Xem mẫu

  1. BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Báo cáo “Vai trò, mối quan hệ của nguồn vốn trong nước và nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế”
  2. MỤC LỤC:  Giới thiệu.  Chương 1 : Những vấn đề lí luận chung về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. I. Khái niệm phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư. II. Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.  Chương II.Thực trạng về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. I. Thực trạng về việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. II. Thực trạng về việc huy động và sử dụng nguồn vốn nước ngoài trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. III. Thực trạng mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Chương III. Giải pháp tăng cường vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
  3. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 là: Đưa nước ta ra thoát khỏi khủng hoảng và tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, đòi hỏi nền kinh tế của Việt Nam phải có được một sự phát triển toàn diện theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Lúc này, nguồn vốn đầu tư trở thành một vấn đề được quan tâm và đề cập đền thường xuyên nhất. Trong cơ cấu vốn đầu tư, nguồn vốn trong nước là nội lực đóng một vai trò quyết định, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là ngoại lực đóng một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Hai nguồn vốn này không chỉ có vai trò đặc thù mà còn có những mối liên hệ, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau cùng tác động lên sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nhóm chúng em được phân công đề tài “Vai trò, mối quan hệ của nguồn vốn trong nước và nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế” làm đề tài nghiên cứu không ngoài mục tiêu tổng kết lại những kiến thức về chuyên ngành Kinh tế Đầu tư, trên cơ sở đánh giá thực trạng về vai trò, mối quan hệ của 2 nguồn vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm gần đây và đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả vai trò, mối quan hệ giữa 2 nguồn vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong quá trình nghiên cứu, tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ hoàn thành đề tài. Trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong Thầy cùng các bạn góp ý để bài viết được hoàn chỉnh.
  4. Chương 1 : Những vấn đề lí luận chung về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. I. Khái niệm phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư. 1. Khái niệm. Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. 2. Phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư. 2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước. Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội. Đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước. Theo lí luận cũng như thực tiễn đã chứng minh bất kì nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện bổ sung từ bên ngoài chỉ mang tính chất tạm thời và chỉ khi sử dụng nguồn vốn trong nước có hiểu quả thì mới nâng cao được vai trò của nguồn bên ngoài này. 2.1.1. Nguồn vốn nhà nước. Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. - Nguồn vốn ngân sách nhà nước. Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Thường chiếm một tỉ trọng nhất định trong toàn bộ khối lượng đầu tư, giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước. Đây là nguồn cung quan trọng để
  5. xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, khi các doanh nghiệp gặp khó khăn cần sự trợ giúp của nhà nước. - Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát vốn ngân sách sang hình thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Đây là hình thức cho vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường tín dụng nên nhà nước phải dành ra một phần ngân sách để trợ cấp bù lãi suất. Có tác dụng giảm chi ngân sách nhà nước và nâng cao trách nhiệm của người sử dụng vốn. Đồng thời có vai trò đáng kể trong việc phục vụ công tác quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô. Do mang tính ưu đãi nên nhà nước chủ động định hướng dòng chảy của nguồn vốn này theo chiến lược quy hoạch đã vạch sẵn để thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế … - Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Nguồn vốn này chủ yếu từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại của doanh nghiệp nhà nước, thường chiếm 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước là thành phần chủ đạo của nền kinh tế và nắm giữ một lượng lớn nguồn vốn của đất nước. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là hoạt động then chốt của nền kinh tế nó và góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, chống lạm phát...
