tập đoàn Khmer Đỏ, xây dựng đất
Khmer Đỏ tiến đánh 14 xã biên giới nƣớc Campuchia hòa bình, độc lập,
thuộc tỉnh An Giang, mở cuộc chiến dân chủ, trung lập, không liên kết và
tranh xâm lƣợc Việt Nam. Trong các tiến lên chủ nghĩa xã hội.
cuộc họp giữa các nhà lãnh đạo cấp Đáp lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc
cao hai Đảng, Việt Nam nhiều lần cứu nƣớc Campuchia, quân tình
đƣa ra đề nghị chấm dứt xung đột nguyện Việt Nam cùng nhiều đơn vị
nhƣng phía Khmer Đỏ vẫn liên tiếp những ngƣời Campuchia yêu nƣớc
xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, đốt mở cuộc phản công quyết liệt, ngày
phá làng mạc, giết chết thƣờng dân. 2/1/1979 giải phóng toàn bộ miền
- 32 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
đông sông Mekong, ngày 7/1 tiến vào Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
giải phóng Thủ đô Phnom Penh. Bè lũ Tuyên (Hà Giang và Tuyên Quang),
Polpot hoảng loạn bỏ chạy, phần đông Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Lai Châu.
tan rã tại chỗ, một số lẩn quất trong Dù Trung Quốc có biện minh dƣới
rừng hoặc chạy sang lãnh thổ Thái chiêu bài “phản kích tự vệ”, nhƣng về
Lan, bọn cầm đầu cuốn gói về Bắc thực chất đây là hành động xâm lƣợc
Kinh. Tuy vậy, cuộc chiến đấu tiêu diệt Việt Nam - một quốc gia độc lập, có
tàn quân Khmer Đỏ phải kéo dài tới chủ quyền. Quân dân Việt Nam đã
10 năm tiếp sau (1979 - 1989). Nhân đánh trả anh dũng để bảo vệ đất
dân Campuchia đƣợc giải phóng khỏi nƣớc. Mặc dù phía Trung Quốc
chế độ thống trị tàn bạo Khmer Đỏ tuyên bố rút quân ngày 14/3/1979,
nhƣng đất nƣớc bị tàn phá tan tành, nhƣng trên thực tế, cuộc chiến còn
nhà cửa, đƣờng sá, đồng ruộng, kéo dài tới 10 năm sau (1979 -
trƣờng học, bệnh viện bị phá hủy 1989). Đặc biệt ác liệt là mặt trận Vị
hoàn toàn. Nhân dân Việt Nam sát Xuyên (Hà Giang) vào mùa hè năm
cánh cùng nhân dân Campuchia, viện 1984. Chiến tranh biên giới phía
trợ lƣơng thực, thực phẩm và đồ dùng Bắc để lại nhiều hậu quả nặng nề
sinh hoạt, xây dựng lại đất nƣớc “từ về vật chất và tinh thần, khắc sâu
con số không” theo cách gọi của nhà một vết hằn trong lịch sử quan hệ
báo phƣơng Tây. lâu đời giữa hai nƣớc láng giềng,
Việc đánh đuổi tập đoàn Polpot là nhất lại là hai nƣớc xã hội chủ nghĩa!
thắng lợi của nhân dân Campuchia Những trận chiến kể trên xảy ra ở
cùng tình nguyện quân Việt Nam đấu những địa bàn xa nhau, thời gian khác
tranh giành quyền sống của con nhau nhƣng suy cho cùng, vẫn là một
ngƣời, của cả một dân tộc. Nhƣng các kịch bản của một “tác giả” nhằm mục
thế lực bên ngoài bấy lâu nuôi dƣỡng, đích bƣớc ra thế giới với nhiều tham
bợ đỡ cho bè lũ diệt chủng không chịu vọng. Phân tích vấn đề trên bình diện
nổi thất bại đau đớn này, cả về quan hệ quốc tế sẽ làm rõ hơn cội
phƣơng diện quân sự, cả về thể diện nguồn, động cơ và hành động dẫn tới
nƣớc lớn, đã phản ứng bằng cuộc tấn các sự kiện trên.
công biên giới phía Bắc Việt Nam. 3. VÒNG XOÁY CỦA TAM GIÁC MỸ -
2.3. Trận chiến bảo vệ biên giới TRUNG - XÔ VÀ CUỘC CHIẾN
phía Bắc 1979 - 1989 TRANH XÂM LƯỢC BIÊN GIỚI PHÍA
Vừa đúng 40 ngày sau khi bè lũ cầm BẮC VIỆT NAM NĂM 1979 CỦA
đầu Khmer Đỏ bỏ chạy khỏi đất nƣớc QUÂN TRUNG QUỐC
Campuchia, mờ sáng 17/2/1979, 60 Sau tháng 4/1975, Việt Nam vẫn nằm
vạn quân Trung Quốc đồng loạt vƣợt trong vòng xoáy của tam giác Mỹ -
đƣờng biên giới dài tới 1.400km, tấn Trung - Xô nhƣng mối tƣơng quan
công 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam gồm giữa các đỉnh tam giác đã có sự thay
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 33
đổi sâu sắc, đã bùng nổ cuộc “chiến năm 70 - 80 mà Việt Nam bị cuốn vào
tranh Đông Dƣơng lần thứ Ba” hay vòng xoáy đó.
