Xem mẫu
- Bệnh lý đái tháo đường là gì ?
Viết bởi Administrator
Thứ bảy, 18 Tháng 7 2009 00:00
Đái tháo đường
(ĐTĐ) - thuật ngữ Y
khoa là Diabetes mellitus – là
nhóm bệnh lý ảnh hưởng đến
cách thức sử dụng đường
(glucose) trong máu của cơ thể
của chúng ta. Lượng đường nầy
cần cho sức khoẻ của bạn vì nó
là nguồn năng lượng chính của
cơ thể{josquote}Bệnh đái tháo
đường diễn biến âm thầm, có vẻ
không nguy hiểm nhưng có thể
gây tàn phế cho người
bệnh{/josquote}
Bệnh lý đái tháo đường là gì ?
Đái tháo đường (ĐTĐ) - thuật
- ngữ Y khoa là Diabetes mellitus
– là nhóm bệnh lý ảnh hưởng
đến cách thức sử dụng đường
(glucose) trong máu của cơ thể
của chúng ta. Lượng đường nầy
cần cho sức khoẻ của bạn vì nó
là nguồn năng lượng chính của
cơ thể{josquote}Bệnh đái tháo
đường diễn biến âm thầm, có vẻ
không nguy hiểm nhưng có thể
gây tàn phế cho người
bệnh{/josquote}
Bình thường, glucose có thể đi
vào trong tế bào nhờ hoạt động
của insulin – một hormone được
tiết ra bởi tuyến tụy. Insulin hoạt
động như những cổng cực nhỏ
cho phép glucose đi vào trong tế
bào. Nhưng ở bệnh nhân đái tháo
đường, quá trình nầy bị thất bại.
Thay vì vận chuyển vào trong tế
bào, glucose tích tụ lại trong
- dòng máu và cuối cùng thải ra
ngoài cơ thể qua đường nước
tiểu. Điều nầy xảy ra là do hoặc
tuyến tụy không sản suất đủ
lượng insulin cần thiết hoặc các
tế bào không đáp ứng với insulin
một cách thích hợp
Càng ngày càng có nhiều người
Mỹ bị đái tháo đường. Bệnh lý
nầy ảnh hưởng đến 16 triệu
người lớn và trẻ em, có đến gần
1/3 số người nói trên không biết
rằng họ đang mang đang có bệnh
lý nầy. Đó là do bệnh lý nầy có
diễn tiến từ từ trong nhiều năm,
thường không có triệu chứng.
Đái tháo đường chủ yếu có 2
dạng – type 1 và type 2.
Type 1 của ĐTĐ tiến triển khi
sản xuất rất ít hoặc không sản
xuất ra insulin. Nó ảnh hưởng từ
5 – 10% tổng số người mắc
- bệnh. Type 1 thường được gọi là
ĐTĐ phụ thuộc insulin hay ĐTĐ
ở người vị thành niên. Nhưng tên
gọi nầy cũng có thể bị thay đổi
do type 1 cũng xảy ra ở người
lớn tuổi, không chỉ có ở trẻ em
và trẻ vị thành niên. Ngoài ra,
những người bị ĐTĐ type khác
cũng cần dùng insulin
ĐTĐ type 2 xảy ra phổ biến hơn
so với type 1, ảnh hưởng đến 90
– 95% tổng số người bị ĐTĐ. Nó
được gọi là ĐTĐ người lớn hay
ĐTĐ không phụ thuộc insulin.
Nhưng nó cũng có tên mới. Đó là
do càng ngày có nhiều người trẻ
tiến triển type bệnh lý nầy và
cũng có một số người ĐTĐ type
2 cũng sử dụng insulin. ĐTĐ
type 2 xảy ra khi tế bào tụy sản
xuất ra lượng insulin không đủ
hoặc cơ thể sản xuất ra chất
kháng insulin
- Cả 2 type của ĐTĐ đều tiến triển
trầm trọng. Sự tích tụ glucose
trong máu có thể gây tổn thương
các cơ quan lớn trong cơ thể.
Cuối cùng, ĐTĐ gây tử vong cho
người bệnh. Đây là nguyên nhân
gây tử vong cho 200000 người
Mỹ mỗi năm.
Đo đường huyết ở nhà giúp bác
sỹ chuẩn đoán chính xác và có
phác đồ điều trị tốt hơn
Dấu hiệu và triệu chứng
ĐTĐ thường không có triệu
chứng. Đặc biệt là ĐTĐ type 2
- có tiến triển chậm. Nhiều người
đã có bệnh lý nầy 8 năm trước
khi được chẩn đoán. Khi bệnh
tiến triển thường biểu hiện những
triệu chứng khác nhau. Nhưng có
2 triệu chứng điển hình hay gặp
là khát nước nhiều và tiểu nhiều.
