Xem mẫu

  1. Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) 3 Sau khi nối ngôi, vào tháng 6 năm Bính Tuất (1446) vua Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên trong cả nước, trong dó có thừa tuyên Thuận Hoá. “Tháng 2 năm thứ 7 niên hiệu Quang Thuận, vua Lê Thánh Tông đặt ty “Tuyên chánh sứ” tại các đạo và cử Nguyễn Đặc Đạt là “tuyên chánh sứ” Hoá Châu” (15). Vua cũng đã đổi lộ thành phủ, đổi trấn thành châu, rồi chức chuyện vận thành tri huyện, xã quan thành thành xã trưởng. Cuối năm ấy, Tham nghị Thừa Tuyên sứ ty châu Hoá là Đặng Thiếp đã dâng sớ tâu bày 5 việc nên làm là: 1. Dựng đồn luỹ ở gần cửa biển Tư Dung. 2. Lấp cửa Eo. 3. Đào kênh Sen. 4. Bãi bỏ chức thuế sử ở đầu nguồn. 5. Chiêu mộ lưu dân khai khẩn đất hoang ở châu Bố Chính Đó là đề nghị rất sáng suốt của một quan chức có trách nhiệm như Đặng Thiếp. Dưới sự cai trị của Đặng Thiết tình hình Hoá Châu đã sáng sủa hơn, xã hội trở nên ổn định, kinh tế có phần phát triển, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp.
  2. Ngoài những quan chức được triều đình cử vào trấn giữ, dưới triều Lê Sơ với chính sách “phủ dụ dân chúng nơi biên viễn”, triều đình đã trực tiếp phong quan chức cho các thổ tù và quan lại địa phương. Tuy Hoá Châu thời Lê Sơ chưa hoàn toàn ổn định, nhưng với những quan chức đầy trách nhiệm, vùng đất này đã phần nào được phát triển. Thành Hoá Châu thời Lê Sơ Nhắc đến bộ máy cai trị Hoá Châu thời Lê Sơ người ta không thể quên vai trò của thành Hoá Châu. Thành Hoá Châu là ly sở của Châu Hoá, một thành luỹ quan trọng ở vùng biên viễn phía nam của nước Đại Việt từ thời vua Trần, là một thành cổ đánh dấu bước đô thị hoá đầu tiên ở xứ Huế. Thành Hoá Châu được xây dựng trên một mảnh đất cao, thoáng, nay thuộc xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế khoảng 9 km về phía đông bắc. Thành Hoá Châu được xây dựng án ngữ ngay giữa ngã ba sông, gọi là Ngã ba Sình. Đó là sự hợp lưu của sông Hương chảy từ phía nam, sông Bồ từ phía tây bắc, tạo thành sông Linh Giang sâu và rộng rồi đổ ra phá Tam Giang. Nhìn tổng thể Hoá thành có quy mô lớn, cấu trúc hoàn chỉnh với tường cao, hào sâu, địa thế hiểm trở, đáp ứng được nhu cầu quân sự, chủ động công thủ. Thế liên hoàn thuỷ bộ, đặc biệt là đường thuỷ thông ra biển qua phá tam Giang đã gắn kết toà thành với hậu phương, đảm bảo là vị trí tiền tiêu, là
  3. phên dậu phía nam của đất nước. Thành được xây dựng khá quy chỉnh, kết hợp hài hoà với yếu tố tự nhiên, tạo nên toà thành kiên cố trấn giữ vùng đất trọng yếu Hoá Châu. Thành có cấu trúc gần với hình chữ nhật, nằm dọc theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, song song với khúc sông Hương, từ Ngã ba Sình đến cồn Quy Lai. Tường thành đắp đất dày cao, đầm lèn vững chắc, xung quanh thành là hệ thống đầm phá, sông bao bọc tạo nên hệ thống giao thông thuỷ thuận tiện giữa trong và ngoài thành. Thành Hoá Châu có hai vòng thành: thành Nội và thành Ngoại. Vòng thành ngoại gần với hình chữ nhật, bị uốn cong ở hướng Tây Bắc, nằm trãi theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Hai cạnh ngắn nằm ở hướng Tây - Bắc, Đông - Nam, tạo thành các lũy thành. Toà thành nội nằm gọn về hướng Bắc của sông Thành Trung - tức nằm trên cửa hướng Bắc của toà thành Hoá Châu. Thành nội cách bờ sông Thành Trung khoảng 150 m, cách thành ngoại hướng Tây Bắc khoảng 80 m đến 100 m. Toà thành nội bị phá huỷ nhiều, đến nay chỉ còn luỹ thành ngang hướng tây Nam và lũy thành ngang hướng Đông Nam. Hai lũy thành này bắt góc khá vuông vức ở hướng Nam. Thành nội ngày nay là dải đất cao hình chữ L, mà cạnh dài của chữ L này nằm dọc theo sông Thành Trung. Lũy thành này vuông góc với luỹ thành