nhƣ cách gọi của các nhà báo Từ nửa sau thập kỷ 70, tình hình
phƣơng Tây là “cuộc chiến tranh Trung Quốc có nhiều biến chuyển
giữa những ngƣời anh em Đỏ”. Đó là quan trọng. Chủ tịch Mao Trạch Đông
mâu thuẫn giữa ba nƣớc đều do ba qua đời (9/1976), liền sau đó là “nhóm
đảng cộng sản lãnh đạo gồm Trung bốn ngƣời” – những kẻ chủ chốt trong
Quốc, Việt Nam, Campuchia. Ngƣời cách mạng văn hóa bị bắt, đất nƣớc
ta đã khơi sâu những mâu thuẫn này Trung Hoa phải giải quyết những tàn
để thực hiện ý đồ riêng của họ. dƣ của cách mạng văn hóa, đi dần
Nếu trƣớc đây, quan hệ Việt Nam - vào thời kỳ ổn định. Năm 1978, kế
Trung Quốc và Việt Nam - Liên Xô, hoạch cải cách của Đặng Tiểu Bình
tuy có điểm bất đồng, nhƣng đứng “bốn hiện đại hóa” (công nghiệp, nông
trƣớc đối thủ chính là đế quốc Mỹ thì nghiệp, khoa học - công nghệ, quốc
cả hai nƣớc xã hội chủ nghĩa đều là phòng) đã mở ra thời kỳ phát triển
đồng minh của Việt Nam, đồng tình mới của nƣớc Cộng hòa Nhân dân.
ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Nhƣng Trong bối cảnh đó, Trung Quốc tính
những cái bắt tay Mỹ - Trung và Mỹ - đến những vấn đề đối nội và đối ngoại
Xô năm 1972 là dấu hiệu chuyển dịch nhằm mục tiêu ổn định bên trong và
trong quan hệ quốc tế, báo trƣớc giai bành trƣớng bên ngoài.
đoạn kết thúc của thời kỳ Chiến tranh Khu vực Đông Nam Á là cái đích đầu
lạnh mà gần hai chục năm sau, nó trở tiên họ nhắm tới. Sau thất bại ở Việt
thành hiện thực với sự sụp đổ của Nam, Tổ chức Hiệp ƣớc Đông Nam Á
nhà nƣớc Xô Viết năm 1991. Mâu (SEATO) giải thể đánh dấu sự rút lui
thuẫn giữa chủ nghĩa tƣ bản và chủ của Mỹ ra khỏi khu vực. Liên Xô ngoài
nghĩa xã hội vẫn còn đó nhƣng đã cứ điểm Cam Ranh của Việt Nam,
giảm đi ý nghĩa chi phối những biến hầu nhƣ chƣa xâm nhập vào khu vực
động lớn của thế giới. Giới lãnh đạo này, chƣa thể với tay đến Đông Nam
Trung Quốc nhìn nhận giữa hai mâu Á. Xuất hiện một “khoảng trống quyền
thuẫn Trung Quốc với Mỹ và Trung lực” sau khi Mỹ rút, tạo thời cơ để
Quốc với Liên Xô thì mâu thuẫn Trung Trung Quốc mở rộng ảnh hƣởng, Bắc
- Xô là nguy hiểm nhất, có thể dẫn tới Kinh chọn Campuchia làm bàn đạp
cuộc chiến tranh hạt nhân do nƣớc ngăn chặn Việt Nam, dùng Khmer
láng giềng Liên Xô phát động để Đỏ làm “đội quân xung kích” chống
chống Trung Quốc. Cho nên Bắc Kinh phá Việt Nam. Đó là lý do khiến cho
đi tìm sự đồng tình của Washington từ năm 1975 tình hình khu vực Đông
trong cuộc đấu tranh chống Moscow. Dƣơng ngày càng xấu đi, quan hệ
Đó là bản chất của những biến động Việt Nam - Campuchia luôn căng
chính trị trong quan hệ quốc tế những thẳng dẫn tới chiến tranh.
- 34 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
Sau khi cuộc chiến ở Việt Nam kết họ tấn công dƣới chiêu bài “phản kích
thúc, cuộc đàm phán Việt - Mỹ xoay tự vệ”.
quanh vấn đề thiết lập quan hệ ngoại Thực chất sự toan tính của Bắc Kinh
giao giữa hai nƣớc gặp nhiều trở ngại. khi phát động cuộc chiến tranh ở biên
Việt Nam đặt vấn đề Mỹ phải “hàn gắn giới phía Bắc Việt Nam là gì? Nhìn
hậu quả chiến tranh” nhƣ một điều trong phạm vi khu vực, mục đích khẩn
kiện tiên quyết để tiến tới bình thƣờng cấp của Trung Quốc là cứu nguy cho
hóa quan hệ, nhƣng luật pháp Mỹ bè lũ Polpot bị thất bại cay đắng phải
không cho phép Tổng thống đƣợc chi bỏ chạy khỏi Phnom Penh. Song rõ
ngân sách khi không có sự đồng ý của ràng là lực lƣợng Khmer Đỏ không thể
Quốc hội, vả lại “hội chứng Việt Nam” phục hồi trên đất nƣớc mà cả dân tộc
khiến cho tâm lý ngƣời Mỹ khó chấp căm giận vì tội ác diệt chủng, chúng
nhận khoản bồi thƣờng này. Sau phải lẩn quất trong rừng sâu, một
nhiều lần gặp gỡ căng thẳng, đến phần ở biên giới Thái Lan nhƣng cuối
giữa năm 1978, cuộc đàm phán Việt - cùng đi đến tan rã. Tên trùm Khmer
Mỹ tại Paris bế tắc, khả năng bình Đỏ Polpot bị chết trong tình trạng bi
thƣờng hóa quan hệ giữa hai nƣớc đát “không rõ lý do”(?).
