Xem mẫu

  1. Bill Gates ­ đằng sau một ngai vàng  Lời tựa Bill Gates đã và đang là thần tượng của rất nhiều người, nhưng cũng là kẻ thù không đội  trời chung của rất nhiều kẻ khác. Nhiều người xem Gates là một anh hùng mã thượng,  nhưng cũng không ít người xem Gates “chỉ kẻ gian hùng, khôn lanh và quỷ quyệt”. Nhiều  lời khen tặng khâm phục về một thiên tài mẫu mực, đam mê công việc và bản lĩnh thương  trường, nhưng cũng không ít lời chỉ trích “hắn ta (Gates) thực sự là một gã huênh hoang,  ngang tàng, nguy hiểm và vô nguyên tắc”. Gates được xem là một tấm gương của một con người đại diện cho trí tuệ, khát vọng và  ước mơ, nhưng cũng từng bị lăng mạ là “một kẻ láu cá, cơ hội không hơn không kém và  tột cùng tham lam”... Ngày 4­2­1998, trong chuyến sang Brussels dự hội nghị với giới chức Liên minh châu Âu,  nguyên một ổ bánh kem to tướng đã bay thẳng vào mặt Bill Gates từ tay một người Bỉ tên  Noel Godin. Sự tích “bánh kem tặng Gates” đó chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi những sự  kiện, những “thích khách”, những âm mưu và những tổ chức dài dằng dặc luôn sẵn sàng  tư thế nghiền nát Bill Gates cùng tập đoàn phần mềm Microsoft vì ganh tỵ, vì mặc cảm  thất bại và vì thèm khát vị trí độc tôn. Vấn đề ở chỗ: như những gì thuật lại trong The Plots to get Bill Gates ­ An investigation of  the world’s richest man and the who hate him của Gary Rivlin, liên minh chống Gates  trong thực tế chỉ là một liên minh ganh ăn ghét ở, đầy mưu mô và thủ đoạn chỉ chực hạ  gục Bill Gates để thiết lập lại “trật tự mới” cho thế giới công nghiệp phần mềm. “Trật tự  mới” này có thể hiểu là những cuộc đại chiến tiếp theo với mục tiêu giành chiếc ngai “sẽ  bỏ trống” của Microsoft. Do bản chất như vậy nên chẳng trách sao những âm mưu bóp  cổ Bill Gates chưa bao giờ thành công. Và rồi, Gates vẫn còn đó, vẫn là người phát biểu chính trên các diễn đàn quốc tế về công  nghệ phần mền với tư thế của một ông trùm danh bất hư truyền, vẫn tung ra đúng lúc  những ý tưởng táo bạo trong việc thống lĩnh chiến trường cạnh tranh và tìm kiếm vũ khí  cùng cách thể hiện mới cho vị thế độc tôn, bành trướng của mình; vẫn thu tiền đều đều  từng ngày từ việc bán các phiên bản phần mềm máy tính cho cả thế giới, và cho cả đối  thủ của mình, và nhất là vẫn nghênh ngang vị trí giàu có nhất hành tinh.
  2. Sách do NXB Trẻ và công ty First News thực hiện, bán tại nhà sách Trí Việt, 11H Nguyễn   Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM và các nhà sách khác trên toàn quốc. Giá: 38.000 đồng. Xuất bản tháng 12/2004 *************************************** Phần I: Một người không giống nhiều người William Henry Gates III (Bill Gates) là con trai duy nhất một gia đình danh giá ở  Seattle. Cụ cố nội là người sáng lập Ngân hàng Quốc gia thành phố Seattle, từng là bạn  thân của chính khách huyền thoại William Jennings Bryan và John Pershing ­ vị tướng  lừng danh quân đội Mỹ thời Thế chiến thứ nhất. Đứa trẻ khác biệt Thống đốc Robert Evans là bằng hữu của gia đình, tương tự là Brock Adams ­ vị nghị sĩ  Mỹ từng thuê cậu bé 16 tuổi Bill Gates giúp việc cho mình tại văn phòng Quốc hội. Mẹ cậu là người mà báo chí địa phương gọi là “nhân vật vai vế” (có chân trong Tổ chức  United Way; quản trị viên một trường đại học; giám đốc Ngân hàng West Coast). Cha cậu được miêu tả là “nhân vật trụ cột của công chúng”, William H. Gates II (Bill  Gates bố) cũng là chủ tịch một hãng luật. Mẹ Gates còn là bạn thân của Katharine  Graham (cố chủ bút tờ Washington Post). Gia đình Gates trung thành với Đảng Cộng  hòa. Người ta kể rằng Gates đã đọc nát như cháo từ A­Z một bộ bách khoa toàn thư khi chưa  đầy 10 tuổi. Có lúc bố mẹ đã đưa Bill Gates đến gặp một nhà tâm thần học. “Nó rất khác  biệt so với bọn trẻ lớp 6 khác ­ bà mẹ thở dài ­ Nó sẽ ngồi ghế sau xe, đúng ở chỗ kia cơ  chứ không phải chỗ khác, cứ như thể ngân hà sẽ biến mất nếu nó làm khác đi”. Bà Mary Gates hỏi con trai: “Con đang làm gì thế?” và con trai bà thường trả lời: “Con  đang suy nghĩ, mẹ ạ”. “Ông bà sẽ thua cuộc đấy” ­ nhà tâm thần học nhận xét. “Ông bà  nên điều chỉnh từ từ bởi nếu đánh đập sẽ chẳng nên cơm cháo gì”.