  4. hướng Tây - Nam, chạy dọc theo sông Thành Trung, đến chùa Thành Trung thì chấm dứt, do đó dân địa phương còn gọi là thành cụt. Phía Tây bờ thành cụt là dải đất cao mang tên gọi Kho Hạ, Kho Thượng, Kho Trung. Hoá thành thời Lê Sơ bên trong thành nội chắc hẳn tồn tại nhiều kho lương thực tương đối lớn, mà di tích còn lại chỉ là những vạt kho. Thành Hoá Châu trở thành hậu cứ quan trọng trong nhiều lần nam chinh của nhà Lê. Nhìn tổng thể, thành Hoá Châu có quy mô lớn, cấu trúc hoàn chỉnh với tường cao hào sâu, địa thế hiểm trở, đáp ứng được nhu cầu quân sự trong đáp ứng phòng thủ cũng như tấn công. Thế liên hoàn thủy bộ, đặc biệt là dường thuỷ thông ra biển đã gắn kết chặt chẽ giữa toà thành với hậu phương, đảm bảo tốt là vị trí tiền tiêu, phên dậu phía nam của vùng biên viễn Đại Việt. Dưới thời Lê Sơ, Hoá thành từ một nơi trọng trấn, nơi đồn trú quân binh vùng biên viễn dần phát triển thành một trung tâm chính trị, kinh tế của vùng phía nam quốc gia Đại Việt. Đối với Đại Việt, vùng đất Thành Hoá nói chung và Hoá thành nói riêng là trọng trấn phương nam. Hoá thành là ly sở châu Hoá thuộc lộ Thuận Hoá vào cuối thời Trần, đầu thời Lê. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh (1407 - 1427), châu Hoá là căn cứ địa với vai trò trung tâm là Hoá thành, là hậu phương vững chắc của cả nước, để sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi,
  5. Lê Thái Tổ coi đó là “phên dậu thứ tư” của Tổ quốc, “là lòng dạ của ta”. Sau trận chiến thắng năm 1471, biên giới quốc gia Đại Việt được mở rộng đến vùng Phú Yên. Toà thành Hoá Châu không còn là nơi trực tiếp đứng đầu sóng ngọn gió, vai trò quân sự được đưa xuống hàng thứ yếu, thay vào đó là sự phát triển về chính trị, kinh tế, văn hoá… Tại dây, dần hình thành nên một khu đô thị mà hạt nhân chính là thành Hoá Châu, hội tụ xung quanh nó là những làng, những khu dân cư mới đặt nền móng cho đô thị sau này. Chú thích: (1) Ngô Sĩ Liên (168), Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2). Cao Huy Giu, Đào Duy Anh dịch, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 246. (2) UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa chí Thừa Thiên Huế, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 56. (3) (6) Ngô Sĩ Liên, Sđd (tập 3), tr 46, 67. (4) (9) (11) Quốc sử quán triều Ngyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cuơng mục (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 835, 844, 860. (5) (8) (13) (14) (15) Lê Quý Đôn (1964). Phủ biên tạp lục, bản dịch Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân và Nguyễn Ngọc Tĩnh, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 46, 60, 46, 41, 53.
  6. (7) Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Viện Sử học phiên dịch và chú giải, Nxb KHXH Hà Nội, tr 38. (10) Dẫn theo Nguyễn Hữu Thông, “Bức tranh dân cư vùng Thuận Hoá thế kỷ XV qua bản Thỉ thiên tự”, tạp chí Khoa học và công nghệ Thừa Thiên Huế (số 1 - 1997), tr 124, 125. (12) Lê Quý Đôn (1996), Đại Việt thông sử, bản dịch Túc Viên Lê, Mạnh Liêu và Nguyễn Khắc Thuần, Nxb Đồng Tháp, tr 87.
nguon tai.lieu . vn