ngƣng lại. Trong khi đó, ngoại giao Đáng chú ý là vào tháng 11/1978,
giữa Mỹ và Trung Quốc đã đi đến ngƣời lãnh đạo Trung Quốc Đặng
quyết định thiết lập quan hệ chính Tiểu Bình đã có chuyến công du đến
thức vào ngày 1/1/1979. một số nƣớc Đông Nam Á - Malaysia,
Trung Quốc coi Việt Nam nhƣ một trở Singapore và Thái Lan. Ở những
ngại trên con đƣờng của họ đi xuống nƣớc này, ông ta hù dọa về mối nguy
Đông Nam Á. Cùng với việc tiếp tay hiểm của “Hiệp ƣớc Hữu nghị Việt -
cho hành động xâm lấn của Khmer Đỏ Xô” đối với an ninh khu vực và thế
ở vùng biên giới Tây Nam Việt Nam là giới, tuyên bố ba điều: Trung Quốc
nhiều hoạt động quấy rối bên trong sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với
Việt Nam, kích động vụ “nạn kiều” kêu các chính phủ đang cầm quyền, cam
gọi ngƣời Hoa về nƣớc, từng bƣớc kết không hỗ trợ lực lƣợng cộng sản
cắt giảm viện trợ để cuối cùng chấm trong các nƣớc đó (bấy lâu do Bắc
dứt hoàn toàn(2) (Bộ Ngoại giao, Kinh nuôi dƣỡng) và báo trƣớc sẽ gây
Nguyễn Đình Bin, 2002: 198). Họ coi chiến để trừng phạt Việt Nam, “dạy
mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô nhƣ cho Việt Nam một bài học”. Mang
một sự câu kết giữa hai đối thủ để bao nặng tâm lý lo ngại “làn sóng cộng
vây phía Bắc và phía Nam Trung sản” từ Việt Nam theo thuyết quân cờ
Quốc. Việc Việt Nam gia nhập Hội domino, lại đƣợc hứa hẹn loại bỏ lực
đồng Tƣơng trợ Kinh tế (khối SEV), ký lƣợng công sản bên trong vốn là nỗi
Hiệp ƣớc Hợp tác và hữu nghị với nhức nhối của chính quyền các nƣớc
Liên Xô (tháng 11/1978) là cái cớ để Đông Nam Á nên giới cầm quyền
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 35
nhiều nƣớc đã hòa vào dàn đồng ca nó sẽ chẳng có hiệu quả gì, vì cuộc
do Bắc Kinh lĩnh xƣớng, lên án “Việt hành quân này sẽ không kéo dài. Nếu
Nam xâm lƣợc Campuchia”, đòi Việt nhƣ Liên Xô tấn công phía Bắc của
Nam phải rút quân khỏi đất nƣớc này. Trung Quốc thì cũng không quan
Qua đó, Trung Quốc đã lôi kéo một số trọng” (Patrick Tyler, 2008: 468). Thực
nƣớc Đông Nam Á vào cuộc đấu ra Nhà Trắng đã có đủ thông tin tình
tranh nhằm cô lập Việt Nam. báo về các sƣ đoàn quân Trung Quốc
Trong thập niên 70, Trung Quốc đạt đang hành quân tới biên giới Việt
đƣợc ba thành quả quan trọng trong Nam và sắp phát động một cuộc chiến
quan hệ với Mỹ. Đó là Mỹ công nhận tranh chống Việt Nam. Tổng thống Mỹ
chỉ có một nƣớc Trung Hoa, Đài Loan J. Carter khôn khéo không đáp lời
là bộ phận không thể tách rời Trung Đặng nhƣng sau đó, cơ quan tình báo
Quốc; Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Mỹ đã cung cấp cho phía Trung Quốc
gia nhập Liên Hợp Quốc và giữ ghế tin tức thu lƣợm về lực lƣợng biên
ủy viên thƣờng trực Hội đồng Bảo an phòng Liên Xô ở biên giới Trung Quốc.
thay thế Đài Loan; thiết lập quan hệ Điều đó có nghĩa nhƣ sự khuyến
ngoại giao chính thức giữa hai nƣớc khích Bắc Kinh thực hiện kế hoạch
vào ngày 1/1/1979. Ngay sau đó, từ của họ đánh Việt Nam mà không lo
29/1 đến 5/2/1979, Đặng Tiểu Bình ngại cuộc tấn công từ phía Bắc.
đi Mỹ củng cố mối quan hệ với Hoa Rời nƣớc Mỹ, Đặng qua Nhật cũng
Kỳ nhằm chống Liên Xô, tuyên bố nhằm lôi kéo nƣớc này vào “mặt trận”
trƣớc các nhà báo: “Chúng tôi cho chống Liên Xô và Việt Nam.