  6. 2.1.2. Nguồn vốn của dân cư và khu vực tư nhân. Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của khu vực dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Trong giai đoạn 2001 – 2005 vốn đầu tư của dân cư va khu vực tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động được của hệ thông ngân hàng. Tiềm năng vốn của khu vực này là rất lớn, nếu có thể huy động triệt để thì sẽ tạo ra được số vốn khổng lồ phục vụ cho nhu cầu đầu tư của cả nền kinh tế. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Đây là khhu vực năng động, nhạy bén, tạo nhiều công ăn việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thất nghiệp thời vụ tại các vung nông thôn, phát huy được các lợi thế của địa phương. 2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư của nước sở tại. Đây là nguồn vốn quan trọng mà mỗi quốc gia đều quan tâm, nó có thể tạo ra cú hích cho sự phát triển. Nó bổ sung vốn cho đầu tư khi nguồn vốn trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu, nhất là đối với các nước đang phát triển khi nội lực chỉ mới đáp ứng hơn 50% tổng nhu cầu về vốn. 2.2.1. Tài trợ phát triển chính thức :ODF. Với ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Với các điều kiện ưu đãi hấp dẫn về lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài, khối lượng cho vay lớn và đặc biệt bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
  7. Nguồn vốn này được cấp qua các cơ quan chính thức của chính phủ nước nhận viện trợ, và để được nhận ODA thì nước nhận đầu tư phải có nguồn vốn đối ứng tương ứng. Nguồn vốn ODA mang mục đích nhân đạo, tăng cường mối quan hệ giữa các nước nên không cấp cho dự án mang tích thương mại. Tuy có nhiều ưu đãi song đi kèm với loại vốn này thường là các điều kiện và ràng buộc bất lợi cho nước nhận viện trợ. Các nước khi đi viện trợ vốn ODA đều gắn với nhũng lợi ích và chiến lược lâu dài để mở rộng thi trường, mở rộng các quan hệ có lợi cho mình, gây ra sự lệ thuộc về quân sự, chính trị, … các nước viện trợ ODA thường yêu cầu các nước nhậ viện trợ phải dỡ bỏ dần hang rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, giảm thuế nhập khẩu. Hơn nữa các dự án ODA thường đòi hỏi phải do các công ty của nước viện trợ trực tiếp thực hiện dự án, với giá cả đắt hơn hẳn so với giá cả chung của thị trường, bỏi vậy cho nên thường hơn 90% nguồn vốn ODA lại chảy về nước viện trợ qua các công ty này. Bởi vây nhiều lúc bản chất của viện trợ ODA là các nước viện trợ tạo điều kiện cho các công ty của nước mình có các hợp đồng béo bở, bởi vậy thực sự khi đi viện trợ họ lại được nhiều hơn mất. Bởi vậy khi đàm phán xin viện trợ cần cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất bất lợi này. 2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế. Đây là nguồn vốn vay từ ngân hàng thương mại quốc tế với lãi suất tương đối cao, có thời gian trả nợ chính xác và thủ tục cho vay khắt khe. Tuy nhiên nó không có các ràng buộc về chính trị xã hội. Đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất thương mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo khi hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Bởi vậy nguồn vốn này thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn của các hoạt động xuất nhập khẩu thường là ngắn hạn.
  8. 2.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước này đến để đầu tư cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận ở một nước khác. Hình thức này không làm phát sinh nợ ở nước nhận đầu tư bởi vì nhà đầu tư thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư thì họ sẽ thu được lợi nhuận khi kết quả đầu tư đi vào hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường mang theo tất cả tài nguyên kinh doanh như phương pháp quản lí, mô hình hoạt động, công nghệ máy móc, … nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, như ngành công nghệ cao hay ngành cần nhiều vốn. Bởi vậy nguồn vốn này có tác động cực kì lớn tới quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đấy nước, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tốc độ tăng trưởng cao và tăng thu cho ngân sách ở nước nhận đầu tư. 2.2.4. Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế. Đây là nguồn vốn được huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới bằng việc bán các chứng khoán của chính phủ và các công ty trong nước ra nước ngoài. Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng, quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác. II. Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1. Vai trò của vốn đầu tư trong nước. Vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển của từng đơn vị kinh tế cũng như của cả đất nước. Bởi sự phát triển của bất cứ hiện tượng sự vật nào cũng phải bắt đầu từ sự chuyển biến thay đổi trong ngay bản thân sự vật hiện tượng đó. Đây là nội lực của mỗi quốc gia nên chúng ta chủ động trong việc thu hút và sử dụng vào các lĩnh vực cần thiết mà không phải chịu bất cứ sự lệ thuộc nào và nó có tính ổn định, đảm bảo hơn nguồn vốn từ nước ngoài..
