Xem mẫu
- BIỂU TƯỢNG “CON CÒ” TRONG CA DAO
Đã từ lâu, hình ảnh con cò đã đi vào ca dao với tất cả vẻ đẹp của nó.
Người lao động bình dân đã gửi gắm niềm vui, nỗi buồn, sự cực nhọc,
vất vả, trong những cánh cò ca dao. Dường như thiếu những cánh cò ấy,
ca dao sẽ nghèo đi biết mấy. Nhiếu bài ca dao mở đầu bằng hai tiếng con
cò: “Con cò bay lả bay la” “Con cò bay bổng bay cao”, “Con cò lặn lội”,
“Con cò trắng bạch như vôi”, “Con cò vàng”, “Con cò kì”, “Con cò
quắm” v.v…Những con cò, cánh cò như in bóng trong suốt chiều dài
của ca dao,
Phải chăng, con cò là hình ảnh rất gần gũi với người nông dân hơn tất
cả. Những lúc cày cấy ngoài đồng, người nông dân thường thấy con cò ở
bên họ, con cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa xanh xanh,
con cò đi quanh quanh trên dòng sông con rạch …
Và chẳng biết tự lúc nào, con cò đã len lỏi vào cảm xúc, tâm trí của
người nông dân. Có lẽ chúng ta đều quen thuộc với câu ca dao:
“Một đàn cò trắng bay tung
Bên nam, bên nữ ta cùng hát lên!”
hay câu:
- “Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phựong, cho mình nhớ ta.”
Trai gái cùng nhau vất vả làm lụng nơi cánh đồng thửa ruộng, họ thân
quen rồi đi đến thưong yêu, khi gần thì ấm áp, khi xa thì nhung nhớ.
Cánh cò đã nâng cao và chuyên chở trái tim yêu thương của họ. Nhưng
họ yêu nhau ước mơ rất nhiều mà nào dễ lấy được nhau, ngày nào còn
xa nhau thì mọi tâm tình họ còn hướng về nhau quấn quít như những:
“Cái cò, cái vạc, cái nông
Cùng ăn một đồng, nói chuỵên giằng co
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.”
Người nông dân còn mượn hình ảnh con cò để miêu tả cảnh ngồi không
biếng nhác của địa chủ:
“
Cái cò lặn lội bờ ao…
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi không
Chú tôi hay tửu hay tăm
- Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.”
Chàng trai làng thấy cô nông thôn xinh đẹp “yếm đỏ” vừa đi qua, anh đã
cất tiếng trêu đùa dí dỏm. Anh đã đưa ra hình ảnh một tên rượu chè be
bét, lười lao động, thích hưởng lạc – một tên chắc chắn anh rất oán ghét
– ướm hỏi chị và tất nhiên anh biết rằng chị cũng chẳng ưa gì tên địa chủ
ấy. Anh nông dân ẩn thân kín đáo trong “cái cò lặn lội bờ ao”, tuy vất vả
lam lũ nhưng lại hay lam hay làm…Bọn địa chủ luôn hiện lên trong ca
dao với bản chất tham lam tàn ác:
“Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba cái cùng béo, vặt lông con nào!
Vặt lông cái vạc, cho tao!
Hành, răm, nước mắm bỏ vào mà thuôn.”
Cái cò, cái vạc, cái nông tiêu biểu cho người nông dân ở vùng nông
thôn. Dưới con mắt của giai cấp phong kiến thì đều “béo” cả. Lần lượt
sẽ sa vào tay chúng hành hạ. Một khi chúng muốn ức hiếp thì không cần
một lí do chính đáng nào cả. Chúng chỉ cần một vài lời vu cáo vẩn vơ là
đủ:
- “Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không, không, tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin thì ông đi đòi
Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia.”
Nhân dân thường lấy “cái cò” để nói về mình trong ca dao có thể đó là
một số phận đáng thương:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.”