rằng nguy cơ chiến tranh đến từ Liên Đúng ngày chiến tranh Trung - Việt
Xô, sự uy hiếp đối với hòa bình, an bùng nổ, Tổng thống Mỹ Carter yêu
ninh và ổn định thế giới đến từ Liên cầu Đại sứ Liên Xô Dobrynin chuyển
Xô… Do vậy, Trung Quốc, Mỹ, Nhật cho L. Brezhnev - Tổng Bí thƣ Đảng
Bản, Châu Âu và các quốc gia khác Cộng sản Liên Xô - sự đảm bảo rằng
trên thế giới cần liên kết lại, các không có một thỏa thuận bí mật nào
quốc gia này liên kết lại để đối phó giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ: “Chính
với chủ nghĩa bá quyền Liên Xô” (Tạ phủ Mỹ không đƣợc báo trƣớc một
Ích Hiển, 2002: 264). cách cụ thể việc Trung Quốc chuẩn bị
Đồng thời, họ cho phía Mỹ biết Trung tấn công Việt Nam” và “Mỹ đã yêu cầu
Quốc sẽ tấn công Việt Nam: “Trung Trung Quốc nhanh chóng rút quân ra
Quốc cảm thấy bị buộc phải làm hỏng khỏi Việt Nam” (A. Dobrynin, 2001:
kế hoạch của Liên Xô nhằm thống trị 765-766). Có thể thấy ở đây “trò chơi
Đông Nam Á thông qua sự liên minh hai mặt” của Nhà Trắng: vừa muốn
với Việt Nam. Liên Xô có thể phản thúc đẩy mâu thuẫn Xô - Trung ngày
ứng trƣớc đòn tấn công Việt Nam của càng căng thẳng lại vừa muốn kiềm
Trung Quốc. Nếu Liên Xô gửi viện trợ, chế để ngăn ngừa nguy cơ chiến
- 36 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
tranh lớn. Điều đó sẽ có lợi cho Mỹ ở đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới
vị thế ngƣời đứng giữa. Nhƣng thực phía Bắc Việt Nam. Về bản chất, đó là
chất, đúng nhƣ Kissinger nhận định: một cuộc chiến tranh xâm lƣợc đối với
“Chiến tranh Việt Nam lần thứ ba báo một quốc gia độc lập, có chủ quyền. H.
hiệu sự hợp tác chặt chẽ nhất giữa Kissinger nhìn nhận về cuộc chiến
Trung Quốc và Mỹ trong thời gian tranh này nhƣ sau: “Quân đội (Trung
Chiến tranh lạnh”(3) (H. Kissinger, Quốc) gặp phải sự cản trở do trang
2015: 378). thiết bị lạc hậu, những vấn đề hậu cần,
Về vấn đề Campuchia, trong khi thiếu thốn nhân lực và những chiến
Chính phủ Mỹ tuyên bố “không ủng hộ thuật rắc rối, các lực lƣợng của Trung
chế độ Polpot” thì họ lại cung cấp sự Quốc chậm chạp tiến quân và phải trả
hỗ trợ vật chất và ngoại giao cho các giá đắt”, “Trung Quốc ném quân vào
lực lƣợng chống Chính phủ Heng những trận chiến phải trả cái giá cực
Somrin và Hun Sen, điều đó đƣơng kỳ đắt, hứng chịu thƣơng vong với
nhiên rất có lợi cho Khmer Đỏ. quy mô hẳn sẽ không thể chấp nhận
Vấn đề Việt Nam đối với Mỹ vẫn là đƣợc ở thế giới phƣơng Tây. Trong
một vết thƣơng chƣa lành, nên Mỹ bắt chiến tranh Trung - Việt, quân Trung
tay cùng Trung Quốc chống Việt Nam. quốc dƣờng nhƣ phải theo đuổi nhiệm
Chính phủ Mỹ ra lệnh cấm vận kinh tế, vụ của mình với rất nhiều thiếu sót,
ngƣng mọi hoạt động thƣơng mại, tài làm tăng đáng kể quy mô những mất
chính, ngân hàng, tiến hành bao vây mát của Trung Quốc” (H. Kissinger,
toàn diện mọi hoạt động của Việt Nam. 2015: 377). Patrick Tyler - nhà báo Mỹ
Các nƣớc khác đều phải tuân theo đã có nhiều năm ở Trung Quốc - nhận
mệnh lệnh từ Nhà Trắng, đóng băng xét: “Cuộc tấn công bằng bộ binh tàn
mọi sự giao dịch với Việt Nam. Trung bạo trải rộng trên địa hình núi non.
Quốc tăng cƣờng phối hợp với Mỹ Lực lƣợng phòng vệ của Việt Nam
trong chiến dịch này nhằm “bóp nghẹt đƣợc trang bị vũ khí tốt, đƣợc củng cố
Việt Nam”, “làm cho Việt Nam chảy tốt và có kỹ năng chiến đấu sau ba
máu”. Việt Nam rơi vào tình trạng bị thập kỷ chiến tranh chống Pháp và
bao vây cô lập nghiêm trọng, chỉ còn Mỹ… Quân đội Trung Quốc đã trở
sự ủng hộ của Liên Xô và một số ít thành một tập hợp của các đơn vị tự
quốc gia khác. Trong đó, Ấn Độ là trị không biết làm thế nào để hiệp
nƣớc giữ thái độ trƣớc sau nhƣ một đồng tác chiến” (Patric Tyler, 2008:
với Việt Nam, mặc dù do hoàn cảnh 473). Nhƣng về kết cục, Kissinger
phức tạp, họ không thể bày tỏ công đánh giá “Trung Quốc đã đạt đƣợc
khai quan điểm của họ. một phần đáng kể trong các mục tiêu
Sau khi đã chuẩn bị về mặt ngoại giao chiến lƣợc của mình tại Đông Nam Á”,
và dƣ luận quốc tế, sáng ngày họ đã “thành công khi phơi bày những
17/2/1979, 60 vạn quân Trung Quốc hạn chế của cam kết phòng thủ Xô
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 37
Viết ký với Hà Nội, và quan trọng hơn lại quan hệ Xô - Trung, Bắc Kinh nêu
là tầm với chiến lƣợc toàn diện của lên “bốn trở ngại” là việc quân đội Xô
Xô Viết” (H. Kisinger, 2015: 383). Viết ở Afghanistan, quân đội Việt Nam
4. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU ở Campuchia, sự hiện diện của Liên
VỰC (1979 - 1989) Xô ở Mông Cổ và các đơn vị quân
Liên Xô đóng dọc biên giới phía Bắc
Sau mƣời năm căng thẳng 1979 -
Trung Quốc mà điều cấp thiết nhất là
1989, tình hình thế giới và khu vực có
quân đội Việt Nam phải rút khỏi
nhiều chuyển biến quan trọng, dẫn
Campuchia. Vấn đề này cũng đƣợc
đến sự lắng dịu vào đầu thập niên 90.