  9. - Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP , góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển. Bởi các dự án này thường đòi hỏi nguồn vốn lớn, khả năng thu hồi vốn chậm, cho nên các doanh nghiệp không đủ khẳ năng để thực hiện. Hơn nữa vốn trong nước thường được bổ sung cho các doanh nghiệp vơi lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp này tận dụng được cơ hội đầu tư tăng lợi nhuận. Từ đó làm tăng GDP cho xã hội. - Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều và bền vững giữa các vùng miền. Vốn của nhà nước thường được đầu tư vào cách lĩnh vực đòi hỏi quy mô vốn rất lớn như điện lực, dầu khí,… hay vào những ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu dài như các ngành xây dựng đường, các công trình công cộng. Để ưu tiên vốn của các thành phần kinh tế khác đầu tư vào các lĩnh vực sinh lời. Việc phân bổ nguồn vốn của nhà nước theo kế hoạch cũng nhanh chóng tạo xu thế thay đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước. - Thường nguồn vốn trong nước được ưu tiên để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng kinh tế còn yếu kém. Tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiểu quả đầu tư của nguôn vốn, tạo sự vững chắc cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi nguồn vốn đầu tư nước ngoài chỉ lựa chọn địa điểm đầu tư tại nơi có lợi thế so sánh nhất. Do đó nguồn vốn trong nước phải đi trước để chuẩn bị sẵn đón các nhà đầu tư nước ngoài vào như xây dựng các khu công ngiệp, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh… - Góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá trong nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởg và phát triển kinh tế. Đầu tư quá mức gây ra lạm phát. Một phần việc sử dụng vốn thực hiện hoạt động
  10. đầu tư gây ra lạm phát "cầu kéo". Việc sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả lại gây ra lạm phát "chi phí đẩy". Như vậy, đầu tư trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả và kiểm soát cả về mặt lượng và mặt chất của việc sử dụng nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp được nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. - Nguồn vốn đầu tư trong nước phải luôn là đối trọng với nguồn vôn đầu tư nước ngoài để có thể hạn chế được những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo bộ khung kinh tế để có thể chống lại được những tác động của thị trường thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ không nước nào không chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng, mà việc quan tâm là mức độ ảnh hưởng như thế nào và khả năng phục hồi ra sao khi kết thúc khủng hoảng kinh tế. Nhà nước ta vẫn luôn nắm giữ những ngành then chốt trong nền kinh tế như điện lực, tài chinh, viễn thông,…và luôn dành một phần ngân sách nhất định để duy trì, phát triển các lĩnh cực này không cho đầu tư nước ngoài tham gia hay tham gia góp vốn với tỉ lệ hợp lí để nhà nước vẫn luôn nắm các ngành này trong tay. Mặt trái của vốn đầu tư nước ngoài là có thể đó là công cụ để nước ngoài thâu tóm quyền lực chính trị, tạo ra sự phụ thuộc. Bởi vậy việc duy trì những ngành then chốt này là cần thiết. Tuy nguồn vốn trong nước có một vai trò quyết định không thể thay thế như vậy, nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế mà không xem xét đến nguồn vai trò của nguồn vốn nước ngoài thì sẽ là