  3. Gia đình đã lên kế hoạch gửi cả ba đứa con đến trường công lập, nhưng cuối cùng bố mẹ  Gates đã áp dụng ngoại lệ đối với đứa con giữa khó hiểu của mình. Họ cho nó học lớp 7  tại Trường Lakeside, ngôi trường con trai tốt nhất trong vùng. Mở bất kỳ cuốn kỷ yếu nào của Trường Lakeside từ năm 1967­1972, chọn bất kỳ cái tên  nào, bạn cũng có thể an tâm khi đặt cược rằng người đó chắc chắn nhớ đến một thằng  bé sáng sủa tên Gates, thường xuyên rị mọ trong phòng vi tính của trường. Có bạn học nhận xét “nó thông minh một cách đáng sợ”; đứa khác nói rằng nó là thằng  nhóc không biết cách cư xử, khoái màn ôm bụng cười lăn cười bò mỗi khi có bạn trong  lớp trả lời sai câu hỏi của thầy. “Kiêu ngạo” là từ được dùng nhiều hơn bất kỳ từ nào khác  khi các bạn tiểu học kể về Gates. Hãy cố gắng bán một cái gì đó đi! Lo sợ có thể thằng bé không bao giờ dứt khỏi vi tính, bố mẹ yêu cầu nó thôi học vào năm  14 tuổi, tạm ngưng trong chín tháng. Thằng bé chuyển sang nghiên cứu tiểu sử, từ  Napoleon đến Franklin D. Roosevelt; đọc tờ Business Week của bố theo cái kiểu mà  những đứa trẻ khác khoái trá chui vào gầm giường nghiền ngẫm Playboy. Bill Gates không hẳn là đứa trẻ ngồi lì cả buổi chiều ở Trung tâm máy tính Lakeside  nhưng chắc chắn nó là đứa tham vọng nhất. Chính “tinh thần thầu khoán” đã làm nó khác  hẳn đồng bạn. Trong khi hầu hết trẻ trang lứa sẵn lòng chơi trò tic­tac­toe, Gates thì nói:  “Hãy trở lại với thế giới thực và cố gắng bán một cái gì đó đi”. Trong thời gian từ lớp 8­11, Gates đã thử kinh doanh không dưới ba lần. “Chúng tôi muốn  mở rộng lực lượng lao động” ­ Gates tuyên bố và khởi đầu tìm những học sinh sẵn sàng  làm công việc đục lỗ phiếu với tiền công vài xu/giờ (đối tác của hai trong số ba công việc  làm ăn là người đồng sáng lập Microsoft ­ Paul Allen). Với Bill, điều đó chưa bao giờ là vì tiền. Đó là những lời mà luật sư của Gates tuyên bố  ngay khi xuất hiện bài báo đầu tiên nói về gia sản kếch sù tạo dựng trong chớp mắt của  ông. “Điều Bill quan tâm nhất là làm sao viết được những phần mềm vĩ đại” ­ nhân viên  phòng quan hệ đối ngoại Microsoft tuyên bố.
  4. “Đối với Bill, tất cả chỉ là phần thưởng chiến thắng trước đối thủ, còn tiền bạc là chuyện  nhỏ” ­ những người tự cho rằng mình hiểu rõ Gates hơn ai hết đã nói như vậy. Người ta  đã không chú ý tới đám bạn bè thời thơ ấu của Gates, những người còn nhớ như in rằng  Bill Gates từng tuyên bố kiếm được tiền triệu trước năm 25 tuổi hoặc chuyện Bill bỏ dở  Đại học Harvard chỉ vì sợ cơ hội kiếm tiền quan trọng tuột đi mất. Đứa trẻ lớn! Một cô nàng (mà bố mẹ Bill Gates chọn cho con trai khi anh từ Harvard về nhà nghỉ hè)  kể với phóng viên tờ Seattle Post ­ Intelligencer ­ rằng anh ta là kẻ có rất ít kinh nghiệm  với phái nữ. Câu hỏi đầu tiên mà Gates đưa ra trong cuộc gặp đầu tiên: Em được mấy điểm hồi thời  trung học vậy? Câu thứ hai là số điểm của Gates. Anh được 790 điểm trong kỳ thi môn  toán nhưng phải thi lại vì phạm một lỗi ngớ ngẩn. Và đương nhiên anh đạt được số điểm  800 tròn trịa ở lần thi thứ hai. Còn có câu chuyện kể từ người bạn thân nhất của Bill Gates, người tâm phúc mà Gates  sau này mời làm phù rể đám cưới mình, người mà Gates đã biến thành tỉ phú. Đó là Steve Ballmer, người kể với phóng viên People về cái gã “điên rồ” mà thiên hạ luôn  bàn tán khi anh ta còn học năm 1 đại học, đại loại như sau: anh ta ngủ gà ngủ gật trong  lớp toán hoặc tay chống cằm, trông có vẻ rất chán đời trừ phi phát hiện giáo sư vừa nhầm  lẫn và sau đó hào hứng giải thích cái lỗi ấy. Một người đại diện bán hàng Microsoft từ năm 1982 kể rằng Bill có trí tuệ của một cụ già  và bản năng của một đứa bé. Gates mua xe không có radio vì theo anh, radio làm sao  nhãng công việc. Cũng lý do đó, Gates không mua tivi cho mãi tới thời gian gần đây. Là người thuận tay trái, Gates vẫn luyện viết tay phải ngay trong cuộc họp hoặc những  lúc không làm việc mà anh gọi là “chu kỳ trí tuệ”. Phóng viên tờ People từng để ý một bản  đồ châu Phi được gắn trong gara tại vị trí mà mắt Gates có thể lướt qua khi ngồi vào hay  bước ra xe. “Trí óc của bạn còn nhiều dải rộng chưa bao giờ được dùng đến” ­ Gates giải thích.  Gates thậm chí có vẻ giống chiếc máy tính, như trong một lần phát biểu với báo chí: “Về 
