Xem mẫu
HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP
i. ĐẠI CƯƠNG
1. Định nghĩa:
Hội chứng mạch vành cấp (acute coronary syndrome) là một phổ rộng của
các bệnh cảnh lâm sàng bao gồm: cơn đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ
tim cấp (NMCT) có đoạn ST chênh lên và NMCT không có đoạn ST chênh lên.
Ba bệnh cảnh này có chung sinh bệnh học đặc trưng bởi thiếu máu cơ tim cấp do
nứt vỡ mảng vữa xơ tạo ra các huyết khối có thể thay đổi từ bám dính cho tới bít
tắc hoàn toàn mạch máu.
Hội chứng mạch vành cấp là một danh pháp trong bệnh lý động mạch vành
(ĐMV) mới xuất hiện khoảng 5 năm gần đây trên cơ sở hiểu biết sâu hơn về sinh
bệnh học, đặc biệt vai trò của viêm không đặc hiệu; huyết khối và huyết tắc ở đoạn
xa.
Trong lâm sàng người ta chia ra 2 nhóm:
- Đau thắt ngực không ổn định và NMCT không có ST chênh lên (không
Q). Vì chúng có cơ chế bệnh sinh, triệu chứng lâm sàng và tiên lượng
giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ hoại tử cơ tim có đủ nhiều để phát hiện
được bằng xét nghiệm định lượng men tim hay không.
- NMCT có ST chênh lên.
2. Dịch tễ học:
Cho đến nay bệnh tim động mạch vành (ĐMV) là nguyên nhân thường gặp
nhất của tử vong và tàn phế tại các nước công nghiệp phát triển. Theo một thống
kê, hàng năm ở Mỹ có khoảng 1,3 triệu người mắc đau thắt ngực không ổn định
(ĐNKÔĐ) hoặc NMCT không có ST chênh lên và khoảng 350.000 người bị
NMCT cấp có ST chênh lên được đưa đến bệnh viện điều trị. Cũng theo thống kê
trên có khoảng 1 triệu người mắc bệnh NMCT cấp hàng năm và tỷ lệ tử vong do
NMCT cấp trong thập niên vừa qua là khoảng 30%. Theo một tài liệu của Tổ chức
y tế thế giới công bố gần đây, tỷ lệ mắc bệnh NMCT ở nam giới từ 1,8 - 6,3% và ở
nữ giới từ 0,4 - 1,7%. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh ĐMV ngày càng tăng. Theo
thống kê của Viện TMQG tỷ lệ thu dung bệnh này năm 1992 là 2,74%, năm 1995
là 5%, năm 1996 là 6,05% và đến nay có thể còn cao hơn nữa.
3. Sinh bệnh học:
Những hiểu biết ngày càng nhiều về quá trình vữa xơ mạch máu trong vài
thập kỷ gần đây là cơ sở sinh bệnh học về hội chứng mạch vành cấp. Hai giả
thuyết chính có liên quan đến bệnh sinh là thuyết "thâm nhiễm" và thuyết "lipid"
đã mở ra những khái niệm mới kết hợp nhiều yếu tố góp phần khởi phát và phát
triển bệnh này. Đến nay rối loạn chức năng nội mạc và viêm không đặc hiệu đã
được công nhận có vai trò chủ chốt trong quá trình khởi phát và tiến triển bệnh
vữa xơ mạch máu và được coi như là các yếu tố hoạt hoá của bệnh. Với quá trình
hình thành mảng vữa xơ cơ bản nói chung, hội chứng mạch vành cấp còn có một
số yếu tố khác tham gia vào cơ chế bệnh sinh tạo ra bộ mặt lâm sàng đặc biệt của
nó.
a. Sự hình thành vữa xơ động mạch và mảng vữa xơ dễ bị tổn thương.