  11. một sự thiếu sót lớn. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta mới phát triển được hơn 30 năm, khả năng tích lũy của nền kinh tế còn thấp trong khi nhu cầu phát triển lại vô cùng cấp bách, đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn thì nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ là không đủ. Do đó, nguồn vốn trong nước luôn rơi vào tình trạng thiếu và bị hạn chế về cả qui mô và số lượng. Lúc này, sự bổ sung của nguồn vốn nước ngoài đối với nhu cầu về vốn là rất quan trọng và kịp thời. 2. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Nó bổ sung nguồn vốn đầu tư cho, nhất là với Việt Nam chúng ta tích lũy nội bộ còn thấp mới chỉ đáp ứng được hơn 50% nhu cầu vốn đầu tư. Nhờ việc thu hút vốn đầu tư mà vị thế của đất nước trên chính trường quốc tế càng được nâng cao. Đi theo dòng tiền thường là các khoa học công nghệ, kĩ thuật, trình độ quản lí mà nước nhận đầu tư rất cần nhất là với các nước đang phát triển. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nước nhận đầu tư sẽ từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang nước công nghệp hiện đại. Nó làm thay đổi cơ cấu từ ngành có trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu chuyển thành trình độ khoa học tiên tiến hiện đại, nâng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt. - Nhờ có nguồn vốn này mà các mục tiêu xã hội sẽ được quan tâm hơn tạo điều kiện xóa đói giảm nghèo làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Khi có nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, số lượng và quy mô các doanh nghiệp sẽ tăng lên làm tăng việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội. Ngoài ra, nguồn vốn này còn là cơ hội để các nước nghèo, kém phát triển giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo(đặc biệt là nguồn vốn ODA). Chỉ khi giải quyết được các vấn đề xã hội thì nước tiếp nhận vốn mới có được môi trường ổn định để phát triển kinh tế. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện nâng cao trình độ khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Việc đầu tư vào trong nước sẽ đi kèm với
  12. đào tạo đội ngũ lao động hình thành nên đội ngũ lao động có chất lượng cao. Đội ngũ lao động này một phần làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài, bên cạnh đó lại góp phần vào xây dựng đất nước. Nguồn vốn nước ngoài khi vào trong nước sẽ đem theo các công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng thời thực hiện chuyển giao công nghệ. Bởi vậy nước sở tại sẽ được thừa hưởng, học hỏi những công nghệ đó. Trình độ công nghệ của nước nhận đầu tư sẽ tăng lên đáng kể. - Vốn đầu tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước sẽ giúp giảm chi phí vốn và đa dạng hóa rủi ro. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài vô hình chung tạo một áp lực cải thiện thể chế và chính sách lên nước nhận đầu tư. Không chỉ có vậy, đi kèm với nguồn vốn đầu tư nước ngoài là các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm sẽ có tác động tích cực, góp phần cải thiện chất lượng thông tin trên thị trường và nhờ đó tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán. Cơ chế cáo bạch sẽ tăng lên và giúp nước sở tại phát triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, các dịch vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Vậy là, cùng với nguồn vốn đầu tư nước ngoài thị trường tài chính trong nước sẽ từng bước được cải thiện, hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. - Nguồn vốn nước ngoài làm hình thành các loại hình doanh nghiệp mới, các phương thức kinh doanh hiện đại tạo ra môi trường cạnh tranh, nâng cao tính cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong xã hội tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể cho cán cân thương mại quốc tế của đất nước. Tạo điều kiện nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước ngoài và trả nợ từ đó tạo đà cho tăng trưởng và phát triển. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiên giúp nước nhận đầu tư tiếp cận với thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập với thế giới va khu vực.