  5. phương diện phân phối thời gian, tôn giáo không tỏ ra hiệu quả”. Theo như những gì cánh báo chí biết, anh ghét ngày nắng đẹp vì sở thích du lịch trong  thời gian này sẽ làm hao phí quĩ làm việc của các nhân viên mẫn cán. Trong một cuốn  tiểu sử của Gates, tác giả kể rằng anh bị cuốn vào công việc đến nỗi mẹ anh không chỉ  chọn ngôi nhà cho anh mà còn tự sắp xếp đồ đạc và trang trí khi anh ở Nhật Bản. Mặc dù Gates sống cách gia đình chỉ 20 phút đi xe, bà mẹ tội nghiệp vẫn luôn gửi thư và  bưu thiếp cho con, và không biết rằng chúng bị xếp thành đống ở góc bàn. Bà cụ cũng  liên tục nhắc Gates phải gội đầu và có khi cụ làm phiền tới mọi người trong công ty khi  hỏi đi hỏi lại: “Nó tự chăm sóc bản thân được không?”. Thậm chí bà còn mua quần áo cho con và giúp chọn màu sắc thích hợp bằng cách kẹp  ghim thành từng bộ với nhau. Bill Gates thuê trợ lý hành chính nhưng họ thường đảm đương cả phần “hậu cần” ­ theo  lời nguyên trợ lý Estelle Mathers. Nếu biết Bill có cuộc họp lên lịch sẵn vào sáng sớm,  Mathers luôn gọi về nhà để đánh thức anh. Cô cũng lái xe đưa anh ấy ra sân bay và tư  vấn luôn về trang phục cho từng cuộc hẹn. Trước buổi tiệc lớn, cô nhắc anh chải tóc... Có trí nhớ phi thường (có thể đọc một mạch  và nhớ từng chi tiết kế hoạch kinh doanh của các đối thủ!) nhưng Bill thường quên hành  lý tại khách sạn, chẳng hạn một hợp đồng quan trọng, tập séc du lịch trị giá hàng ngàn  USD, vali quần áo... Gates thích ngồi ghế bình thường trên máy bay thay vì ghế hạng nhất. Hơn nữa, anh  cũng không thích xe sang trọng. Trong thời gian dài, Gates không chấp nhận bãi đậu xe  riêng cho đến đầu thập niên 1990...  Click quảng cáo ủng hộ diễn đàn Nguyễn Thành Tân Xem hồ sơ
  6. Gởi tin nhắn tới Nguyễn Thành Tân Tìm bài gửi bởi Nguyễn Thành Tân   #2    24­06­2007, 02:54 AM  Gia nhập: Aug 2006 Đến từ: TQOL Tuổi: 28 Nguyễn Thành Tân    Bài gửi: 1,641  Quản trị viên Đã cảm ơn: 0 Được cảm ơn 1 lần trong 1 bài viết  Phần 2: Những bước đi đầu tiên  Gia đình Gates đi lễ ở nhà thờ thuộc giáo đoàn University Congregational Church   của mục sư Dale Turner. Hằng năm, mục sư Turner đều có lời hứa sẽ đãi một bữa   ăn tối tại nhà hàng Space Needle, cao gần 200m, ở Seattle, cho những em đang   học lớp giáo lý của nhà thờ có thể thuộc lòng đoạn Bài giảng trên núi (Sermon on   the mount). Người ưa sự thách thức 31 đứa trẻ khác tuy đọc được các chương 5, 6 và 7 của sách Matthew nhưng vẫn  còn vấp váp, khi đến lượt Gates, cha Turner thật sự kinh ngạc khi cậu bé đọc thuộc  làu làu và càng kinh ngạc hơn khi biết cậu đã học các đoạn này khi đang trên  đường đi ra bãi biển cùng gia đình. Mục sư nói: “Chỉ cần tới nhà cậu bé ngày hôm ấy là tôi biết ngay rằng cậu bé này  có điều gì đó rất đặc biệt. Tôi không thể tưởng tượng nổi là vì sao một đứa bé 11  tuổi lại có một trí tuệ như vậy. Qua các câu hỏi kiểm tra lại, tôi phát hiện cậu bé  không chỉ thuộc lòng mà còn hiểu rất sâu sắc đoạn kinh thánh đó”. Nhưng mục sư Turner cũng phải thừa nhận rằng có lẽ Gates học thuộc đoạn kinh  thánh này không phải vì đức tin mà chỉ vì ưa thích sự thách thức. Sau này Gates  cũng nói:
  7. “Khi bước vào tuổi trưởng thành, cha mẹ tôi thường khuyến khích các con đọc sách  thật nhiều và cổ vũ tính độc lập suy nghĩ của chúng tôi. Hai người thường kéo  chúng tôi vào mọi cuộc thảo luận trong bất cứ đề tài nào, từ nội dung của một  quyển sách nào đó cho đến các vấn đề về chính trị. Vào mùa hè, gia đình chúng tôi cùng một số gia đình khác thường đến nghỉ ở Hood  Canal. Ở đấy chúng tôi thường hay chơi các trò chơi có tính cạnh tranh cao như  chạy tiếp sức, ném trứng, cướp cờ. Đó là những thời gian luôn bổ ích và mang đến  cho chúng tôi cảm giác rằng chúng tôi có thể đua tranh và thành công”. Câu lạc bộ Các bà mẹ của Trường Lakeside Các bậc cha mẹ nào còn nghi ngờ việc họ có thể tác động mạnh mẽ đến cách giáo  dục con em mình thì nên nhớ đến hiệu quả tuyệt vời từ việc làm của Câu lạc bộ  Các bà mẹ ở Trường Lakeside. Vào năm 1967, CLB này sử dụng số tiền thu được  từ việc bán đồ cũ để lắp đặt một máy trạm đầu cuối thô sơ để con em mình có dịp  tiếp xúc với những công nghệ mới lạ. (Nói rõ ra thì đó là chiếc máy nhập liệu ASR­33 Teletype, được nối với máy tính  chủ General Electric Mark II đặt ở nơi khác. Để con em mình có thể làm việc trên  chiếc máy trạm này, các bà mẹ phải trả phí thuê bao mỗi giờ để được phép truy  cập vào máy chủ). Cha của Gates nói rằng cậu con trai học lớp 7 của ông nhanh chóng bị chiếc máy  mê mẩn và không rời khỏi nó. Chẳng mấy chốc Gates và các bạn của cậu đã bỏ  bê lớp học để cả ngày quanh quẩn tại trung tâm máy tính; đến năm lớp 8, Gates đã  có thể kiếm tiền được từ công việc lập trình. Gần một chục học sinh của Trường Lakeside đã trở thành những người đi tiên  phong trong lĩnh vực phần mềm vi tính, Bill Gates và Paul Allen ­ đồng sáng lập  viên của Microsoft ­ là những người nổi bật nhất trong số học sinh này. Gates dùng thời gian nghỉ hè năm 1972 để trở thành cậu bé chạy văn thư cho   quốc hội. Vốn đã có đôi chút kinh nghiệm trong kinh doanh, Gates tiếp tục thể hiện   xu hướng này khi kết hợp với một người bạn ­ Thomas Eagleton ­ bỏ tiền ra mua   5.000 huy hiệu vận động tranh cử tổng thống của George S. McGovern, với giá 5   xu/cái, sau khi nghị sĩ này bị loại khỏi danh sách đề cử ứng viên tổng thống của  