Mở đầu bài ca dao ta đã bắt gặp ngay một hình ảnh bất thường: con cò đi
ăn đêm. Nó thường đi ăn ban ngày nhưng dường như ban chưa đủ nên
mới “tăng ca” như thế. Và vì đi đêm, nó không quen, nên mới gặp tai
nạn “Đậu phải cành mềm” và “lộn cổ xuống ao” như một tất yếu. Lời
van xin khẩn thiết của nó vang lên một cách đau lòng, xin “ông vớt tôi”
- lên. Bản năng sinh tồn hay chính lòng ham sống, sống để nuôi con đã
giúp cò cất tiếng van xin cứu vớt. Có lẽ cả hai.
Đứng trước cái chết, cò mong được sống cũng là lẽ thường tình. Nhưng
tại sao con cò lại thề thốt “Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”. Thì ra,
con cò đang phân trần rằng nó không hề có “lòng nào” là không hề có ý
gian tham dối trá. Lần thứ 2 cò lên tiếng mong được chết trong sạch “Có
xáo thì xáo nước trong”, bởi cò lại sợ “xáo nước đục” sẽ “đau lòng cò
con”. Trong giây phút “thập tử nhất sinh”, con cò dự cảm mình khi lọt
vào tay “ông” thì khó mà được sống. Chỉ còn một điều tha thiết là được
chết trong danh dự để “cò con” không đau đớn lòng. Đó là một sự lựa
chọn đầy đau đớn, bi kịch nhưng rất đẹp, rất nhân văn.
“Cò con” cuối bài ca dao có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là
con của con cò, nghĩa thứ hai là chính bản thân con cò nạn nhân đó, nó
tự xưng là “cò- con”. Nhiều người cho rằng hiểu theo nghĩa thứ nhất thì
hợp lý hơn bởi nếu chết trong “nước đục”, cò con sẽ đau đớn, hổ thẹn vì
mẹ nó! Tuy vậy, dù hiểu theo nghĩa nào thì chúng ta vẫn cảm nhận được
cảnh ngộ và phẩm chất đáng quí của cò. Số phận nghèo nàn cơ cực
nhưng lòng dạ trung thực sáng ngời của người lao động bình dân theo
triết lí sống đẹp “Chết vinh còn hơn sống nhục”
Trong ca dao, hình ảnh con cò còn mang biểu tượng người phụ nữ :
- “Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.”
Nhân dân lao động thật có sự liên tưởng quá bất ngờ. Con cò được nhân
hóa làm nổi bật lên vẻ tần tảo hy sinh của người phụ nữ trước đây. Từ
“lặn lội” gợi lên sự “thầm lặng chịu khó chịu thương nuôi chồng”, việc
buôn bán nắng mưa dãi dầu, lời ra tiếng vào, cò kè nơi mua bán chị phụ
nữ nào hé răng than vãn, chỉ chọn nơi vắng vẻ người qua lại khóc lóc
một hồi cho vơi bớt đắng cay chịu đựng. Hình ảnh này đã từng được Tú
Xương vận dụng trong bài thơ “Thương vợ” rất thành công:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Mượn một biểu tượng của ca dao để bày tỏ lòng biết ơn trước nỗi vất vả
cơ cực của bà Tú, Tú Xương chỉ thay một chữ “con” thành “thân” mà
làm sáng cả bài thơ. Biết bao nỗi niềm của Tú Xương được gửi gắm
trong hai chữ “ thân cò” ấy!
Kết luận: Một cánh cò thôi mà bay khắp mọi miền đất nước, xuyên thấu
mọi thời gian, cánh cò “bay lả bay la”, “bay bổng bay cao” từ chiều sâu
quá khứ đến chiều dài hôm nay - ngày mai, cánh cò bay vào lời ru của
mẹ, lời dạy của cô, lời tâm sự bạn bè:
- “Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nơi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi…”
(“Con cò” – Chế Lan Viên)
nguon tai.lieu . vn