Xem mẫu
- BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU TÁC
ĐỘNG TRONG KHAI THÁC VÀ
CHẾ BIẾN QUẶNG NHÔM
- Nội dung
• Tác động trong khai thác và chế biến
quặng nhôm
- Quy trình khai thác
Đầu tiên là thăm dò các vùng phân bố quặng.
Tiếp đến là giải phóng mặt bằng, lớp thảm thực vật, đền bù, tái
định cư cho người dân.
Sau cùng là tiến hành khai thác quặng.
Quặng sẽ được tuyển rửa để chế biến alumina, có thể được xuất
khẩu hay đưa vào nhà máy luyện nhôm.
- Với quy trình sản xuất này, toàn bộ thảm thực vật, kiến trúc của
vùng quặng sẽ thay đổi, sau khi khai khoáng phải tái tạo lại hoàn
toàn cây trồng, vật nuôi, công trình dân sinh trên mặt đất. Trong khi
đó, để tái tạo lại những mảng rừng bạt ngàn này phải mất đến
hàng chục năm, hàng trăm năm.
Quá trình tuyển quặng và chế biến alumina sẽ cần một lượng
nước lớn và thải ra môi trường nhiều loại chất thải lỏng và rắn.
Trong đó, đáng lưu ý nhất là bùn đỏ, một loại chất thải độc hại và
nguy hiểm có độ pH cao, không tự tiêu hủy được.
- Tác động trong khai thác
a) Bùn đỏ
Bùn đỏ là vấn đề được quan tâm nhất: Bùn đỏ là hỗn
hợp bao gồm các chất như sắt, mangan… và một lượng
xút dư thừa do quá trình dung hòa, tách quặng Alumin.
Với quy hoạch phát triển bauxit ở Tây Nguyên đến năm
2015 mỗi năm sản xuất khoảng 7 triệu tấn Alumin,
tương đương với việc thải ra môi trường 10 triệu tấn
bùn đỏ. Đến năm 2025 là 15 triệu tấn alumin tương
đương với 23 triệu tấn bùn đỏ. Cứ như thế sau 10 năm
sẽ có 230 triệu tấn và sau 50 năm sẽ có 1,15 tỷ tấn bùn
đỏ tồn đọng trên vùng Tây Nguyên.
- Hiện nay, trên thế giới chưa có nước nào xử lý triệt để
được vấn đề bùn đỏ. Cách phổ biến mà người ta vẫn
thường làm là chôn lấp bùn đỏ ở các vùng đất ít người,
ven biển để tránh độc hại.
Vấn đề đặt ra là liệu các giải pháp kỹ thuật (hồ chứa lót
vải địa kỹ thuật) có thể đảm bảo giữ được bùn đỏ
không ngấm xuống đất, không hòa vào nước ngầm gây ô
nhiễm môi trường hay không ?
- Thiếu nước
b)
Tài nguyên nước mặt và nước ngầm ở Tây Nguyên là rất hạn
chế.
Hiện tại, mực nước ngầm ở Tây Nguyên đang giảm xuống một
cách báo động do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, đặc biệt cho
phát triển cây công nghiệp.
Việc tuyển rửa quặng Bauxit và chế biến Alumin đòi hỏi một
lượng nước rất lớn, các nhà khoa học cảnh báo rằng Tây Nguyên
và Nam Trung Bộ sẽ rơi vào tình trạng thiếu nước trầm trọng.
- Thảm thực vật
c)
Giảm tỷ lệ che phủ, suy giảm đa dạng sinh học.
Do đặc điểm quặng Bauxit có tầng mỏng và phân bố dàn trải trên
diện tích bề mặt rộng, nên trong quá trình khai thác Bauxit sẽ phải
chặt hạ, phá bỏ một diện tích lớn rừng tự nhiên, rừng trồng và
thảm thực vật cây công nghiệp: Cao su, Chè, Cà phê, Điều, Tiêu...
Tây Nguyên là vùng có lượng mưa lớn (trên 2000mm/năm), nên
nguy cơ xói mòn, rửa trôi đất đai lớn, khó có khả năng hoàn thổ,
phát triển lại thảm thực vật sau khai thác Bauxit.
- Ô nhiễm bụi, không khí
d)
Quá trình khai thác và vận chuyển quặng Bauxit từ các điểm quặng
đến nhà máy tuyển sẽ gây ra ô nhiễm không khí do bụi và các khí
thải bởi phương tiện giao thông.
Với công suất như ở nhà máy Nhân Cơ là 600.000 tấn /năm, tương
đương với lượng quặng thô cần khai thác là 3 triệu tấn / năm. Ước
tính hằng ngày sẽ có khoảng 400 chuyến xe vận chuyển quặng đến
nhà máy tuyển rửa.
Với đặc thù của đất đỏ Tây Nguyên và mùa khô kéo dài trong 6
tháng, các khu dân cư xung quanh sẽ bị bao trùm bởi bụi đất đỏ
Bazan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân.
- Tác động môi trường đất
• Tác động tới môi trường đất trước tiên là việc chuy ển đổi mục đích sử dụng đ ất
trong đó một lượng lớn diện tích đất rừng, cây công nghiêp, cây nông nghi ệp hoa
màu thực phẩm sẽ mất đi thay vào đó là những mảnh đất trơ sỏi đá của hoạt
động khai khoáng ( ở Đắc Nông, Bauxite phân bố trên 2/3 di ện tích t ự nhiên c ủa
tỉnh). Một khi lượng đất trên mặt bị bốc đi sẽ đồng thời làm gi ảm đ ộ ẩm c ủa
đất nên không có khả năng tái phủ xanh sau khi khai thác.
Các mương xói hình thành trên bền mặt nền đất bị bóc lớp phủ (nguồn: inernet)
- Tác động trong chế biến nhôm
• Ảnh hưởng đến môi trường của việc chế biến bauxite thành alumina
• Quá trình chế biến bauxite tạo ra rất nhièu chất thải rắn khó phân hu ỷ có
hại cho môi trường. Về mặt thạch học, bauxite Tây Nguyên gồm 3 thành
phần chính là gibbsite (hay còn gọi là trihydrate nhôm Al2O3.3H2O),
boehmite (hay còn gọi là monohydrate nhôm Al2O3.H2O) và diaspore (có
thành phần tương tự như boehmite nhưng cứng hơn).
• Quá trình xử lý để chế biến bauxite thành alumina sẽ tạo ra các đuôi qu ặng
không hoà tan chứa các thành phần gồm các oxid sắt, silic, titanium và các
nguyên tố đi kèm như kẽm, phôtpho, nickel và vanadium. Các thành phần
này trong chất thải không phân huỷ kể cả trong điều kiện nhiệt độ cao.
• Các chất thải này tuy không độc hại nhưng rất bền vững về mặt hoá h ọc
nên có tác động xấu đến môi trường đất. Tỷ lệ chất thải (đuôi quặng) này
rất lớn. Tuỳ thuộc vào chất lượng của bauxits và công ngh ệ ch ế biến có
thể lên tới 2,5 tấn/ 1tấn sảm phẩm alumina. Việc bảo quản các chất thải
này để không gây ô nhiễm cho môi trường đất và nước là rất tốn kém. Đôi
khi trong điều kiện ở Tây Nguyên là không khả thi.
- http://moitruong.xaydung.gov.vn/moitruong/
module/news/viewcontent.asp?
ID=533&langid=1
• Ảnh hưởng tới môi trường của việc sản xuất aluminium.
• Quá trình sản xuất tiếp theo là chế biến alumina thành aluminium (điện phân nhôm).
Quá trình này có nhiều loại chất thải: chất thải rắn và chất phát thải. Trong số các
chất thải rắn, đáng quan tâm là chất thải cathode có khối lượng rất lớn. Chất thải
này được hình thành thường xuyên sau mỗi chu kỳ sử dụng của cathode được làm
từ các thành phần điện phân và cyanide. Chất thải cathode đòi hỏi phải được chôn
cất dưới đất không để tiếp xúc với nước mặt và nước ngầm và phải thường xuyên
giám sát theo dõi sự thay đổi về thành phần của chúng. Trong quá trình chờ đợi để
chôn cất, chất thải này phải được bảo quản nghiêm ngặt nơi khô ráo. Nhiều nước
cũng đã nghiên cứu sử dụng chất thải này cho phát điện hoặc cho các ngành công
nghiệp khác như thép, xi măng…
• Chất phát thải của quá trình sản xuất nhôm cũng rất nguy hại. Với các thế hệ công
nghệ tiên tiến (thế hệ 3-4) các nhà máy sản xuất nhôm có mức độ phát thải vẫn rất
cao. Tính bình quân mức độ ô nhiễm sẽ lên tới 0,5-1 kg chất phát thải fluoride/1 t ấn
nhôm. Chất phát thải flouride có ở hai dạng hỗn hợp vô cơ (Nà, AlF3, Na3AlF6 dạng
hạt và HF dạng khí) và hỗn hợp hữu cơ (CF4, C2F6) dạng khí). Vì các chất phát thải
flouride có tác động rất mạnh đến các nguồn thực vật ngành nhôm đòi hỏi phải khử
tối thiểu 96-99% chất phát thải này. Mặc dù công nghệ tiên tiến đã hạn chế phát thải
nhưng việc ô nhiễm CF4 vẫn ở mức độ cao.
- Biện pháp giảm thiểu tác động
1. Giải quyết vấn đề bùn đỏ.
• Một số nước như Pháp, Áo xử lý bùn đỏ bằng cách đổ ra gần biển. Nước biển
và bùn đỏ có thể chung sống bền vững với nhau. Ở Việt Nam, các chuyên gia
của COMECON trước đây cũng đã tính tới phương án đưa quặng từ Tây Nguyên
xuống Bình Thuận để tuyển và sản xuất alumina, để đưa bùn đỏ ra bi ển. Nh ưng
chi phí sẽ rất cao (phải vận chuyển không công gần 70% kh ối lượng), nên dự án
không khả thi.
• Chôn cất bùn đỏ, chi phí cao. Dự án ở Aughinsh ở Izland với diện tích 78ha (giai
đoạn 2) triển khai trong các năm 2008-2010 sẽ tiêu phí hết 60 tri ệu USD . D ự án
Euralumina (ở Ý) mở rộng bể chứa bùn đỏ gần bờ biển triển khai giai đo ạn
2008-2010 sẽ tiêu tốn 81,5 triệu USD.
• Đáng chú ý, công ty TenCate của Mỹ đã đưa ra công nghệ Geotube® l ưu gi ữ bùn
đỏ trong các túi đặc biệt. Trên cơ sở đó, Canada đã đ ầu tư 226,8 tri ệu USD đ ể
xây dựng một nhà máy chuyên sản xuất túi đựng bùn đỏ công su ất 80.000
tấn/năm (dự kiến hoàn thành cuối 2008). Rusal cũng dự tính sẽ dùng các túi
Geotube này để đựng bùn đỏ.
- 2. Giải pháp xanh (trồng cỏ vetiver).
Vetiver?
Ðây là loại cây lưu niên, chỉ cần chăm sóc tối thiểu là nhanh chóng hình
thành hàng rào dày đặc chịu hạn hán và ngập lụt tốt. Phần lớn rễ cỏ
vetiver mọc thẳng xuống ít nhất ba mét.
Do bộ rễ phát triển mạnh thành chùm, đan xen trong đất và có thể chịu
lực bằng 1/6 lần so với bê-tông nên hàng rào vetiver có tác động đệm rất
tốt, chống được xói mòn nếu đặt theo đường đồng mức với khoảng cách
nhất định. Ngoài việc là một hàng rào bảo vệ hiệu quả, cỏ vetiver còn có
thể giải phóng được năng lượng từ dòng xoáy của nước lũ tạo thành dải
bờ kè thiên nhiên bảo vệ các công trình cơ sở hạ tầng rất hiệu qu ả và
rẻ, giúp bảo vệ các công trình đập, kênh, đường bộ, sông hồ thủy điện
không bị bồi lấp, chống lũ lụt, hạn chế dòng chảy mất mùa trên diện
rộng, cả thiện chất lượng nước thải và nước ô nhiễm.
Công dụng bảo vệ môi trường trong khai thác bauxite.
Phủ xanh lớp đất thô, tăng độ bền cho đất, chống sói mòn, mang lại vẽ
mỹ quan cho khu vực khai thác bauxite.
- Phương phápThiết kế đường bao(VENEZUELA).
• Đánh giá khảo sát địa điểm cần khôi phục.
• Lấy mẫu đất đem phân tích.
Những yếu tố cần quan tâm : trạng thái tồn tại của dòng n ước trong
khu vực, sự ổn định của đất, mái dốc. Đây là những y ếu t ố c ần thi ết đ ể
xây dựng đường bao. Khoảng cách giữa các đường bao là từ 0.8 – 1.0m.
Bản thiết kế đường bao vetiver của venezuela [1]
- Thi công
Công nhân đang thi công [3]
- III. Khả năng ứng dụng các giải pháp bảo vệ môi
trường của nước ngoài và biện pháp bảo vệ môi
trường của Việt Nam.
Khả năng ứng dụng các công nghệ bảo vệ môi trường của nước ngoài
1.
vào Việt Nam.
• Trồng cỏ Vetiver. Cỏ vetiver du nhập vào Việt Nam năm 1999, và được sữ
dụng nhiều trong các lĩnh vực chống sạt lỡ, xói mòn, phủ xanh. Giá thành
tương đối rẻ, sức sống tốt, phương pháp thi công tương đối đơn giản. Nên
đây là phương pháp hữu hiệu mà Việt Nam có thể học hỏi của thế giới.
• Giải quyết vấn đề bùn đỏ. Đây là công đoạn khó khăn, cần huy động ngồn
vốn lớn, Khả năng rủi ro cao. Việt Nam là một đất nước còn khá nghèo nên
việc giải quyết vấn đề này còn khá nan giải:
Phương pháp chuyển bùn ra biển (Pháp, Áo) : do địa thế vùng khai
thác bauxite Việt Nam nằm ở Tây Nguyên cách xa biển nê việc vận
chuyển bùn ra biển hết sức khó khăn, và tốn kém. Nên phương pháp
này không khả thi.
Chôn cất bùn (Aughinsh ở Izland): Có thể thực hiện tại chỗ không
cần vận chuyển. Chi phí tương đối cao. Đây là phương pháp tốt mà
Việt Nam nên sử dụng.
Sử dụng túi chứa Bauxite (công ty TenCate của Mỹ ) : Việt Nam
chưa có công nghệ sản xuất loại túi này, nếu đầu tư xây dựng và
mua công nghệ thì không đủ kinh phí. Có thể nhập sản phẩm về sử
dụng, nếu giá thành rẻ.
- 2. Biện pháp bảo vệ môi trường của Việt Nam.
a. Đối với bụi trong không khí:
• Do đặc điểm của công tác ngoải trời trong khoảng không gian rộng, quá trình
khai thác tạo thành bụi đất là chủ yếu nên trong khai trường cần có các giải
pháp kỹ thuật như sau để tránh bụi lan truyền:
• Sử dụng các loại bom nước bắn vào không khí trong khu vực đang khai thác, có
sự hoạt động của các phương tiện xe múc, xe ben.
• Dùng nước tưới lên các khu vực đang thực hiện công tác khai khoáng.
• Lắp đặt hệ thống phun sương trong khu vực khai khoáng.
b. Đối với tiếng ồn :
Là nhân tố khó khống chế triệt để trong quá trình khai thác do đặc trưng của
hoạt động khai thác bằng các phương tiện cơ giới khi vận hành, nhưng có thể
giảm thiểu bằng cách thường xuyên kiểm tra tình trạng hoạt động của phương
tiện, không sử dụng những phương tiện quá cũ.
c. Xử lý bùn đỏ :
• Ngoài phương pháp chôn lấp, ta có thể sử dụng các phương pháp khác
như:
• Làm sân phơi khô và sử dụng vào mục đích trồng các loại cây thích hợp.
• Làm bể phân hủy bùn hiếu khí: biến vật thải thành các thành phần không
độc hại.
• Đầu tư, nghiên cứu các dây chuyền công nghệ xử lý bùn đỏ.
- d. Giảm thiểu các tác động đến môi trường đất - nước.
• Để giảm thiểu tác động tới môi trường đất – nước cần có
biện pháp xử lý tốt lượng nước thải ra trong quá trình rửa
quặng và tuyển quặng. Cần đầu tư một công nghệ lắng lọc
bùn, xử lý nước hiệu quả trước khi đưa ra môi trường.
• Nếu không thể giải quyết lượng bùn đỏ một cách triệt để
hay không xử lý được phải tiến hành chôn lấp hợp lý. Phải
chọn vị trí thích hợp trong các vùng thấp trũng nơi có ít dân
cư. Sử dụng các loại vật liệu tấm lót để cách đáy không cho
thấm tràm ra ngoài.
• Ngoài ra, có thể nghiên cứu các loại cây có thể sinh sống
trong các vùng bùn đỏ nay để tiến hành cải tạo dần.
nguon tai.lieu . vn