  8. Đảng Dân chủ. Những chiếc huy hiệu này sau đó đã nhanh chóng được nhiều   người sưu tầm săn lùng. Gates và bạn của anh đã bán những huy hiệu của mình   với giá cao gấp nhiều lần, đôi khi lên tới hơn 25 USD/cái. “Giờ đây khi nhìn lại và suy nghĩ, tôi đã thắc mắc ­ quái lạ, làm sao mà mình lại  đâm ra nghiện cái máy đó như vậy nhỉ? Thật khó hiểu. Thời đó người ta không  dùng một đường điện thoại riêng cho chiếc máy nên chúng tôi phải dùng chung  đường điện thoại của văn phòng kinh doanh. Vì vậy chúng tôi phải luôn cố tranh  giành để được ngồi vào chiếc máy này và thường ở lại cho đến tận trời tối. Trong khi đó, những người bảo vệ luôn tìm cách tống cổ chúng tôi ra ngoài. Cái  máy trạm đâu phải là một máy tính, vì vậy chúng tôi phải quay số điện thoại kết nối  với một máy tính ở xa. Một máy tính đúng nghĩa thời đó rất đắt, đến mức người ta  chỉ có thể thuê giờ sử dụng thôi. Chiếc máy tính GE mà chúng tôi thường kết nối tới  có giá 4 triệu USD”. Gates không muốn học những môn mình không thích nhưng ngược lại, với những  môn đã thích rồi thì anh có khả năng tự học rất nhanh. Năm 13 tuổi, Gates tự học  lập trình vi tính. “Tất nhiên, theo suy nghĩ chung thì thầy giáo sẽ say sưa tìm hiểu  những gì liên quan đến máy tính rồi sau đó sẽ dạy lại cho học sinh. Nhưng điều đó  đã không xảy ra. Sự việc lại diễn biến theo hướng ngược lại. Có một nhóm học sinh  có thể nói là đã tự ý làm thay công việc của các người thầy” ­ Gates kể. Rồi Gates bị loại khỏi CLB Những lập trình viên Lakeside chỉ vì nhỏ hơn hai tuổi so  với Paul Allen và những thành viên khác trong nhóm. Họ cho rằng Gates chưa đủ  chín chắn. Nhưng khi thấy CLB không thể làm được việc gì nếu thiếu cậu nên cả  nhóm đã mời Gates nhập bọn lại. Gates ra điều kiện. Và cậu trở thành người đứng  mũi chịu sào trong các dự án sau này. Khi nhóm lập trình viên của phòng máy tính xài hết khoản tiền lớn để trả cho thời  gian họ ngồi sử dụng máy tính tại CLB Các bà mẹ thì thiết bị này phải “lên đường”  thôi. Tuy nhiên một bà mẹ đã kịp tạo ra cho nhóm một cơ hội thật khó tin. Trong những năm cuối thập niên 1960, Gates và các thành viên của nhóm lập trình  viên Lakeside sử dụng bất kỳ phương tiện nào: xe đạp, xe buýt hoặc đi nhờ xe, để  mỗi buổi chiều đi tới văn phòng Công ty Computer Center Corporation (C­Cubed),  tại đó, thay phiên nhau, dùng thời gian rảnh của chiếc máy tính Digital Equipment 
  9. Corporation đời mới, họ truy tìm lỗi lập trình. Cứ 6g chiều mỗi ngày, khi các nhân viên của C­Cubed xếp hàng ra về cũng là lúc  ba cậu học sinh trung học bắt đầu đến. “Chúng tôi thường xuyên ở lại làm việc cho  đến hết đêm chỉ bởi chúng tôi quá thích được làm việc với các phần mềm. Đó là  thời gian vui thú của chúng tôi” ­ Allen nhớ lại. Gates và những người bạn của mình sau đó đã biên soạn một tập sách hướng dẫn  dày 300 trang có tên là The Problem Report Book và nó được các chuyên gia lập  trình của C­Cubed sử dụng. Các cậu bé đã nắm lấy cơ hội để lén lút học ngôn ngữ máy tính. “Paul công kênh  tôi lên để lục lọi trong các thùng đựng rác và tôi đã nhặt nhạnh những tờ giấy ghi  chép lấm lem đầy vết cà phê của các lập trình viên để học về hệ điều hành” ­  Gates kể. Sự thèm muốn đi đến tận cùng giới hạn của Gates cuối cùng đã khiến cậu bị rắc  rối to khi cậu đột nhập một chương trình được bảo vệ. Mật khẩu của người sử dụng  là giấy thông hành trình ra cho máy tính cho biết khu vực nào thì người sử dụng  được phép vào và khu vực nào thì không. Chỉ vì vui thích, Gates đã vòng vèo tránh được khóa bảo mật này và thâm nhập  được hệ thống tài chính kế toán và nhiều thông tin bí mật khác của công ty. Việc  làm mạo hiểm của cậu đã làm tê liệt hệ điều hành và sau đó bị phát hiện. Cha mẹ  cậu đã bắt cậu phải rời xa máy tính và lần này Gates đã nghe lời. “Trong khoảng thời gian nửa cuối lớp 9 và trọn năm học lớp 10, tôi thề là không  đụng đến máy tính nữa. Tôi cố gắng trở thành một cậu bé bình thường và ngoan  nhất có thể được”.  Nguyễn Thành Tân Xem hồ sơ Gởi tin nhắn tới Nguyễn Thành Tân Tìm bài gửi bởi Nguyễn Thành Tân
  10.   #3    24­06­2007, 02:57 AM  Gia nhập: Aug 2006 Đến từ: TQOL Tuổi: 28 Nguyễn Thành Tân    Bài gửi: 1,641  Quản trị viên Đã cảm ơn: 0 Được cảm ơn 1 lần trong 1 bài viết  Phần 3: Vượt ra khỏi lộ trình quy ước  Không bao lâu sau Gates quay trở lại gặp lúc câu lạc bộ máy tính đang đảm nhận   công việc kiếm tiền để trả chi phí sử dụng máy tính. Các thành viên bắt đầu thực   hiện dự án sử dụng máy tính để đếm lưu lượng ôtô trên đường.  Những “phi vụ” ban đầu Traf­O­Data, tên chương trình này, đã mang về cho họ 20.000 USD trước khi các  khách hàng của họ tìm nơi cung cấp dịch vụ tinh vi hơn. Giống như các thiếu niên khác, Gates và bạn bè của mình luôn tìm cách tranh thủ  cảm tình từ các giáo viên: “Khi nhận làm công việc sắp xếp lịch học trong trường,  chúng tôi tính toán rằng qua đó có thể quyết định một cách chính xác học sinh nam  hay nữ nào sẽ vào học ở lớp chúng tôi và điều này là một phần thưởng tuyệt vời.  Công việc đó đã thúc đẩy chúng tôi học cách viết các phần mềm thú vị”. Vào mùa hè đó, Gates và Allen đã kiếm được khoảng 5.000 USD trả bằng giờ sử  dụng máy tính nhờ vào việc viết chương trình xếp lịch lớp học. Một tối, nhân viên của công ty cho thuê thiết bị văn phòng đến văn phòng của C­ Cubed và lấy đi những cái ghế mà các cậu bé đang ngồi làm việc. Gates và những  người bạn của anh có một bài học sống động trước mắt về ý nghĩa của từ “phá sản”. Gates và Allen cảm thấy thất vọng khi khó tìm được một máy tính nào khác để làm  việc nên cuối cùng Gates và Allen bỏ tiền ra mua một bộ vi xử lý 8008 với giá 360  USD, để hai người cùng với nhóm bạn tự lắp ráp máy tính riêng cho chính mình.  Công việc lắp ráp một máy tính đã thuyết phục Gates và Allen rằng họ nên sống 