  13. 3. Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển thi vấn đề thiếu vốn luôn là một vấn đề nan giải. Một quốc gia mà chỉ sử dụng những nguồn lực sẵn có của mình thì sẽ không bao giờ có thể đuổi kịp các nước khác, bởi vậy trên thế giới không có quốc gia nào chỉ sử dụng nguồn vốn trong nước, các nước đều cố gắng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Vì thế hai nguồn vốn này có mối lien hệ chặt chẽ, hữu cơ gắn bó với nhau, tác động lẫn nhau theo nhiều chiều. Tuy nguồn vốn trong nước có một vai trò quyết định, nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế mà không xem xét đến nguồn vốn nước ngoài thì nền kinh tế sẽ mãi trì trệ trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói đó là Thu nhập bình quân thấp  Tiết kiệm, đầu tư thấp   Năng suất thấp  Tăng trưởng chậm Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta mới phát triển được hơn 30 năm, khả năng tích lũy của nền kinh tế còn thấp trong khi nhu cầu phát triển lại vô cùng cấp bách, đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn thì nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ là không đủ. Do đó, nguồn vốn trong nước luôn rơi vào tình trạng thiếu và bị hạn chế về cả qui mô và số lượng. Lúc này, sự bổ sung của nguồn vốn nước ngoài đối với nhu cầu về vốn là rất quan trọng và kịp thời. Bên cạnh đó việc sử dụng vốn đầu tư trong nước còn chưa hiệu quả, chưa tương xứng với tổng số vốn đã chi, gây tổn thất cho nền kinh tế. Nhưng nếu được sự bổ sung kết hợp của nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với sự chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lí thì tổn thất đó
  14. sẽ phần nào được giảm bớt. Như vậy trong mối quan hệ giữa hai nguồn vốn, nguồn vốn nước ngoài có vai trò tác động ngược trở lại nguồn vốn trong nước, là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong việc hỗ trợ, khắc phục những nhược điểm của nguồn vốn trong nước trong tác động đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia. * Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài sẽ làm tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Xét về mặt lượng thì hai nguồn vốn này hoàn toàn độc lập vơi nhau do đó khi kết hợp chúng lại ta sẽ có tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội là tổng của hai nguồn vốn này. * Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chủ yếu theo bề rộng trong đó nhân tố khối lượng vốn đầu tư chiếm vai trò quan trọng chủ yếu tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cho nên sự gia tăng tổng số vốn đầu tư toàn xã hội kéo theo bước tăng trưởng và phát triển đáng kể của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá luôn phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Yêu cầu có tính nguyên tắc này đã được bảo đảm trong suốt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế những năm vừa qua. Mặc dù trong những năm 2001-2005, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đáng kể do tổ chức, sắp xếp lại và thực hiện cổ phần hoá, nhưng tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở mức trên 38% (Năm 2001 chiếm 38,40%, năm 2002 chiếm 38,38%; 2003 chiếm 39,08%; 2004 chiếm 39,10%; năm 2005 ước tính chiếm 38,42%) * Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn tạo nguồn lực tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Một phần vốn đầu tư đã dành cho chương trình phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ tại các xã đặc biệt khó khăn. Tính chung từ năm
  15. 1999 đến hết năm 2005 chương trình đã được đầu tư trên 8850 tỷ đồng. Nhờ vậy, đến hết năm 2004 đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số xã có trạm y tế; 70% số xã có điểm bưu điện văn hoá; 90% số xã có trạm truyền thanh; 65% số xã có công trình nước sạch và 50% số hộ được sử dụng nước sạch. * Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này có thể tạo ra những cú hích nâng cao năng lực khoa học công nghệ của nước ta. Đối với mỗi nước thì khoa học công nghệ luôn là một nguồn lực quan trọng và cần phải đầu tư xây dựng lâu dài, với yêu cầu vốn và nền tảng kĩ thuật cao. Do đó nếu chỉ dựa vào nội lực với nguồn vốn đầu tư trong nước thì quá trình phát triển rất chậm không theo kịp với trình độ phát triển chung của khu vực và thế giới, vì thế cần có sự bổ sung từ nguồn vốn nước ngoài. - Nguồn vốn đầu tư trong nước hỗ trợ tạo điều kiện cho nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn ngân sách nhà nước thường được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng càng hiện đại, càng đồng bộ thì các hoạt động đầu tư càng thuận lợi và do đó nguồn vốn nước ngoài chảy vào càng nhiều. Đồng thời các nguồn vốn trong nước thường được ưu tiên để xây dựng các công trình, lĩnh vực phụ trợ với mức lợi nhuận thấp như xây dựng các khu công nghiệp, các khu chế xuất,… để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào. Do đã được giải phóng san lấp mặt bằng, hệ thống giao thông, điện nước… nên nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ không mất chi phí này mà được dung trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Do đó mức lợi tức cao hơn nên thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn. - Nguồn vốn trong nước hạn chế gây cản trợ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đó là lúc các nước nhận đầu tư thực hiện các chính sách bảo hộ doanh nghiệp trong nước, nhà nước dành cho các doanh nghiệp này những ưu đãi đặc biệt như bù lỗ, tạo độc quyền,…Khiến cho nguồn vốn bên ngoài không thể xâm nhập vào được. Tạo ra
  16. môi trường cạnh tranh không lành mạnh nên làm giảm sức hút đầu tư của bên ngoài. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện nâng cao hiểu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước. Do có nguồn vốn đầu tư nước ngoài bổ sung nên nguồn vốn trong nước sẽ được phân bổ một cách hợp lí hơn giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu phát triển đồng bộ. Các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục… sẽ được quan tâm hơn do nguồn vốn được cấp nhiều hơn, đó là vốn trong nước với tỉ trọng lớn hơn và vốn ODA của các tổ chức quốc tế. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế thì các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người lao động. Từ đây mà tích lũy của đất nước tăng lên, dẫn đến nguồn vốn đầu tư trong nước tăng lên. Cùng với quá trình hội nhập và hợp tác kinh tế với nước ngoài thì những nguồn lực mà trước đây chưa được sử dụng hay sử dụng với hiệu quả chưa cao do thiếu vốn, thiếu công nghệ,… nay được đưa vào sản xuất bằng cách hợp tác sản xuất kinh doanh. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài này do có thừa hưởng trình độ quản lí, khoa học kĩ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến nên thường làm ăn có hiệu quả cao hơn doanh nghiệp trong nước. Do đó cùng với quá trình hoạt động có hiểu quả của các doanh nghiệp liên doanh thì phần vốn góp của phía Việt Nam trong các doanh nghiệp cũng tăng lên từ đó làm quy mô vốn trong nước tăng lên. Hơn nữa thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn thu quan trọng đối với các nước đang phát triển. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm giảm khối lượng nguồn đầu tư trong nước, do các khoản vốn đầu tư nước ngoài đến kì phải trả, mà nếu sử dụng các khoản vay này không hiểu quả thì đây sẽ là vấn đề đáng lo ngại đối với các nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là gánh nặng nợ mà nguồn vốn trong nước phải trích ra để trả nợ, do đó tổng vốn đầu tư trong nước sẽ giảm đi. Không những vậy các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường đi kèm theo các ràng buộc về kinh tế, chính trị. Điều
  17. này có thể dẫn đến tình trạng phụ thuộc mất tự chủ của nước nhận vốn. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới nên cũng làm cho các nước này dễ bị ảnh hưởng của các khủng hoảng kinh tế thế giới. Mà khi bị khủng hoảng thì tất cả mọi mặt của đất nước sẽ bị giảm sút. Chương II.Thực trạng về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: I.Thực trạng về việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Có thể nói vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất va tiến bộ xã hội, vì thế nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiên bộ khoa học kĩ thuật, phát triển cơ sở hạ tâng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ đó tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế của đất nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho nền kinh tế có các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ lệ cao và hướng mạnh về xuất khẩu. Chính điều đó đã dẫn tới nền kinh tế có tốc độ tăng cao và ổn định. Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã có những chuyển biến quan trọng và đạt được những thành tựu lớn lao, nhưng chúng ta vẫn là nước nghèo, mức sống còn thấp, tích tụ và tập trung vốn trong nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư cho cả nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển công nghiệp nói riêng rất lơn và cấp bách. Trong giai đoạn 2001 – 2005, vốn đầu tư trong nước tăng khá nhanh, từ 1240011 tỷ đồng(chiếm 82,04% tổng vốn đầu tư)(năm 2000) lên 292033 tỉ đồng
