Xem mẫu
- Bệnh béo phì cách phòng
ngừa
Tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay
toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức khỏe được gọi là béo phì. Có thể đánh giá
mức độ béo phì bằng chỉ số khối cơ thể (BMI).
Nguyên nhân:
Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằng giữa
nǎng lượng do thức ǎn cung cấp và nǎng lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động
khác của cơ thể. Cân nặng cơ thể tǎng lên có thể do chế độ ǎn dư thừa vượt quá nhu
cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao nǎng lượng.
Khi vào cơ thể, các chất protein, lipit, gluxit đều có thể chuyển thành chất béo dự trữ.
Vì vậy, không nên coi ǎn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây béo mà ǎn quá thừa chất bột,
đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Tóm lại có thể chia nguyên nhân và cơ chế sinh
bệnh của béo phì như sau:
- Đáp ứng sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền có vai trò nhất
định đối với những trẻ béo phì thường có cha mẹ béo, tuy vậy nhìn trên đa số cộng
đồng, yếu tố này không lớn.
Triệu chứng:
Thường một người trưởng thành khỏe mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của họ
đứng yên hoặc giao động trong giới hạn nhất định. Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới
thường dùng chỉ số khối cơ thể (BMI) để đánh giá tình trạng gây bệnh của cơ thể.
Cân nặng (kg)
BMI = ——————
Chiều cao* (m)
Người ta coi chỉ số BMI bình thường nên có ở giới hạn 20-25, trên 25 là thừa cân và
trên 30 là béo phì. Đó là chỉ số dành cho người châu Âu và châu Mỹ. Đối với người
châu Á, BMI bình thường có giới hạn từ 18.5-23.
Một điều cần chú ý nữa là vùng chất mỡ tập trung. Mỡ tập trung nhiều quanh vùng eo
lưng tạo nên dáng người “quả táo tàu” thường được gọi là béo kiểu “trung tâm”, kiểu
phần trên hay béo kiểu dáng đàn ông và mỡ tập trung ở phần háng tạo nên vóc người
“hình quả lê” hay còn gọi là béo phần thấp hay kiểu dáng đàn bà. Vì vậy bên cạnh
- theo dõi chỉ số BMI nên theo dõi thêm tỷ số vòng bụng/ vòng mông, khi tỉ số này vượt
quá 0,9 ở nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tǎng huyết áp, bệnh tim mạch,
bệnh đái đường đều tǎng lên rõ rệt.
Béo phì không tốt đối với sức khoẻ, người các béo các nguy cơ càng nhiều. Trước hết,
người béo phì dễ mắc các bệnh tǎng huyết áp, bệnh tim mạch do mạch vành, đái
đường, hay bị các rối loại dạ dày, ruột, sỏi mật.
Điều trị và Phòng bệnh:
Thực hiện một chế độ ǎn uống hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì cân
bặng ổn định ở người trưởng thành, đó là nguyên tắc cần thiết để tránh béo phì. Các
biện pháp cụ thể là:
Chế độ ǎn nǎng lượng (calo) thấp, cân đối, ít đói, ít đường, đủ đạm, vitamin, nhiều
rau quả.
Luyện tập ở môi trường thoáng.
Xây dựng nếp sống nǎng động, tǎng cường hoạt động thể lực.
Giảm nǎng lượng của khẩu phần ǎn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng 300 kcal
so với khẩu phần ǎn trước đó cho đến khi đạt nǎng lượng tương ứng đến mức BMI.
- BMI từ 25-29,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1500 kcal.
- - BMI từ 30-34,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1200 kcal.
- BMI từ 35-39,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1000 kcal.
- BMI ≥ 40 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 800 kcal.
Trong đó tỉ lệ nǎng lượng giữa các chất là 15-16% protein, 12-13% lipid, 71-72%
glucid.
Thừa cân, béo phì ở trẻ và cách phòng tránh
Căn bệnh này đang tăng nhanh, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Không chỉ
những trẻ bụ bẫm mới bị béo phì. Ở trẻ nhỏ suy dinh dưỡng, nguy cơ béo phì sau
đó sẽ cao hơn bạn bè cùng lứa có cân nặng bình thường ít nhất là gấp đôi.
Có nhiều yếu tố dẫn đến thừa cân, béo phì. Trong đó, phổ biến nhất là tình trạng năng
lượng khẩu phần vượt quá nhu cầu, nhất là năng lượng do chất béo và bột, đường
cung cấp. Trẻ được nuôi bằng sữa bò có nguy cơ thừa cân - béo phì cao hơn trẻ bú mẹ,
vì thức ăn nhân tạo giàu protein và muối, làm tăng áp lực thẩm thấu, gây cảm giác
khát, kích thích trẻ ăn nhiều hơn.
Giảm hoạt động thể lực cũng là yếu tố nguy cơ cao của thừa cân, béo phì. Hiện có
nhiều trẻ không tham gia thể dục thể thao, ít đi bộ, đi xe đạp... mà dành nhiều thời
gian cho hoạt động tĩnh tại như xem vô tuyến, chơi điện tử. Theo một số nghiên cứu,
trong khi xem vô tuyến, sự trao đổi chất giảm đáng kể.
Ngủ ít cũng gây béo vì làm giảm tiêu mỡ (quá trình này diễn ra mạnh nhất vào ban
đêm khi ngủ). Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chứng minh mối liên quan
giữa thời gian ngủ ngắn với chứng béo phì.
Tuy chưa chứng minh được đầy đủ vai trò của di truyền đối với chứng thừa cân, béo
phì nhưng thực tế cho thấy, nguy cơ này sẽ tăng lên ở những đứa trẻ có cha hoặc mẹ
nặng cân, đặc biệt là khi cả cha mẹ đều béo.
Cân nặng quá cao lúc đẻ cũng là yếu tố nguy cơ dẫn đến béo phì. Sự mất cân bằng
trong chế độ ăn của mẹ khi mang thai sẽ tạo nên tình trạng dư thừa mỡ ở trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trẻ nhẹ cân sẽ hoàn toàn thoát khỏi nỗi lo này.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, trẻ 3-9 tuổi bị suy dinh dưỡng, thấp còi sẽ có nguy
- cơ thừa cân, béo phì cao gấp 2-8 lần so với trẻ không bị thấp còi. Nguyên nhân có thể
là trẻ suy dinh dưỡng mạn tính có khối nạc thấp, chuyển hóa cơ bản và hoạt động thể
lực giảm. Khi cung được cấp đủ năng lượng, trẻ sẽ tích luỹ mỡ rất nhanh.
Chứng thừa cân, béo phì ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ khi trưởng thành. Những
trẻ béo sẽ ngừng tăng trưởng sớm. Trước dậy thì, chúng thường cao hơn so với tuổi
nhưng khi dậy thì, chiều cao ngừng phát triển và trẻ có xu hướng thấp hơn so với bạn
bè. Ngoài ra, chứng béo phì cũng làm tăng nguy cơ bệnh tật (tim mạch, tăng huyết áp,
tiểu đường, sỏi mật, viêm khớp...) và tử vong.
Để dự phòng thừa cân và bép phì, cần chăm sóc tốt cho trẻ từ trong bào thai để tránh
thiếu hoặc thừa dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh.Cho bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, chỉ
cai sữa sau 2 năm. Nếu phải nuôi bằng sữa bột, không nên sử dụng thêm đường hay
tinh bột. Khi trẻ ăn dặm, thức ăn phải được bổ sung vi chất dinh dưỡng cần thiết để
giúp tăng trưởng tối đa.
Đối với trẻ lớn và trẻ vị thành niên, cần tăng cường hoạt động thể lực với các loại hình
và mức độ thích hợp theo từng lứa tuổi (như thể dục nhịp điệu, đi bộ, chạy nhảy, bơi
lội...). Sinh hoạt điều độ, hạn chế xem vô tuyến, chơi điện tử hoặc thức quá khuya. Về
ăn uống, cần đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng để trẻ phát triển bình thường; khuyến khích
ăn rau và hoa quả. Hạn chế sử dụng các thực phẩm giàu năng lượng, nghèo vi chất
dinh dưỡng và đồ uống có đường.
Điều quan trọng là theo dõi tăng trưởng của trẻ ở mọi lứa tuổi qua chỉ số cân nặng,
chiều cao. Như vậy, cha mẹ sẽ phát hiện sớm suy dinh dưỡng hoặc thừa cân, béo phì
để xử trí kịp thời.
nguon tai.lieu . vn