- Nứt mảng vữa xơ đột ngột dẫn tới hình thành huyết khối bít tắc hoàn
toàn hoặc gần hoàn toàn gây thiếu máu cơ tim hoặc hoại tử cơ tim. Người ta thấy
rằng hầu hết các trường hợp hội chứng mạch vành cấp đều phát sinh bởi những tổn
thương không gây hạn chế dòng chảy với mức độ hẹp ĐMV < 70%. Trên hình ảnh
chụp ĐMV, người ta thấy nguy cơ của TMCT phần lớn phụ thuộc vào sự hiện
diện của “mảng vữa xơ dễ bị tổn thương”
- Đặc điểm giải phẫu của mảng vữa xơ dễ bị tổn thương: lõi lipid lớn
hơn, vỏ xơ mỏng hơn và tập trung nhiều tế bào viêm. Những tổn thương này
không phối hợp với mức độ hẹp nặng trên chụp ĐMV do phát triển ra bên ngoài
của lớp ngoại mạc (tái cấu trúc phát triển) để điều chỉnh theo khối lượng ngày
càng tăng của mảng vữa xơ. Mô hình áp dụng định luật Laplace đưa ra rằng tái cấu
trúc phát triển kết hợp với những mảng vữa xơ hoạt động có quan hệ với sức căng
trượt lớn hơn làm nứt mảng vữa xơ.
- Những yếu tố chức năng đóng góp vào sự không ổn định mảng vữa xơ:
tăng các yếu tố prothrombin (fibrinogen, F1.2, yếu tố von Willebrand, yếu tố VII
và chất ức chế hoạt hoá plasminogen týp 1). Giảm các yếu tố phân huỷ fibrin (chất
hoạt hoá plasminogen tổ chức và plasminogen kiểu urokinaza). Những rối loạn
này lý giải cho khuynh hướng tạo huyết khối.
b. Những hiểu biết sâu hơn trong mảng vữa xơ cơ bản
- Viêm: trong mảng vữa xơ hoạt động các đại thực bào tăng lên, đặc biệt
là ở vỏ xơ. Những tế bào này là nguồn quan trọng của các cytokin viêm và là các
yếu tố điều hoà chìa khoá của nhiều quá trình dẫn tới xung đột trên bề mặt thành
mạch-máu: điều hoà trên các men thoái giáng đẩy mạnh sự mất collagen trong vỏ
xơ; kích thích quá trình chết theo chương trình của tế bào cơ trơn và nội mạc, góp
phần vào cả bong tróc tế bào nội mạc và dễ tổn thương mảng vữa xơ; biểu hiện
của các yếu tố hoá học và phân tử hoá học kết dính đẩy mạnh sự xâm nhập phân tử
kết dính tế bào viêm và phát triển môi trường prothrobin trong máu. Tuy nhiên các
yếu tố điều chỉnh tăng lên hay giảm quá trình viêm ĐMV cần phải làm sáng tỏ hơn
nữa.
CRP (C-reactive protein): có liên quan giữa tổn thương hình thái học trên
chụp ĐMV và tăng CRP, chứng cớ của quá trình viêm tự nhiên của mảng vữa xơ
ĐMV không ổn định.
Có sự hoạt hoá bạch cầu đa nhân trong động mạch đối bên với động mạch
thủ phạm ở những bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định.
Phản ứng viêm này có thể đánh giá bằng xét nghiệm công thức bạch cầu
và định lượng CRP bằng xét nghiệm có độ nhạy cao trong hội chứng mạch vành
cấp, nhưng lại không xuất hiện trong NMCT tái phát.
- Tắc mạch trái ngược với huyết tắc ở
đoạn xa: có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng
các huyết khối vỡ ra gây tắc các vi mạch dẫn
tới hoạt hoá phân tử kết dính thoát ra ngoài của
tế bào viêm và thậm chí hoại tử cơ tim thành ổ
[14]. Các nghiên cứu giải phẫu thi thể cho thấy
huyết khối tiểu cầu có ở 44,4% bệnh nhân đau
thắt ngực không ổn định trước khi tử vong mà
trên vi thể đều có tổn thương hoại tử nhiều ổ
nhỏ ở thành thất nơi động mạch thủ phạm cấp
Hình 1; So sánh các yếu tố phát
hiện trong hội chứng mạch vành
cấp. FPA: fibrinopeptid A, TAT:
thrombinantithrombin.
máu. Tỷ lệ này còn cao hơn tới 79% ở những
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn