Xem mẫu

  1. Biểu tượng trong văn hoá - 1 Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc qua thế giới biểu tượng Bàn về bản sắc Văn hoá dân tộc quả là một việc làm hết sức khó khăn. Biết bao nhiêu công trình và bút mực nhằm tập trung vào câu hỏi “bản sắc dân tộc là gì?”, nhưng cuộc hành trình truy tìm này vẫn còn tiếp tục. Không thể nói việc làm này là viển vông và không có thật. Bản sắc văn hoá dân tộc bao hàm những mặt được hình thành và gắn bó với dân tộc từ thưở xa xưa, các mặt này được duy trì theo quá trình của lịch sử. Đó là các kiểu quan hệ hay một kiểu lựa chọn riêng của một cộng đồng về một phương thức ứng xử nào đó, khiến cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo nhằm phân biệt với các dân tộc khác. Có thật nhiều cách trả lời khác nhau về bản sắc dân tộc, và mọi người cũng mặc nhiên công nhận rằng bản sắc dân tộc là cái có thật, nên rất nhiều công trình gắng công tìm hiểu. Nhưng truy tìm theo hướng nào và bằng cách nào là điều cần bàn đến. Bởi một lẽ ngay trong bản thân khái niệm văn hoá cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi do đứng ở nhiều góc độ khoa học khác nhau để nghiên cứu. Song ở đây chúng ta không sa đà vào việc truy tìm một cách kiệt cùng về định nghĩa của văn hoá, vì càng đi sâu tìm hiểu khái niệm này thì càng thêm phức tạp. Tựu chung, xét về mặt biểu hiện, văn hoá là một hiện tượng xã hội mà không phải là hiện tượng tự nhiên, và nó thuộc về giá trị tinh thần. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ
  2. giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc. Hệ giá trị xã hội nào cũng đều nhằm vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, nó được biểu hiện trở thành các biểu tượng văn hoá - các khuôn mẫu và chuẩn mực văn hoá. Theo toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International Thesaurus on Cultural Development) của UNESCO: “Văn hoá là một tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt” [1]. Sự hình thành và phát triển văn hoá luôn dựa vào năng lực của con người trong việc nhận thức và sáng tạo ra các loại hình ngôn ngữ kí hiệu - biểu tượng ( Symbol). Bởi lẽ, biểu tượng luôn chứa đựng trong nó những giá trị, mà đằng sau các giá trị thường ẩn dấu một nhu cầu nào đó của con người. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu cầu cao nhất - nhu cầu giải trí và sáng tạo ra các tác phẩm văn hoá. Sự đa dạng của văn hoá biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu tượng. Khi nhấn mạnh đặc trưng cơ bản của văn hoá là mang tính biểu tượng (Symbolic) thì đó cũng là lý do khiến phải xem xét kĩ hơn về loại hình ngôn ngữ - kí hiệu tượng trưng này. Biểu tượng là gì? Để tạm hiểu, ta có thể gọi nó là cái được dùng để biểu thị một cái gì đó. Nó là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận một giá trị trừu suất tức là thế giới của ý nghĩa, cũng là thế giới của văn hoá. Từ điển Petit Larousse cho rằng: “Biểu tượng là dấu hiệu hình ảnh, con vật
  3. sống động hay đồ vật biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. C.G.Jung - nhà phân tâm học người Thuỵ Sỹ cũng quan niệm về biểu tượng như sau: “Biểu tượng là một danh từ, một tên gọi hay một đồ vật, ngay cả khi là quen thuộc ở trong đời sống hàng ngày, nhưng vẫn chứa đựng những mối liên hệ về mặt ý nghĩa, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của chúng”. [3] Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống cũng giải thích: “Tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia” [4] , tức là dùng cái tri giác để nói lên cái khó có thể tri giác, hay dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái hữu hình để nói cái vô hình v.v… Biểu tượng là loại hình “kí hiệu” rất cổ xưa ra đời từ buổi bình minh của lịch sử hình thành nhân loại. Biểu tượng được coi như là công cụ của tư duy trong tiến trình nhận thức của con người. Nó là con đẻ của sự liên tưởng và tưởng tượng, giúp cho con người khám phá ra thế giới đầy ý nghĩa. Nhiều nhà nhân học văn hoá còn cho rằng “đơn vị cơ bản” của văn hoá chính là biểu tượng - vật hàm chứa thông tin, và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của loài người. Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa. Quá trình sáng tạo ra hệ thống các biểu tượng cũng là quá trình “khách thể hoá” những “năng lực bản chất người” để tạo nên thế giới văn hoá. Có thể xem văn hoá là toàn bộ thế giới
  4. thông tin, không kể di truyền sinh vật, là biện pháp nhằm tổ chức, bảo vệ và truyền bá thông tin. Như vậy, biểu tượng chính là hình thức ngoại hiện của văn hoá, còn hệ thống ý nghĩa nằm bên trong mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Văn hoá được coi như là một “văn bản” các hệ thống biểu tượng. Biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tác động chủ yếu đến thính giác và thị giác gây cho con người những rung động, những cảm xúc về chúng theo nhiều mức độ khác nhau. Biểu tượng có mặt hầu hết trong các mặt biểu hiện của đời sống từ lĩnh vực tôn giáo, nghệ thuật, chính trị, văn hoá - xã hội… cho đến cả trong giấc mơ của con người. Thực chất cuộc sống ngoài những nhận thức bằng tư duy lý tính mang tính khoa học thông qua những hệ thống khái niệm và phạm trù v.v… thì còn biết bao điều không thể hiểu biết trực tiếp được, nên người ta đã dùng một “vật môi giới” làm trung gian nhằm để hiểu được những điều khó có thể tri giác, ta gọi đó là biểu tượng như: “Rồng” biểu tượng cho quyền uy tối cao; “Rùa” biểu tượng cho sự trường tồn, phúc thọ; “Bồ câu” biểu tượng cho hoà bình; “Hoa sen” biểu tượng cho sự thanh cao; “Cái bắt tay” biểu tượng cho sự thân thiện v.v… Biểu tượng là phương thức nhận thức của con người, nó biểu thị toàn bộ tâm cách cũng như tính cách của một dân tộc, tính phong phú của biểu tượng cũng là sự tương ứng với tính đa dạng của cuộc sống, mà con người cần truy tìm và nắm bắt lấy nó, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của con ngưới trong đời sống xã hội. Thế giới biểu tượng là một vùng mù đầy ý nghĩa mà con người là một động vật có năng lực biểu trưng và biết sử dụng các biểu tượng (Homo - Symbolius). Biểu tượng sống tiềm ẩn từ cõi vô thức, mà sự sáng tạo ra các biểu tượng lại
  5. ở thế giới hữu thức, tức nó ra đời trong lòng đời sống của con người. Do đó biểu tượng có những chức năng mà qua đó con người có thể khám phá cũng như nhận thức sâu sắc cuộc sống của mình, từ đó tạo ra những biến đổi rất lớn trong sự phát triển toàn diện về nhân cách của mỗi con người, nói khác biểu tượng có chức năng chung nhất là điều chỉnh và định hướng trở lại đời sống xã hội. Nó có vai trò làm động lực thúc đẩy cho xã hội phát triển. Đó cũng là tính văn hoá của biểu tượng. Về chức năng của biểu tượng như đã biết, chức năng đầu tiên của nó là chức năng khám phá ra những giá trị, tức tri giác những điều khó có thể tri giác bằng khái niệm. Đó là sự truy tìm của trí tuệ vào cõi vô minh, nhằm tìm cách biểu hiện ra những ý nghĩa nào đó mà lý trí khó nắm bắt được. Biểu tượng mở rộng trường ý thức trong mọi lĩnh vực, điều mà không thể xảy ra được nếu như đòi hỏi ở biểu tượng một sự chính xác, cụ thể, theo kiểu tư duy logic - khoa học. Vì khoa học là sự biểu hiện bằng các kí hiệu mang tính chính xác như dấu hiệu của toán học. Còn biểu tượng không mang tính cụ thể, chính xác mà nó là cái trừu tượng, đa nghĩa như các biểu tượng Âm - Dương trong Kinh Dịch: Vạch liền (-) là tượng Dương, còn hiểu là cha, mặt trời, lửa, ngày, hoà bình v.v…; Vạch đứt (--) là tượng Âm còn hiểu là mẹ, mặt trăng, nước, đêm, chiến tranh v.v… Ngoài ra, biểu tượng còn có chức năng thay thế, nhằm trả lời những câu hỏi hay thoả mãn một ước vọng nào đó của con người, và chức năng siêu nghiệm để tiếp cận các yếu tố thuộc lĩnh vực tâm linh. Chức năng giao tiếp nhằm giúp cho con người liên kết lại với nhau. Song quan trọng hơn cả là chức năng liên kết xã hội và chức năng giáo dục của biểu tượng.
nguon tai.lieu . vn