Xem mẫu

Bảo vệ môi trường bằng công cụ thuế, phí môi trường và hiệu quả của giải
pháp hiện nay ở Việt Nam
Bảo vệ môi trường (BVMT) được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác
nhau nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của các chủ thể có khả năng tác
động tiêu cực đến môi trường, cũng như khắc phục các sự cố môi trường.
TÓM TẮT: Bảo vệ môi trường (BVMT) được thực hiện bằng nhiều biện pháp
khác nhau nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của các chủ thể có khả năng tác
động tiêu cực đến môi trường, cũng như khắc phục các sự cố môi trường. Việt
Nam hiện đã ban hành Luật thuế môi trường và hệ thống phí BVMT đối với một
số loại hàng hóa gây ô nhiễm. Tuy nhiên, do chưa có nghiên cứu đầy đủ về các
công cụ kinh tế trước khi ban hành nên quá trình triển khai còn gặp nhiều khó
khăn, hiệu quả về mặt môi trường chưa cao. Bài báo giới thiệu thực trạng việc
áp dụng công cụ thuế, phí BVMT tại Việt Nam, các hạn chế và kiến nghị một số
giải pháp khắc phục.
TỪ KHÓA: Phí môi trường, thuế môi trường.
Abstract: Protecting the environment is done by many different measures aimed
at changing perceptions and behavior of entities potentially negative impact on
the environment, as well as overcoming environmental problems. In Vietnam
today issued the environmental tax law and environmental protection charges for
certain polluting goods. However, due to lack of adequate studies on economic
instruments so the deployment process still faces many difficulties,
environmental efficiency is not high. This paper introduces the application
situation of tax instruments, environmental protection fees in Vietnam, the
limitations and propose some solutions.
Keywords: Environmental charges, environmental tax.
1. Một số khái niệm
1.1. Thuế BVMT
Theo định nghĩa tại Luật thuế BVMT số 57/2010/QH12 thì “Thuế BVMT là loại
thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến
môi trường”[1].
Thuế BVMT được coi là một trong những công cụ kinh tế mang lại hiệu quả cao
trong quản lý và bảo vệ môi trường. Thuế BVMT được xây dựng trên hai nguyên
tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và
“người hưởng thụ phải trả tiền”.

1.2. Phí BVMT
Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ được quy định trong danh mục phí ban hành kèm theo
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 38/2001/PL-UBTVQH10 ngày
28/8/2001[2].
Phí BVMT là khoản thu của Nhà nước nhằm bù đắp một phần chi phí thường
xuyên và không thường xuyên để xây dựng, bảo dưỡng môi trường và tổ chức
quản lý hành chính của Nhà nước đối với hoạt động của người nộp phí.
1.3. Vai trò của thuế, phí BVMT
Việc tăng, giảm thuế môi trường là nhằm khuyến khích tiêu thụ sản phẩm an
toàn về môi trường. Tăng thuế đối với các sản phẩm gây ô nhiễm và giảm thuế
hoặc không đánh thuế đối với các mặt hàng thân thiện với môi trường sẽ góp
phần cải thiện cung - cầu theo hướng có lợi cho môi trường.
Thuế, phí bảo vệ môi trường có vai trò định hướng hành vi xử sự của các chủ
thể tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh theo hướng ngày càng giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Các công cụ kinh tế này làm cho các doanh nghiệp có ý thức hơn
trong việc tìm các biện pháp nhằm hạn chế tác động bất lợi do hoạt động sản
xuất của mình gây ra cho môi trường; quan tâm áp dụng các công nghệ sản xuất
tiên tiến để giảm bớt xả thải chất độc hại ra môi trường; thúc đẩy doanh nghiệp
nghiên cứu ứng dụng công nghệ sạch vào sản xuất, nghiên cứu sử dụng nguyên
liệu thay thế nguyên liệu hóa thạch để sản xuất các sản phẩm thân thiện môi
trường, thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường.
Thuế, phí BVMT giúp tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên bởi nó tác động
trực tiếp đến đến lợi ích kinh tế của các cá nhân doanh nghiệp nên khi tiến hành
sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, các chủ thể phải tính đến việc sử dụng nguồn
tài nguyên như thế nào là tiết kiệm và hiệu quả nhất mà không ảnh hưởng đến
lợi nhuận thông qua việc thường xuyên cải tiến công nghệ, kiểm soát ô nhiễm.
Thuế, phí BVMT tạo ra nguồn giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho Nhà nước
trong việc quản lý và BVMT.
2. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC SỬ DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG
BVMT
Tại khu vực OECD, nhiều nước đã sử dụng hai công cụ này từ những năm 1990
và cho đến nay đã có trên 150 loại công cụ được áp dụng ở châu Âu và châu Á,

trong đó có 10 loại công cụ được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới
(Bảng 2.1):
Bảng 2.1. Các công cụ kinh tế được áp dụng ở các nước OECD [3]

2.1. Thuế và phí BVMT ở Thụy Điển
Việc đánh thuế phát thải khí SO2 tại Thụy Điển thực hiện năm 1991 làm cho
hàm lượng S của nhiên liệu dầu mỏ giảm xuống thấp hơn 50% tiêu chuẩn quy
định, hàm lượng S của dầu nhẹ cũng giảm xuống thấp hơn 0,076%, thấp hơn
một nửa giới hạn quy định 0,2%, đồng thời kích thích nhà máy sử dụng nhiên
liệu áp dụng các biện pháp giảm thải ô nhiễm. Việc đánh thuế khí SO2 đã đem lại
những kết quả khả quan trong kiểm soát ô nhiễm. Ước tính có tác động làm
giảm 30% lượng phát thải trong thời gian từ năm 1989 đến năm 1995.
Theo số liệu của Cục BVMT năm 2005, mỗi năm Thụy Điển thu được khoảng 7
tỷ euro từ thuế, phí liên quan với môi trường, trong đó phần lớn khoảng 95%
thuế, phí từ ngành Vận tải và ngành Năng lượng, thuế nguồn năng lượng... Thuế

môi trường của Thụy Điển từ năm 1999 - 2004 có xu thế tăng dần hàng năm,
thuế năng lượng chiếm tỷ lệ lớn nhất gần 90% trong thuế môi trường. Thuế môi
trường chiếm khoảng 3% GDP của Thụy Điển [4].
2.2. Phí ô nhiễm ở Singapore
Singapore có biểu giá phí ô nhiễm đánh vào nhu cầu oxi sinh hóa (BOD) và tổng
chất rắn lơ lửng (TSS) áp dụng với tất cả các cơ sở công nghiệp. Mức phí được
xác định tùy theo lượng nước thải và nồng độ các chất gây ô nhiễm. Lượng BOD
và TSS cho phép được thải vào hệ thống công cộng là 400mg/lít. Nếu cơ sở có
nồng độ BOD từ 401 - 600mg/lít thì phải trả số phí là 0,12$ Singapore/m3. Nếu
nồng độ BOD từ 1.601 - 1.800mg/lít thì phí sẽ tăng lên là 0,84$ Singapore/m3.
Nếu nồng độ chất gây ô nhiễm nằm trong khoảng 601 - 1.600mg/lít thì số phí sẽ
tăng lên một cấp cho mỗi 200mg/lít.
Hạn chế của chương trình này là phí được áp dụng như nhau đối với mọi cơ sở
công nghiệp, không phân biệt quy mô, cơ sở mới hay cũ.
2.3. Phí BVMT ở Hàn Quốc
Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được Hàn Quốc áp dụng từ năm 1983 đối với
chất thải khí và nước thải. Ban đầu, thu phí được áp dụng dưới dạng phạt do
không thực hiện cam kết. Cơ quan môi trường (hiện nay là Bộ Tài nguyên và
Môi trường) của Hàn Quốc được quyền phạt tiền các cơ sở gây ô nhiễm nếu vi
phạm tiêu chuẩn môi trường và sau khi có yêu cầu phải có biện pháp xử lý nếu
vẫn tiếp tục thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Từ năm 1986, biện pháp này được thay thế bằng thu phí đối với phần thải vượt
tiêu chuẩn. Mức phí được xác định trên cơ sở nồng độ chất gây ô nhiễm, vị trí
thải ô nhiễm, thời gian vượt tiêu chuẩn cho phép và tùy thuộc vào số lần vi phạm
tiêu chuẩn. Đến năm 1990, số phí này được điều chỉnh cao hơn chi phí vận hành
hệ thống xử lý ô nhiễm để có tác dụng khuyến khích giảm ô nhiễm [5].
2.4. Philippines
Mục tiêu chính của việc thu phí môi trường là nhằm tăng nguồn thu cho ngân
sách và giảm ô nhiễm môi trường. Mọi cơ sở công nghiệp đều là đối tượng của
việc áp dụng phí ô nhiễm môi trường. Mức phí thay đổi từ 100 đến 500$
Philippines/m3 (hay 3,86 - 19,31 USD/m3). Mức phí được xác định phụ
thuộc vào sự phát thải (tùy theo lượng thải và nồng độ các chất gây ô
nhiễm) [6].
2.5. Trung Quốc

Từ nhiều năm nay đã có một hệ thống phí phạt do vi phạm tiêu chuẩn môi
trường. Hệ thống này có tới 100 mức phí đánh vào các nguồn gây ô nhiễm đối
với nước thải, khí thải, phế thải, tiếng ồn và các loại khác. Mức phí ô nhiễm
được căn cứ vào lượng và nồng độ của các chất thải ra môi trường. Tuy nhiên,
nhược điểm của hệ thống này là mức phí đặt ra quá thấp nên đã hạn chế tác
động tích cực, khiến người gây ô nhiễm ít thay đổi hành vi của mình. Nguồn thu
được từ phí đã được dùng để trợ cấp cho các doanh nghiệp để họ thực hiện
biện pháp kiểm soát và xử lý ô nhiễm. Hệ thống phí này hiện nay đã được cải
cách theo hướng dành 80% nguồn thu từ phí đưa vào quỹ môi trường của địa
phương để cho doanh nghiệp vay ưu đãi để xử lý ô nhiễm, 20% còn lại dùng để
duy trì bộ máy kiểm soát và chi phí thực hiện chương trình này, bao gồm cả đào
tạo cán bộ môi trường, mua sắm và vận hành các thiết bị quan trắc, đo đạc [6].
3. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG BVMT Ở VIỆT NAM
3.1. Quy định về thuế, phí BVMT ở Việt Nam
Ngày 15/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật thuế BVMT số 57/2010/QH12,
trong đó quy định đối tượng chịu thuế gồm 8 nhóm: Xăng, dầu, mỡ, nhờn; than
đá; dung dịch HCFC; túi ni lông; thuốc diệt cỏ (loại hạn chế sử dụng); thuốc trừ
mối (hạn chế sử dụng); thuốc bảo quản lâm sản (hạn chế sử dụng); thuốc khử
trùng kho (hạn chế sử dụng).
Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP; Nghị định số
69/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Khoản 3, Điều 2 Nghị định số 67/2011/NĐ-CP;
Nghị định số 01/VBHN-BTC ngày 20/9/2013 của Bộ Tài chính hợp nhất hai Nghị
định 67/2011/NĐ-CP và 69/2012/NĐ-CP quy định về đối tượng chịu thuế, căn cứ
tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế BVMT.
Phí môi trường được tính dựa vào lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường, mức
tiêu thụ nguyên nhiên liệu gây ô nhiễm, tổng doanh thu hoặc tổng sản lượng
hàng hóa, lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta đang áp dụng một số
loại phí như sau:
- Phí vệ sinh môi trường: Là khoản phí trả cho việc thu gom, xử lý rác thải đô thị.
Đây là công cụ kinh tế được sử dụng khá sớm. Về cơ bản loại phí này được sử
dụng ở khu vực đô thị, mức phí do HĐND cấp tỉnh quy định, do vậy mức phí thu
có thể khác nhau phụ thuộc vào từng địa phương.
- Phí BVMT đối với nước thải: Hiện đang được triển khai thực hiện trong cả
nước trên cơ sở Nghị định số 25/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/3/2013
nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường từ nước thải và tạo nguồn kinh phí sử dụng
cho việc phòng ngừa, hạn chế, kiểm soát ô nhiễm môi trường từ nước thải; tổ

nguon tai.lieu . vn