thảo luận giữa Liên Xô và Mỹ, qua đó,
Có thể nêu lên một vài sự kiện chính
“Liên Xô hứa sẽ hạn chế giúp đỡ Việt
sau đây trong quan hệ quốc tế với điểm
Nam, Mỹ sẽ thuyết phục Thái Lan
mốc là năm 1989.
trục xuất khỏi lãnh thổ của họ những
Trên phạm vi thế giới, ngày 2/12/1989 căn cứ Khmer Đỏ. Vấn đề còn lại là
trong cuộc gặp không chính thức giữa đấu tranh để Trung Quốc chấm dứt
Tổng Bí thƣ Đảng Cộng sản Liên Xô M. viện trợ cho Khmer Đỏ” (Bogaturov
Gorbachev và Tổng thống Mỹ G. Bush Aleksey Dermofenovich - Averkov Viktor
tại Malta, hai bên ra tuyên bố chấm dứt Viktorovich (2009), 2013: 460-462).
tình trạng Chiến tranh lạnh kéo dài gần Ở Trung Quốc, bên cạnh một số
nửa thế kỷ đối đầu căng thẳng. Tháng thành tựu bƣớc đầu trong công cuộc
11/1990 hai vị đã cùng các nhà lãnh cải cách, một biến cố lớn đã bùng nổ
đạo 20 nƣớc thành viên thuộc khối tại Bắc Kinh từ tháng 4 đến tháng
NATO và khối Warsaw ký hiệp ƣớc 6/1989. Đó là phong trào đòi quyền tự
không xâm phạm lẫn nhau, đƣa ra Hiến do dân chủ, cải cách giáo dục, thậm
chƣơng Paris tuyên bố chấm dứt chiến chí đòi thay đổi lãnh đạo, thay đổi chế
tranh lạnh. Những sự kiện trên đánh độ. Đông đảo thanh niên, sinh viên tụ
dấu một bƣớc chuyển quan trọng, mở tập tại Quảng trƣờng Thiên An Môn,
đƣờng giải quyết tình hình phức tạp ở nhiều trƣờng đại học ở Bắc Kinh,
nhiều nơi trên thế giới. Thƣợng Hải, Thiên Tân, Vũ Hán
Cùng thời gian đó, Liên Xô và Trung hƣởng ứng mạnh mẽ bằng những
Quốc tìm giải pháp để bình thƣờng cuộc mít tinh, biểu tình, lôi cuốn nhiều
hóa quan hệ giữa hai nƣớc. Trong tầng lớp nhân dân tham gia. Để lập lại
diễn văn của M. Gorbachev tại trật tự, ngày 4/6 quân đội đƣợc lệnh
Vladivostok năm 1986, sau đó tại dùng xe tăng tiến vào Quảng trƣờng
Krasnoyarsk năm 1988, Liên Xô chủ Thiên An Môn trấn áp những ngƣời
trƣơng giảm bớt sự hiện diện quân sự chống đối, gây nên vụ tàn sát đẫm
tại các khu vực Châu Á - Thái Bình máu. Các nƣớc phƣơng Tây lập tức
Dƣơng, bình thƣờng hóa quan hệ với lên tiếng phản đối, đồng loạt ban hành
Trung Quốc, Nhật Bản và thiết lập chính sách cấm vận đối với Trung
quan hệ với Hàn Quốc. Về vấn đề lập Quốc(4) (Tạ Ích Hiển, tr. 390). Tình
- 38 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
trạng bị cô lập trên thế giới trở thành quan trọng trƣớc mắt là “bình thƣờng
một nhân tố buộc Bắc Kinh tìm cách hóa quan hệ với Trung Quốc và góp
hòa dịu với các nƣớc, giải quyết các phần giải quyết vấn đề Campuchia”
vấn đề quốc tế trong đó có vấn đề (Bộ Ngoại giao, Nguyễn Đinh Bin,
Campuchia. 2002: 323-325). Đến cuối năm 1988,
Đông Nam Á sau nhiều thập kỷ chiến Việt Nam đã rút khỏi Campuchia toàn
tranh, rất cần một môi trƣờng hòa bộ chuyên gia dân sự về nƣớc và rút
bình, an ninh để ổn định và phát triển. quân lần thứ 7. Ngày 5/1/1989 Tổng Bí
Về phần mình, Việt Nam cần ra khỏi thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn
tình trạng bị bao vây để có điều kiện Văn Linh tuyên bố tại Phnom Penh
khôi phục kinh tế và phát triến xã hội. “Việt Nam hoàn toàn nhất trí với
Từ năm 1982, Việt Nam đã tiến hành Campuchia về quyết định rút toàn bộ
rút quân từng đợt khỏi Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam còn lại ra
đến năm 1987 tổng cộng là 6 đợt. khỏi Campuchia vào tháng 9/1989, nếu
Tháng 7/1986, Nghị quyết 32 của Bộ có một giải pháp chính trị. Việc rút hết
Chính trị (khóa V) đề ra phƣơng quân Việt Nam khỏi Campuchia phải
hƣớng điều chỉnh chính sách đối đặt song song với việc chấm dứt viện
ngoại nhằm tạo thế ổn định để tập trợ quân sự của nƣớc ngoài cho tất cả
trung xây dựng kinh tế, chủ động các bên Campuchia, chấm dứt sử dụng
chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hòa lãnh thổ nƣớc ngoài làm đất thánh
bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á chống lại nhân dân Campuchia. Những
thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp điều thỏa thuận này phải đƣợc tiến
tác và phát triển. Giải pháp về hành dƣới sự kiểm soát quốc tế có
Campuchia phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả”(5) (Nguyễn Văn Linh, 1989).
hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền Sự chuyển biến tình hình thế giới và
của nƣớc bạn, đồng thời bảo đảm giữ đƣờng lối Đổi mới của Việt Nam có
vững thành quả của nhân dân tác động tích cực đối với khu vực. Tại
Campuchia đấu tranh chống chế độ Hội nghị Bàn tròn Châu Á - Thái Bình
diệt chủng. Đại hội Đảng Cộng sản Dƣơng tháng 6/1989 Thủ tƣớng
Việt Nam lần VI (12/1986) đánh dấu Malaysia Mahathir Mohamed tuyên bố:
bƣớc ngoặt quan trọng, mở ra thời kỳ “Một Đông Nam Á chia rẽ không đem
Đổi mới trong đƣờng lối phát triển lại lợi ích cho bất cứ bên nào”. Trƣớc
kinh tế - xã hội, đồng thời mở cánh đó, Thủ tƣớng Thái Lan Chattichai
cửa hội nhập quốc tế. Nghị quyết 13 Choohavan bày tỏ mong muốn “Biến
của Bộ Chính trị (khóa VI) khẳng định: Đông Dƣơng từ chiến trƣờng thành
“Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân thị trƣờng”. Tổng thống Philippines
dân ta là phải củng cố và giữ vững Korazon Aquino khẳng định “không
hòa bình để tập trung xây dựng và coi Việt Nam là mối đe dọa đối với
phát triển kinh tế” và chỉ ra nhiệm vụ Philippines” và không chống việc Việt
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 39
Nam gia nhập ASEAN. Tháng 11/1990, BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VÀ BIỂN ĐẢO
Tổng thống Indonesia Suharto là vị VIỆT NAM
nguyên thủ đầu tiên của một nƣớc Một, cuộc chiến tranh trên biên giới
ASEAN sang thăm Việt Nam. Đó là Việt Nam - Trung Quốc đã bộc lộ sự
những tín hiệu thuận lợi cho việc giải chuyển biến về thực chất mối quan hệ
quyết vấn đề Campuchia. Lịch sử hiện giữa các nƣớc lớn và giữa các nƣớc
đại Đông Nam Á cho thấy những cuộc xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ là sự
chiến tranh kéo dài, những vụ xung đối đầu giữa hai siêu cƣờng Liên Xô
đột quân sự nghiêm trọng ở nơi đây và Mỹ mà là mâu thuẫn giữa ba đỉnh
hầu hết đều do tác nhân từ bên ngoài tam giác Mỹ - Trung - Xô, trong đó
Đông Nam Á, chỉ đem lại lợi ích cho Việt Nam bị cuốn vào vòng xoáy với
các nƣớc lớn ngoài khu vực. Quyết tính cách là một liên minh của Liên Xô
định của Việt Nam đƣợc coi là bƣớc và một đối thủ của Trung Quốc. Sự
đột phá tạo điều kiện thúc đẩy việc tìm thực đó đánh dấu chấm hết cho mối
kiếm giải pháp cho Campuchia. liên minh xã hội chủ nghĩa một thời có
Hội nghị quốc tế về Campuchia đƣợc tác động tích cực đối với hai cuộc
tổ chức tại Paris ngày 30/7/1989 dƣới kháng chiến cứu nƣớc của Việt Nam.