  11. chết với công việc kinh doanh phần mềm. Gates cho đó là điều may mắn: “Khi chúng tôi còn trẻ, Paul Allen đã hướng dẫn tôi  rất nhiều về phần cứng máy tính và luôn khuyến khích tôi đặt lòng tin và đánh cược  vào bộ vi xử lý. Tôi có may mắn là ngay từ khi còn rất trẻ đã tìm thấy điều mà tôi yêu  thích và hấp dẫn tôi ­ thậm chí đến tận bây giờ. Và tôi cũng may mắn có được song  thân luôn động viên khuyến khích”. Cơ hội được làm công việc lập trình nghiêm chỉnh xuất hiện khi các kỹ sư đang làm  việc cho mạng lưới năng lượng Northwest gặp rắc rối, và trong quá trình tìm kiếm  câu trả lời họ đã phát hiện tài liệu C­Cubed Problem Report Book. TRW Inc. là công  ty đang nhận trách nhiệm viết các chương trình phân tích nhu cầu điện năng của  Columbia Basin, rồi sau đó kiểm soát lượng điện do các đập nước phát ra. Nhưng các lỗi xuất hiện ở chương trình đang chạy trên máy PDP­10 đã làm giảm  tiến độ phát triển rất nhiều. Tài liệu The Problem Report Book đã chỉ ra và giải thích  được rất nhiều lỗi, và người ta đọc được trên tài liệu họ tên của hai lập trình viên đã  khám phá các lỗi này ­ Bill Gates và Paul Allen. Công ty TRW đã tìm ra họ và yêu  cầu họ đến Portland, Oregon để phỏng vấn vào làm việc ở công ty. “Không một ai biết chúng tôi mới chỉ là học sinh lớp 9 và lớp 10”. Dẫu sao họ cũng được nhận vào làm việc. Gates xin giấy phép nghỉ học tại trường  rồi đi tới Portland, tại đây anh và Allen được bố trí riêng một phòng và được phân  công làm việc dưới quyền nhà lập trình John Norton. Với khả năng có thể nhớ được  một danh sách 5.000 trang của hệ điều hành, Norton đã làm lóa mắt các anh bạn  trẻ tài năng vừa mới nhận việc. Gates thường nói rằng khả năng của Norton đã thách thức mình làm việc tốt hơn:  “Trong đầu tôi luôn in đậm hình ảnh của người tên là Norton mà tôi đã gặp tại TRW.  Anh luôn chỉ bảo mỗi khi công việc của tôi không đạt đến mức tốt nhất. Vì vậy khi  làm việc cẩu thả hoặc lười biếng, tôi liền tưởng tượng thấy anh ấy đến bên tôi, nhìn  vào chương trình và nói: Nhìn đây nhé, làm cách này thì tốt hơn đấy”. Trường Harvard Bill Gates được nhận vào học ở cả ba trường đại học danh tiếng: Princeton, Yale và  Harvard theo chương trình học bổng cấp quốc gia ­ National Merit Scholar. Anh 
  12. chọn Đại học Harvard và nhập học vào mùa thu năm 1973. Về nhiều phương diện,  Gates là mẫu sinh viên năm thứ nhất điển hình, bị hụt hẫng trước những đòi hỏi mới  và mức độ ganh đua gay gắt hơn ở trường đại học. Anh chểnh mảng việc đến lớp học để suốt ngày vùi đầu vào những dự án riêng của  mình trong phòng máy của trường, chơi bài suốt đêm và leo lên giường là lăn ra ngủ  chẳng cần phải trải drap giường. Các sinh viên khác nhớ lại anh có thể đi chơi suốt  18­36 tiếng mà không cần ngủ. Thậm chí ngay tại Harvard, Gates cũng vẫn duy trì kiểu học cũ từ hồi còn ở trung  học. Anh học rất giỏi những môn ưa thích và xem thường những môn không say mê.  Tâm trí anh dường như không dành cho việc học. Gates rất ít khi tham gia các hoạt  động của trường trừ khi người bạn cùng dãy phòng trong ký túc xá, Steve Ballmer,  phải hết sức vất vả mới kéo được anh tới các buổi tiệc. Mặc dù không là học sinh xuất sắc nhất về môn toán ở Harvard, nhưng Gates đã  bắt đầu chọn giải toán của sinh viên cao học khi mới học năm thứ nhất và thường  được điểm A cao nhất. Khi việc học ở Harvard làm anh nhàm chán, Gates xin đi làm những công việc có  liên quan đến máy tính trong phạm vi bang Boston. Digital Equipment là một trong  những công ty anh rất thích đến phỏng vấn xin việc bởi vì ở đây họ dùng trực thăng  để đưa những người xin việc từ một sân bay Boston tới trụ sở chính của công ty. Gates khuyến khích Paul Allen cố gắng tìm kiếm một công việc lập trình tại  Honeywell để cả hai cùng có điều kiện tiếp tục thực hiện giấc mơ thành lập công ty  phần mềm. Allen và bạn gái anh ta liền lên chiếc xe Chrysler New Yorker cổ lỗ sĩ và  đến Boston ngay. Và tất nhiên, chẳng bao lâu nữa cuộc sống của Gates sẽ có một  thay đổi bất ngờ. Một cuộc cách mạng có thể xảy ra mà không cần đến chúng tôi Paul Allen đã có một phát hiện tuyệt vời vào một ngày giá rét của tháng mười hai khi  đi ngang qua sân Trường Harvard sau khi vừa ghé thăm Gates. Trên một quầy báo,  anh nhìn thấy trên trang bìa tờ Popular Mechanics, số phát hành tháng 1­1975, có in  hình một bộ máy vi tính mới mang tính cách mạng, chiếc máy MITS Altair 8080.