  18. (năm 2005) chiếm 85,11 % tổng vốn đầu tư ,tính chung trong cả thời kỳ này vốn trong nước chiếm 67,61% tổng vốn đầu tư toàn xã hội,giai đoạn 2006-2007 vốn đầu tư trong nước chiếm 78,96% tổng vốn đầu tư. Đối với Việt Nam, trong thành phần của nguồn vốn đầu tư trong nước, nguồn vốn khu vực nhà nước luôn chiếm một tỉ trọng rất lớn và có một vai trò rất quan trọng; nó là nguồn hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước, những công trình mà các thành phần kinh tế khác không thể hoặc không muốn đầu tư. Nguồn vốn này góp phần thay đổi cơ bản hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, hình thành những ngành công nghiệp mới và nhiều lĩnh vực dịch vụ, cải tạo nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, dần tiếp cận với thị trường thế giới; tạo tiền đề cho quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. 2. Thực trạng về vai trò của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam 2.1 Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam. Khả năng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm 2001-2005 vào khoảng 840 nghìn tỷ đồng (theo mặt bằng giá năm 2000) tương đương khoảng 60 tỷ USD, bằng 1,5 lần tổng vốn đầu tư thực hiện thời kỳ 1996-2000; trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 2/3. Vốn đầu tư trong nước giai đoạn 1995-2007
  19. Năm Tổng vốn đầu tư 1995 50447 1996 64694 1997 78070 1998 92834 1999 108500 2000 124011 2001 140485 2002 165350 2003 200946 (nguồn:tổng cục thống kê) . Tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31-32%, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. Đưa tổng sản phẩm trong nước năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,51%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%; dịch vụ tăng 6,2%.Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm; giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm. Đến năm 2005 tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước chiếm 20-21%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 38-39%; tỷ trọng các ngành dịch vụ chiếm 41-42%. GDP giai đoạn 2000-2008 năm GDP 2000 411646 2001 481295 2002 535762 2003 613443 2004 715307 2005 839211 2006 974266 2007 1144015
  20. Tính ra trong 5 năm 2001-2005, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,51%, đưa quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,44 lần năm 2000. Để có thể đạt được thành tựu như trên thì tổng số vốn đầu tư phát triển 5 năm 2001-2005 theo giá thực tế đã đạt trên 1200 nghìn tỷ đồng, gấp trên 2 lần tổng số vốn đầu tư phát triển huy động được trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tính ra, vốn đầu tư phát triển bình quân mỗi năm trong 5 năm 2001-2005 đạt trên 240 nghìn tỷ đồng, bằng 201,6% mức bình quân mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước đã tăng từ 35,42% năm 2001 lên 37,16% năm 2002; 37,76% năm 2003; 38,45% năm 2004 và ước tính năm 2005 là 38,67%. Tỷ lệ đầu tư của nước ta hiện nay chỉ thấp hơn Trung Quốc, còn cao hơn hầu hết các nước trong khu vực (Tỷ lệ đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước năm 2004 của Trung Quốc là 45,7%; Hàn Quốc 29,3%; Thái Lan 37,8%; Ma-lai-xi-a 22,5%; Phi-li-pin 19,6%, In-đô-nê-xi-a 19,5%; Xin-ga-po 15,3%. Trong tổng số vốn đầu tư 5 năm 2001-2005 thì vốn đầu tư trong nước chiếm tới 84%, cao hơn hẳn tỷ lệ 78,6% của những năm 1996-2000. Sở dĩ có được kết quả này một mặt do Nhà nước tăng cường đầu tư, nhưng mặt khác còn do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài Nhà nước phát triển, trong đó có Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân đã góp phần rất quan trọng. Trong 5 năm 2001-2005 đã có gần 14 vạn doanh nghiệp dân doanh đăng ký thành lập với tổng số vốn đăng ký lên tới 294 nghìn tỷ đồng. Nhờ vậy số vốn của khu vực này chiếm trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 22,6% năm 2001 lên 26,2% năm 2002; 29,7% năm 2003; 30,9% năm 2004 và ước tính năm 2005 là 32,4%..
nguon tai.lieu . vn