Do lượng glucose quá cao trong
máu đã kéo nước từ các mô vào
máu, Tạo nên cảm giác mất
nước. Để làm dịu cơn khát thì
người ta có xu hướng uống nhiều
nước và các loại đồ uống khác,
và điều nầy dẫn đến việc bài xuất
nhiều nước tiểu.
Những triệu chứng cảnh báo
khác bao gồm
Triệu chứng giống
cúm. Người bị ĐTĐ thỉnh
thoảng bị một đợt nhiễm siêu vi,
- mệt mỏi, suy nhược và chán ăn.
Đường là nguồn năng lượng
chính của cơ thể do đó khi không
vào được cơ thể sẽ gây nên cảm
giác mệt mỏi và yếu ớt.
Tăng hoặc giảm cân. Do cơ
thể cố gắng bù trừ lượng đường
và dịch bi mất, chúng ta có thể
ăn nhiều hơn bình thường và sẽ
tăng cân. Nhưng điều ngược lại
cũng có thể xảy ra. Chúng ta ăn
nhiều hơn bình thường, nhưng
vẫn giảm cân là do mô cơ không
nhận đủ glucose dể tạo năng
lượng và hoạt động. Điều nầy
đặc biệt có ý nghĩa ở người bị
ĐTĐ type 1, loại mà có rất ít
glucose đi vào trong tế bào. Thực
tế, hầu hết người bị ĐTĐ type 1
thường có trọng lượng cơ thể ở
mức bình thường hoặc dưới mức
bình thường
Nhìn mờ. Nồng độ cao của
- đường trong máu sẽ kéo dịch ra
khỏi mô của cơ thể – bao gồm cả
thấu kính của mắt. Điều nầy ảnh
hưởng đến khả năng điều chỉnh
của mắt. Khi ĐTĐ được điều trị
và đường huyết giảm thì khả
năng nhìn sẽ được cải thiện. Tuy
nhiên, sau nhiều năm ĐTĐ sẽ
ảnh hưởng đến võng mạc – phần
nằm sau của mắt - cũng như gây
tổn thương những mạch máu
nhỏ. Đối với nhiều người nguyên
nhân nầy chỉ gây ảnh hưởng đến
khả năng nhìn ở mức độ nhẹ.
Nhưng đối với người khác thì có
ảnh hưởng một cách trầm trọng
đến khả năng nhìn. Trong một số
trường hợp ĐTĐ có khả năng
gây mù vĩnh viễn.
Dễ bị nhiễm trùng và lành
chậm vết thương. ĐTĐ ảnh
hưởng đến khả năng chống lại
nhiễm trùng và quá trình lành vết
- thương. Nhiễm trùng bàng quang
và âm đạo là những vấn đề đặc
biệt hay gặp ở nữ giới.
Tổn thương thần
kinh(neuropathy). Lượng
đường huyết cao sẽ gây tổn
thương những mạch máu nuôi
thần kinh, gây nên một số triệu
chứng. Phổ biến nhất là triệu
chứng tê bì và mất cảm giác ở
tay và chân. Cũng có thể có cảm
giác đau kiểu bỏng rát ở chân,
tay, cánh tay và khuỷu tay.
Ngoài ra, có khoảng hơn một
nửa số bệnh nhân nam trên 50
tuổi có vấn đề về tình dục gây
tổn thương thần kinh gây sự
cương của dương vật.
Sưng, đỏ, đau nướu
răng. ĐTĐ gây nên tăng nguy cơ
nhiễm trùng ở nướu răng và chân
răng. Kết quả gây nên sưng
phồng nướu răng và làm cho
- răng trở nên lỏng lẻo, gây đau
nhức và tạo mủ ở chân răng.
Nguyên nhân
Trong tiến trình tiêu hoá, cơ thể
lấy carbohydrate từ thực phẩm
như bánh mì, gạo, mì sợi, rau,
trái cây và sữa để tạo thành
những phân tử đường khác nhau.
Một trong các loại đó là glucose,
nguồn năng lượng chính của cơ
thể. Glucose được hấp thu trực
tiếp vào dòng máu sau khi ăn,
nhưng nó không thể đi vào trong
tế bào mà không có sự giúp đỡ
của insulin – một hormone được
tiết ra bởi tuyến tụy. Tụy là cơ
quan nằm ở phía sau dạ dày. Khi
nồng độ glucose trong máu tăng,
chúng phát tín hiệu cho tế bào
beta của tuyến tụy phóng thích ra
insulin. Insulin sẽ đến “mở cổng
- ” để glucose đi vào trong tế bào.