sự chủ trì của hai đồng chủ tịch là Không phủ nhận, và từ góc độ sử học
Ngoại trƣởng Pháp và Ngoại trƣởng càng không nên phủ nhận, sự đồng
Indonesia. Các bên đều chấp nhận tình ủng hộ và sự giúp đỡ có hiệu quả
vai trò hòa giải của Liên Hợp Quốc, của hai nƣớc lớn xã hội chủ nghĩa đối
cụ thể là 5 nƣớc thƣờng trực Hội với Việt Nam. Song cho rằng đó là
đồng Bảo an (gọi tắt là P.5 gồm Anh, những hành động “vô tƣ, khẳng khái”
Pháp, Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc). thì e rằng không thấy rõ bản chất của
Ngày 23/10/1991, Hiệp định Paris về quan hệ giữa các nƣớc lớn, cũng nhƣ
Campuchia đƣợc ký kết đã chấm dứt giữa nƣớc lớn và nƣớc nhỏ. Vì thế, có
tình trạng căng thẳng, đối đầu ở phần bất ngờ khi xảy ra cuộc chiến
Campuchia. Theo tinh thần của Hiệp tranh ở phía Tây Nam và phía Bắc
định, ngày 23/5/1993, cuộc Tổng tuyển nƣớc ta, những nƣớc đều do đảng
cử đƣợc tiến hành ở Campuchia bầu cộng sản cầm quyền. Với kinh nghiệm
ra Quốc hội của Vƣơng quốc, lịch sử hàng chục năm trận mạc, các nhà
đất nƣớc Campuchia bƣớc sang một lãnh đạo và nhân dân Việt Nam đã
thời kỳ mới đồng thời làm dịu tình nhanh chóng giành thế chủ động, tiêu
hình khu vực, Đông Nam Á đi vào thời diệt chế độ diệt chủng Khmer Đỏ và
kỳ hòa bình, ổn định, hợp tác và phát chống trả hành động xâm lấn từ
triển. phƣơng Bắc, bảo vệ chủ quyền dân
tộc và lãnh thổ quốc gia.
5. ĐÁNH GIÁ VỀ BỐI CẢNH QUỐC
TẾ TRONG THỜI GIAN DIỄN RA Từ quá khứ đến hiện tại, chúng ta vẫn
NHỮNG CUỘC CHIẾN BẢO VỆ gìn giữ những tình cảm tốt đẹp mà
- 40 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
nhân dân thế giới đã dành cho Việt Nhƣng trên đỉnh cao chiến thắng năm
Nam, mãi mãi tỏ lòng biết ơn sự hy 1975, Việt Nam đã có sự đánh giá
sinh của nhiều ngƣời dân, nhiều không đúng về đối thủ, về đồng minh
ngƣời lính các nƣớc xã hội chủ nghĩa và về chính mình. Niềm say sƣa của
đã từng bỏ mình trong cuộc chiến đấu ngƣời thắng trận dẫn tới sự nhìn nhận
trên đất Việt Nam vì nền độc lập của không chính xác về vị thế và thực lực
Việt Nam. Ghi nhớ công ơn đó là của mình trên bàn cờ quốc tế. Về đối
lƣơng tri, là đạo lý của dân tộc ta. thủ, nƣớc Mỹ phải rút khỏi chiến
Nhƣng sau khi hệ thống xã hội chủ tranh Việt Nam nhƣng trên phạm vi
nghĩa tan rã trên phạm vi thế giới thì thế giới, đó vẫn là một siêu cƣờng có
mối liên hệ về ý thức hệ tuy vẫn tồn tại tác động mạnh mẽ đến tình hình
ở đây đó song không còn là chất keo chung. Mặc dù Việt Nam nhận thức
dính bền chặt trong quan hệ giữa các rõ sự cần thiết phải xác lập quan hệ
nƣớc trƣớc đây đã từng là xã hội chủ bình thƣờng với Mỹ nhƣng những đòi
nghĩa. Về cơ bản, mối quan hệ đó hỏi về việc “hàn gắn vết thƣơng chiến
phải dựa vào sự cân nhắc quyền lợi tranh” không phù hợp với luật pháp
quốc gia, sự bảo vệ lợi ích dân tộc và của Mỹ và động chạm đến lòng tự ái
sự gìn giữ hòa bình, hữu nghị trên thế của ngƣời dân Mỹ nên cuối cùng đã
giới. Đây là điều cần nhận thức rõ để để lỡ thời cơ. Về đồng minh, giới lãnh
bảo đảm đƣờng lối đối ngoại độc lập, đạo nƣớc nhà khi đó đã xa rời chính
tự chủ, vì lợi ích quốc gia mà không sách cân bằng của Chủ tịch Hồ Chí
mơ hồ, không bị ràng buộc bởi sợi Minh, nghiêng hẳn về Moscow khiến
dây ý thức hệ, bởi thể chế chính trị. cho giới cầm quyền Bắc Kinh lợi
Hai, sự phân hóa dẫn đến chia rẽ giữa dụng điều đó để tạo cớ gây ra cuộc
hai nƣớc lớn xã hội chủ nghĩa xuất chiến tranh biên giới. Họ tính toán
hiện từ cuối thập niên 50, bộc lộ công nhiều mặt để phát động cuộc chiến
khai sau Đại hội lần thứ XX của Đảng dƣới chiêu bài “phản kích tự vệ”,
Cộng sản Liên Xô. Ban đầu là cuộc song nếu Việt Nam giữ đƣợc thế cân
tranh cãi về lý thuyết, sau dẫn tới sự bằng theo khuôn mẫu mà Chủ tịch
phân liệt nghiêm trọng trong phong Hồ Chí Minh đã thực hiện trong
trào cộng sản và công nhân thế giới. những năm 60 thì bài toán thời cuộc
Điều nguy hại là mâu thuẫn gay gắt đó có thể đƣợc giải theo một phƣơng án
bộc lộ trong lúc Việt Nam phải chiến khác, Việt Nam không bị sa vào thế
đấu với một thế lực mạnh hàng đầu cô lập nghiêm trọng chƣa từng có
thế giới. Nhƣng đƣờng lối đoàn kết trong lịch sử nƣớc nhà. Cho nên, bài
quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên học về tinh thần cảnh giác và cách
nguyên tắc cân bằng “đoàn kết với ứng xử cân bằng trong quan hệ đối
Liên Xô, đoàn kết với Trung Quốc” đã ngoại theo tƣ tƣởng ngoại giao Hồ
phát huy tác dụng tích cực trong công Chí Minh đã đƣợc minh chứng tính
cuộc kháng chiến chống Mỹ. đúng đắn trong quá khứ, luôn là
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 41
nguyên tắc cần tuân thủ trƣớc những khác cần quan tâm đầy đủ công việc
vấn đề quốc tế hôm nay và mai sau. này nhƣ chúng ta đã từng viết về hai
Ba, lịch sử đã qua đi, song câu chuyện cuộc kháng chiến trƣớc. Không khơi
quá khứ vẫn còn đƣợc nhắc lại mãi. gợi hận thù, song nhắc lại quá khứ để
Sự thực lịch sử dù vui hay buồn đều có cách ứng xử đúng đắn hôm nay và
cần đƣợc ghi lại để rút ra những bài phòng ngừa cho ngày mai là điều rất
học cho đời sau. cần thiết và cấp thiết đối với sự
nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền và
Các sách giáo khoa về lịch sử, về văn
toàn vẹn lãnh thổ nƣớc nhà.
học và nhiều môn khoa học xã hội
CHÚ THÍCH
(1)
Ngày 22/2/1974 khi hội kiến với Tổng thống nƣớc Zambia (Châu Phi), Mao Trạch Đông
nói: Tôi coi Mỹ, Liên Xô là thế giới thứ nhất; các nƣớc trung gian nhƣ Nhật Bản, Châu Âu,
Canada là thế giới thứ hai; còn chúng ta là thế giới thứ ba (Tiêu Thị Mỹ, 2016: 350).
(2)
Năm 1978, ngày 12/5 Trung Quốc tuyên bố cắt giảm viện trợ cho Việt Nam 21 hạng mục
công trình, ngày 30/5 cắt thêm 51 hạng mục, đến ngày 3/7, Trung Quốc cắt toàn bộ viện trợ
và rút hết chuyên gia về nƣớc (Bộ Ngoại giao, Nguyễn Đình Bin, 2002: 198).
(3)
Theo thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Washington, cuối năm 1979, các máy bay quân sự Mỹ
đã vận chuyển sang Trung Quốc trang thiết bị để xây dựng một căn cứ thu âm thanh Mỹ -
Trung tại vùng viễn tây Trung Quốc. Các trạm giám sát đƣợc đặt trên các triền núi cao thuộc
tỉnh Tân Cƣơng, qua đó có thể theo dõi thông tin liên lạc quân sự của Liên Xô từ Trung Á
đến Viễn Đông, nắm bắt đƣợc tín hiệu radar từ các chuyến bay quân sự, phát hiện mọi thay
đổi của các căn cứ vũ khí hạt nhân cũng nhƣ tín hiệu về các vụ bắn tên lửa đạn đạo của
Liên Xô. Đồng thời CIA mở một trƣờng huấn luyện kỹ thuật để ngƣời Trung Quốc đủ khả
năng sử dụng các thiết bị của căn cứ này. Hành động của Mỹ đã tạo lợi thế cho nền an ninh
Trung Quốc trong sự đối đầu với Liên Xô (Patrick Tyler, 2008: 480-481).
(4)
Ngày 5/6 Chính phủ Mỹ ra lệnh dừng việc bán hàng hóa quân sự cho Trung Quốc, chấm
dứt các cuộc tiếp xúc giữa các quan chức cao cấp Mỹ với Trung Quốc, dừng các khoản cho
vay, Thƣợng viện và Hạ viện Mỹ lần lƣợt thông qua dự luật trừng phạt Trung Quốc, “tình
hình Trung Quốc lúc này nhƣ mây đen che phủ bầu trời” (Tạ Ích Hiển, 2002).
(5)
Diễn văn của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh tại Lễ kỷ niệm lần
thứ 10 Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia (báo Nhân dân ngày 7/1/1989).
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Bộ Ngoại giao. Nguyễn Đinh Bin (chủ biên). 2002. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000.
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
2. Bogaturov Aleksey Dermofenovich - Averkov Viktor Viktorovich. 2009. Lịch sử quan
hệ quốc tế. 2013. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia (bản tiếng Nga do Trƣờng Đại học
Quan hệ Quốc tế Moscow xuất bản năm 2009).
3. Chemilier, Monique - Gendreau. 1998. Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (bản dịch tiếng Việt). Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
- 42 VŨ DƢƠNG NINH – BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA CUỘC CHIẾN ĐẤU…
4. Dobrynin, A. 2001. Đặc biệt tin cậy. Vị Đại sứ ở Washington qua sáu đời Tổng thống
Mỹ. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
5. Kissinger, H. 2015. Bàn về Trung Quốc. Hà Nội: Nxb. Công an Nhân dân.
6. Nguyễn Văn Linh. 1989. Diễn văn của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn
Văn Linh tại Lễ kỷ niệm lần thứ 10 Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Báo Nhân dân ngày 7/1/1989.
7. Tạ Ích Hiển (chủ biên). 2002: Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001).
Bản dịch của Tổng cục 2, lƣu tại Tổng cục 2.
8. Tiêu Thị Mỹ. 2016. Mưu lược Mao Trạch Đông. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
9. Tyler, Patrick. 2008. Một thiên lịch sử sáu đời tổng thống Mỹ - Trung. Hà Nội: Nxb.
Công an Nhân dân.
nguon tai.lieu . vn