  13. Allen mua ngay một tờ rồi chạy ngược về chỗ Gates để thuyết phục Gates rằng họ  nên phát triển một ngôn ngữ riêng cho cỗ máy này. Chiếc Altair 8080 có 256 byte bộ nhớ (so sánh với 8 triệu hoặc hơn của phần lớn  máy tính cá nhân ngày nay) nhưng không có phần mềm. “Paul cứ luôn miệng nói chúng ta hãy bắt đầu một công ty. Hãy làm việc đó ngay.  Chúng tôi nhận ra rằng cuộc cách mạng có thể xảy ra mà không cần đến chúng tôi  và vì vậy, sau khi đọc bài báo, mọi câu hỏi về việc lựa chọn đường đi trong cuộc  sống của chúng tôi đã được giải đáp”. Gates và Allen liên lạc với Ed Roberts, người sáng lập Hãng MITS, và hứa hẹn là sẽ  cung cấp một chương trình cho máy Altair trước khi họ viết nó. Roberts nhớ lại:  “Chúng tôi nhận được khoảng 10 bức thư một ngày. Tôi nói với tất cả rằng hễ ai mà  viết xong chương trình này trước tiên coi như người đó đã được đồng ý”. Và hai  người bạn lao tới phòng máy tính của Trường Harvard để viết một chương trình mô  phỏng bằng ngôn ngữ BASIC. Sau này nhớ lại, cũng như một số người, Gates coi Altair chỉ là một cái hộp với một  hệ thống đèn nhấp nháy. Nhưng Gates còn nghĩ xa hơn: “Công ty MITS đã không  hiểu được tầm quan trọng của cỗ máy này. Thật sự chẳng ai hiểu cả, chỉ riêng  chúng tôi. Chúng tôi đã nhận ra rằng rồi sẽ có ngày tất cả trường học ở khắp nơi  đều phải trang bị chiếc máy tính đó”. Gates và Allen tin tưởng rằng máy tính sẽ thực hiện được những điều kỳ diệu. Vì vậy  khẩu hiệu của hai chàng trai khi mới bắt đầu là “Máy tính có mặt trên mỗi bàn làm  việc và trong mỗi gia đình”. Niềm say mê của Gates và Allen để cho ra đời chiếc  máy tính cá nhân cuối cùng đã được chứng minh là đúng  Nguyễn Thành Tân Xem hồ sơ Gởi tin nhắn tới Nguyễn Thành Tân Tìm bài gửi bởi Nguyễn Thành Tân   #4   
  14. 24­06­2007, 02:59 AM  Gia nhập: Aug 2006 Đến từ: TQOL Tuổi: 28 Nguyễn Thành Tân    Bài gửi: 1,641  Quản trị viên Đã cảm ơn: 0 Được cảm ơn 1 lần trong 1 bài viết  Phần 4: Đuổi theo ước mơ  Sau khi Gates và Allen hứa với Roberts sẽ cung cấp một phần mềm cho máy tính   Altair, Gates lao ngay tới cỗ máy mainframe tại Aiken Computer Center của Trường   Harvard, trung tâm này chỉ dùng cho các dự án nghiên cứu của sinh viên chứ không   phải cho các dự án thương mại. Rời bỏ trường đại học danh tiếng Vì cả hai không có một máy tính Altair 8080 để chạy thử nghiệm nên Gates và Allen  phải cố gắng thu thập các chức năng của nó trên tờ tạp chí giới thiệu rồi giả lập lại  các chức năng này trên máy tính lớn của Harvard. Gates kể: “Chúng tôi chỉ dựa vào những điều mô tả trong tạp chí này, vì vậy nếu  hiểu sai hoặc tài liệu viết sai thì công sức của chúng tôi coi như trôi sông trôi biển”. Hai chàng trai làm việc miệt mài từ tháng hai đến tháng 3­1975 tại căn phòng ký túc  xá của Gates để viết các mã lệnh. Sau đó, Allen bay ngay tới Albuquerque bang  New Mexico (nơi đặt trụ sở của Công ty MITS) để biểu diễn chương trình thô này  cho Roberts xem. Chương trình đã làm việc tốt. Khi Allen trở về Harvard trong chiến thắng, hai người  bạn đã ăn mừng bằng cách ra ngoài ăn kem và xôđa. Chàng trai Gates, lúc đó 19  tuổi, đặt mua một phim của nữ diễn viên nhí Shirley Temple. Gates và Allen đã bán ngôn ngữ BASIC cho MITS với giá 3.000 USD cộng thêm tiền  bản quyền. Allen kể lại rằng khi quay lại New Mexico để phát triển tiếp chương trình ­ biến nó 
  15. thành chuẩn công nghiệp trong sáu năm sau đó, anh thậm chí đã phải vay tiền của  Roberts để thuê khách sạn ven đường bởi toàn bộ tiền anh có đã phải chi cho vé  máy bay. Điều này đã gây ấn tượng mạnh với Roberts và ít lâu sau chàng trai Allen  được trả mức lương tương đương với giám đốc phần mềm của MITS. Tháng 6­1975, Gates xin phép tạm nghỉ học ở Harvard để đến làm việc cùng Allen.  Mặc dù Gates trở lại trường vào mùa thu sau đó, nhưng trái tim và khối óc của anh  đã để lại Albuquerque. Anh xin một giấy phép nghỉ học thứ hai và không bao giờ  quay trở lại trường nữa. “Cha mẹ tôi vô cùng bất ngờ khi thấy con trai mình bất chợt báo tin sẽ rời bỏ ngôi  trường danh tiếng để theo đuổi một ngành kinh doanh mà phần lớn mọi người chưa  từng nghe thấy bao giờ có tên là “máy vi tính”. Nhưng cha mẹ tôi là những người  luôn hiểu và hỗ trợ tôi”. Microsoft và ông chủ trẻ Dù rằng việc học ở Harvard trải qua không được suôn sẻ, nhưng Gates cho biết:   “Tôi rất lo ngại khi nghe mọi người nói rằng một số bạn trẻ không muốn học đại học   chỉ bởi vì họ thấy tôi cũng không tốt nghiệp đại học... Có điều như vầy, mặc dù tôi không theo học đến nơi đến chốn ở đó nhưng việc học   của tôi cũng tương đối khá. Ngoài ra, thế giới ngày càng trở nên cạnh tranh gay gắt   hơn, mỗi năm một chuyên môn hóa và phức tạp hơn, vì vậy tốt nghiệp đại học của   ngày hôm nay chỉ tương đương tốt nghiệp trung học tại thời điểm trước”. Gates nói thêm: “Tôi yêu những năm học của tôi tại trường đại học. Và về nhiều   phương diện, tôi tiếc là đã bỏ dở việc học hành. Sở dĩ tôi làm vậy chỉ vì trong đầu tôi   nung nấu một ý tưởng ­ lập ra một công ty phần mềm vi tính đầu tiên ­ và điều đó   thì không đợi được”. Trước khi rời khỏi Albuquerque, Gates và Allen bắt đầu suy nghĩ đến việc đặt tên  cho công ty của họ, đã có một vài tên được đem ra cân nhắc như Outcorporated  Inc., Unlimited Ltd., Allen & Gates. Tên Micro­soft có vẻ là chọn lựa có thể hiểu  được. Khi cả hai đã vững vàng ở New Mexico, Gates và Allen tuyển mộ các thành viên cũ 
  16. của nhóm lập trình Lakeside (và một số bạn bè khác), tên Micro­soft xuất hiện trong  tiến trình đó. Khoảng thời gian họ chuyển địa điểm đến Seattle, dấu nối đã bị bỏ đi  để trở thành Microsoft. Mặc dù tỉ lệ hợp tác giữa Gates­Allen được thỏa thuận ban đầu là 50/50, sau đó  Gates đã đề nghị tỉ lệ chia phần mới là 60/40 nghiêng về phía anh. Gates cho rằng  như vậy là công bằng vì ngoài công việc từ các hợp đồng phụ, Allen còn được  hưởng tiền lương từ MITS. Như một nhân viên của Microsoft, Gates làm việc chỉ  trông vào tiền bản quyền. Trong những năm mới thành lập, cách quản lý của Microsoft không được chặt chẽ.  Cả Gates và Allen cùng làm tất cả mọi việc, mỗi việc một ít. Tuy nhiên, nhìn chung  thì Allen tập trung vào công nghệ mới và sản phẩm, trong khi Gates thường dành sự  quan tâm cho công việc làm ăn mới, các cuộc đàm phán và các hợp đồng kinh tế. Trong vòng 18 tháng, họ đã kiếm được cho công ty mới của mình hàng trăm nghìn  USD qua việc viết chương trình cho Công ty Apple Computer Inc. và Commodore. Một trong những điều làm Gates bực mình khi trở thành một ông chủ trẻ là anh  không thể thuê ôtô vì chưa đủ 21 tuổi. Khi có việc phải đến liên hệ với Applied  Digital Data Systems, công ty sản xuất các thiết bị đầu cuối ở Hauppauge, New  York, Gates đã phải nhờ khách hàng cho người đưa xe đến sân bay để đón anh. Allen, Gates và những người bạn trong nhóm lập trình cũ được thành lập lại vẫn tiếp  tục sống và làm việc khác với lề thói bình thường, khác với những mô hình công ty  khác. Đầu tiên, họ sống tại khách sạn ven đường Tumbleweed Motel bụi bặm, rồi để  giảm chi phí, họ đã thuê một căn hộ ở chung với nhau. Phần lớn thời gian họ dành cho việc lập trình, ăn bánh pizza, đi xem phim hoặc  phóng xe vun vút trên sa mạc vào lúc nửa đêm trên chiếc xe Porsche của Gates.  “Vâng, cuộc sống của chúng tôi là làm việc và có thể là đi xem phim, rồi lại về tiếp  tục làm việc. Đôi khi khách hàng cũng đến tận nơi làm việc, và có lúc do quá mệt  mỏi chúng tôi thường ngủ ngay trước mặt họ”. Khoảng một tuần sau khi Miriam Lubow được thuê vào làm quản lý văn phòng, cô  thấy một cậu bé tự động đi vào phòng của Gates mà Gates lúc ấy đang đi công tác 
  17. xa. Đã được dặn trước rằng không ai có quyền bước vào căn phòng đó nếu không  được phép, cô vội vàng chạy đi báo cho đồng nghiệp là Steve Wood biết. Và cô ta  đã thật sự kinh ngạc khi biết rằng cậu bé đó chính là ông chủ của mình. Có lẽ để cảnh báo một cách tế nhị cho các khách hàng về ông chủ trẻ của mình,  Công ty Microsoft khi đăng quảng cáo trên các tạp chí điện tử thường dùng hình vẽ  một nhân vật trẻ, Micro Kid, tuy nhỏ bé nhưng rất quyền năng. Đến năm 1980, khi Microsoft lần đầu tiên được IBM ­ ông vua của ngành công  nghiệp máy tính ­ đến tiếp xúc thì Gates mới 25 tuổi và nhân viên của Microsoft chỉ  có 32 người. Gates trông còn quá trẻ để có thể được ưng thuận, “Nhưng đây là một chàng trai  khôn ngoan hơn tuổi đời của anh ta ­ một thiên tài trong lĩnh vực lập trình, một tài  năng bẩm sinh trong kinh doanh, điều đó được thể hiện khi anh điều khiển được mối  quan hệ của Microsoft với IBM sao cho có lợi nhất cho công ty” ­ một ủy viên ban  quản trị IBM nói. Khi IBM gọi điện tới để hẹn gặp Gates, họ yêu cầu cuộc hẹn phải xảy ra ngay ngày  hôm sau. Gates đã nhanh chóng dời lại cuộc hẹn với Fred Kassar, chủ tịch Công ty  trò chơi điện tử Atari. Quyết định này, cộng với vài quyết định khác sau đó, đã biến  Gates thành tỉ phú khi mới 31 tuổi.  Nguyễn Thành Tân Xem hồ sơ Gởi tin nhắn tới Nguyễn Thành Tân Tìm bài gửi bởi Nguyễn Thành Tân   #5    24­06­2007, 03:09 AM 
  18. Gia nhập: Aug 2006 Đến từ: TQOL Tuổi: 28 Nguyễn Thành Tân    Bài gửi: 1,641  Quản trị viên Đã cảm ơn: 0 Được cảm ơn 1 lần trong 1 bài viết  Phần 5: Lợi nhuận của thông thái và tinh khôn  Mùa xuân 1986, Microsoft lần đầu tiên xuất hiện trên bảng niêm yết tại Wall Street.   Công ty của Lary Ellison ­ Oracle ­ xuất hiện trước Microsoft một ngày. Một tuần   sau, công ty của Scott McNealy ­ Sun Microsystems ­ ăn mừng sự kiện tương tự.   Lúc đó ba công ty chưa hề có ý “chém giết” nhau. Do tham vọng thống trị thế giới phần mềm máy tính cá nhân, Bill Gates bị các đối   thủ cạnh tranh mô tả như một lãnh tụ phát xít. Còn Alan Brew, một cố vấn về   thương hiệu ở San Francisco, thì nhận xét: "Bill Gates là Microsoft. Đặc trưng của   cả công ty được mô phỏng theo đúng như hình mẫu người lãnh đạo nó: hiếu chiến,   non trẻ và kiêu ngạo" Bước vào Wall Street Sun là công ty sản xuất phần cứng. Bước đột phá của Sun là mạng máy tính với  máy chủ trị giá 5.000 USD được nối với nhiều máy khác. Sun được bốn người thành lập: một thiên tài đến từ Đức ­ Andy Bechtolsheim; một  người nữa có khuôn mặt khó coi từng danh trấn giang hồ làng viết phần mềm đến từ  Berkeley ­ Bill Joy; và hai người tốt nghiệp MBA đến từ Stanford là Scott McNealy và  Vinod Khosla. Nhân viên Sun ăn mừng ngày đầu tiên công ty xuất hiện trên Wall Street trong  không khí thân thiết tình anh em. McNealy thuê hẳn hai cái lều và đặt vài vại bia. Mỗi thành viên chính thức của công ty, gồm cả nhân viên văn phòng và công nhân  lắp ráp, đều sở hữu ít nhất là một phần của công ty. Do vậy không có lấy một lời càu  nhàu sau lưng nào và tất cả đều ăn mừng vận đỏ.
  19. Màn ăn mừng tại Oracle có vẻ bình thường với không khí trầm lắng. Họ uống  champagne đắt tiền bằng chiếc cốc nhựa. Vài người khác hứng chí hơn bắt đầu khui  Dom Pérignon. Thành phần được tuyển vào làm việc sau này tại Oracle, đặc biệt giới nhân viên cấp  thấp, lại tỏ ra phớt tỉnh. Đương nhiên rồi, họ đâu có gì để vui mừng khi không hề  nắm giữ cổ phần nào trong Oracle. Thậm chí một số người còn cảm thấy buổi tiệc bị  phá hỏng bởi các quả nho chua loét. Phần Microsoft, Bill Gates tổ chức lễ mừng thân mật tại công ty. Với việc có mặt tại  Wall Street, Ballmer đã thu lợi 48 triệu USD, ít ra là trên giấy tờ. Paul Allen, rời công  ty năm 1982 khi ông phát hiện mắc bệnh ung thư gan, thu lợi 172 triệu USD. Cổ  phần mà Gates tặng cha mẹ ông bấy giờ trị giá hơn 3 triệu USD. Riêng Gates, nắm  giữ 45% cổ phần, thu lợi 350 triệu USD. Bill Gates đã chuẩn bị chiến dịch đánh bóng công ty nhân sự kiện hiện diện ở Wall  Street bằng cách mời phóng viên Fortune tìm hiểu về công ty. Ba tuần sau ngày ra  mắt của Microsoft ở Wall Street, Gates đã xuất hiện trên bìa Fortune. Nên nhớ bốn  nhà sáng lập Sun rất giàu sau khi công ty ra đời nhưng không giàu bằng lúc họ có  mặt tại Wall Street. Điều hành công ty sản xuất phần cứng, bốn nhà sáng lập Sun  đã cùng nắm 20% lợi nhuận. Tuy nhiên, sự ra mắt của Sun tại Wall Street chỉ được  đăng trên trang 104 tờ Business Week và không có ảnh. Con cưng của báo chí Cổ phiếu Microsoft đã tăng gấp ba trong một năm. Và khi giá cổ phiếu đạt 91 USD  vào tháng 3­1987, Gates chính thức thu lợi hơn 1 triệu USD. Đó là một vòng mới  trong vòng quay lợi nhuận của Gates, nhanh hơn nhiều so với các tiền bối như  Henry Ford, John D. Rockefeller và Andrew Carnegie. Tất cả đều tạo dựng cơ đồ  kếch sù ở độ tuổi còn rất trẻ. Tuy nhiên, Gates ­ ở tuổi 30 ­ là người trẻ nhất tích lũy  được nhiều đến như vậy. Time, tuần báo từng khăng khăng Gates là tên hacker rẻ tiền hơn là nhà doanh  nghiệp chững chạc, bây giờ tuyên bố ông ta là Thomas Edison của thời đại mới.  Fortune, tờ tạp chí mà giới biên tập đều sáng mắt khi thấy tiền giống như các vị biên  tập của tờ Playboy trố mắt trước những bộ ngực hở hang vĩ đại, đã nhấn mạnh thêm 
  20. chi tiết rằng con người tham công tiếc việc này ­ đại thiếu gia Bill Gates ­ là “người  đàn ông lý tưởng nhất của phụ nữ”. Tuy nhiên, tích lũy được một gia tài như Gates chỉ trong thời gian ngắn thì cần một  lời giải thích. Lời giải thích được đưa ra nhiều nhất là người đàn ông trẻ này có bản  chất kiên cường và tham vọng mà theo Fortune là “(bản chất đó đủ để) có thể khiến  một tên trộm trở thành một nhà tư bản”. Một giọng nói the thé của một người mới 20 tuổi ­ từng đưa ra khẩu hiệu “một chiếc  vi tính trên bất kỳ bàn làm việc nào hay trong bất kỳ ngôi nhà nào đều sẽ chạy phần  mềm Microsoft” ­ đúng là khẩu khí của một kẻ tinh khôn và thông thái. Từ đó về sau ông ta liên tục chiếm ngôi vị con cưng của báo chí và nếu tiểu sử ông  ta ngày càng được thêm thắt thì các câu chuyện về tham vọng quá mức của ông ta  cũng bắt đầu len lỏi vào bản tiểu sử xán lạn ấy. Bởi thế, tình trạng thù địch đối với  Microsoft dần lan rộng đến mức tại buổi nấu ăn từ thiện năm 1987 ở COMDEX, món  đậu của đội Microsoft đã bị mọi người la ó kêu dở không ngớt! Trích dẫn: Trong băng video gửi đến các nhân viên năm 1990 có tựa là Shipping software  (Cung ứng phần mềm), Chris Peters huấn luyện các nhân viên Microsoft cách làm  việc hiệu quả nhất tại công ty. Nguyên tắc chủ đạo là gì? Liên tục báo cáo với Bill: “… Các bạn không bao giờ nên giấu giếm Bill điều gì, bởi vì ông ấy rất nhạy bén  trong việc nhận biết mọi việc đang diễn ra. Nhưng các bạn phải kiên định, và các  bạn nên có thái độ phản ứng gay gắt với ông ấy. Lời khuyên duy nhất của tôi là  các bạn phải được những lập trình viên rất, rất, rất giỏi của các bạn tháp tùng khi  đi họp để những người này có thể trích dẫn những điều lý giải hùng hồn nhất và  thậm chí họ có thể chôn vùi ông ấy trong hàng đống dữ kiện… Đừng bao giờ thiếu  những câu trả lời. Nhưng hãy mạnh dạn nói không. Bill tôn trọng cách nói đó”.  Trích dẫn:
nguon tai.lieu . vn