Điều nầy giúp cho lượng glucose
trong máu không tăng cao có thể
gây nguy hiểm cho cơ thể.Khi
nồng độ glucose trong máu
xuống thấp, tuyến tụy sẽ ngưng
bài tiết insulin.
Gan là nơi dự trữ glucose dư
thừa dưới dạng glycogen. Khi
nồng độ glycogen trong máu
xuống thấp, gan sẽ chuyển
glycogen dự trữ thành glucose và
phóng thích nó vào trong dòng
máu.
Khi chức năng của tuyến tụy
bình thường, lượng glucose trong
máu dao động đáp ứng với một
số các yếu tố, bao gồm loại thực
phẩm chúng ta ăn vào, hoạt dộng
thể lực, stress và nhiễm trùng.
Nhưng mối liên quan phức tạp
- của insulin, glucose, gan và
những hormone khác đảm bảo
cho lượng đường trong máu
trong giới hạn cho phép.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng điều nầy
không hoàn toàn đúng. Hoặc cơ
thể không sản xuất đủ lượng
insulin để giúp đưa glucose vào
trong tế bào hoặc bản thân các tế
bào trở nên đề kháng với insulin.
Trong trường hợp đó hậu quả là
việc tăng nồng độ glucose trong
máu. Nguyên nhân của tình trạng
tăng glucose trong máu phụ
thuộc vào loại đái tháo đường cụ
thể. Phân loại đái tháo đường và
nguyên nhân của nó bao gồm:
ĐTĐ type 1. Dạng nầy của ĐTĐ
sinh ra là do tuyến tụy sản xuất
ra lượng insulin không đủ. Điều
nầy xảy ra do cơ chế tự miễn của
- cơ thể tấn công ngay chính tuyến
tụy, Huỷ hoại tế bào bêta có chức
năng sản xuất ra insulin. Bình
thường, hệ thống miễn dịch tấn
công virus, vi khuẩn và những vi
sinh xâm lấn khác. Các nhà
nghiên cứu không chắc rằng
những nguyên nhân nào của hệ
thống miễn dịch đã tấn công lên
tuyến tụy, nhưng người ta tin
tưởng rằng có một số yếu tố di
truyền, một vài virus và chế độ
ăn đả gây ra cơ chế nầy. Mặc dù
ĐTĐ type 1 vẫn có thể không
phát hiện được trong nhiều năm,
các triệu chứng có thể xuất hiện
trong vài tuần đến vài tháng –
thường là sau một đợt mắc 1
bệnh lý nào đó.
ĐTĐ type 2. không giống như
type 1, dạng nầy không phải3 là
bệnh lý tự miễn. Có thể có 1
- hoặc 2 quá trình diễn ra : hoặc
tụy không sản xuất đủ lượng
insulin cho phép glucose đi vào
trong tế bào, hoặc là tế bào trở
nên đề kháng với insulin. Người
ta không biết rõ tại sao lại xảy ra
điều nầy, nhưng tình trạng quá
trọng và dư thừa mỡ là yếu tố
quan trọng. Hầu hết những người
ĐTĐ type 2 đều quá trọng.
ĐTĐ ở người trẻ
(MODY). Hiếm gặp, dạng di
truyền của ĐTĐ type 2 và
thường gặp ở tuổi thiếu niên.
ĐTĐ thai kỳ. Loại nầy của ĐTĐ
thỉnh thoảng tiến triển trong thai
kỳ – thường là vào tam cá nguyệt
thứ 2 và 3. Xảy ra ở khoảng 2 –
3% tổng số phụ nữ mang thai và
khi hormone được sản xuất bởi
nhau thai bị gián đoạn do ảnh
- hưởng của insulin. ĐTĐ thai kỳ
biến mất ngay sau khi sinh,
Nhưng có khoảng ½ trong số nầy
tiến triển thành ĐTĐ type 2 vĩnh
viễn sau sinh. Trong những
trường hợp hiếm gặp, ĐTĐ type
1 cũng có thể xảy ra trong thai
kỳ, dẫn đến nồng độ glucose
trong máu cao sau khi sinh mà
đòi hỏi phải điều trị bằng insulin.
Có khoảng 1 – 2% tổng các
trường hợp chẩn đoán ĐTĐ do
hậu quả của bệnh lý hoặc do
thuốc mà nó làm cản trở hoạt
động của insulin. Chúng bao
gồm những thuốc kháng viêm
hoặc phẫu thuật cắt bỏ tuyến tụy,
rối loạn hoạt động tuyến thượng
thận, suy dinh dưỡng, nhiễm
trùng và thuốc corticosteroid,
chẳng hạn như prednisone.
nguon tai.lieu . vn