Xem mẫu

  1. BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề án kinh tế chính trị “Thị trường tài chính Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển”
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 3 Chương I: Những vấn đề lý luận về tài chính và thị trường tài chính .............. 3 1.1.1 Tài chính .............................................................................................. 3 1.1.1.1 Bản chất của tài chính: ..................................................................... 3 1.1.1.2 Chức năng của tài chính: tài chính có 2 chức năng ........................... 5 1.1.1.3 Vai trò của tài chính .......................................................................... 5 1.1.2 Thị trường tài chính ............................................................................ 7 Chương II: Thực trạng hoạt động của thị trường tài chính ở nước ta thời gian qua ................................................................................................................. 9 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính 1991 tới nay ................................................................................................................. 9 2.2 Vai trò thị trường tài chính trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta những năm qua ........................................................................................... 11 2.3 Thành tựu và những vấn đề cần đặt ra ................................................. 12 Chương III: Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường tài chính ..................... 14 KẾT LUẬN .................................................................................................. 22
  3. LỜI MỞ ĐẦU Thị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường-hay nói chính xác hơn,là nền kinh tế tiền tệ, ở đó,bên cạnh các thị trường khác,thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại. Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn, trung hạn và dài hạn. Ở Việt Nam ,kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn. Sau một qúa trình học hỏi,tìm tòi và nghiên cứu .Dưới sự chỉ dẫn của PSG.TS Vũ Anh Tuấn, tôi đã thực hiện xong đề án “thị trường tài chính Việt Nam,thực trạng và giải pháp phát triển”. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của công ty chứng khoán Thủ Đô, cùng những bạn bè gần xa đã có những lời tư vấn và góp ý chân thành. Chương I: Những vấn đề lý luận về tài chính và thị trường tài chính 1.1 Tài chính và thị trường tài chính 1.1.1 Tài chính 1.1.1.1 Bản chất của tài chính: Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của nhà nước và sản xuất hang hoá. Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong quá trình hình thành,phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
  4. Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và ngược lại đối với người mua. Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và ngược lại đối với nguời mua. Trong quan hệ tài chính thì khác,giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho nhà nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước,do đó quan hệ vè thuế là quan hệ tài chính. Trong thơì kỳ quá độ,quan hệ tài chính biểu hiện qua các quan hệ dưới đây: -Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với nhà nước. Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dân cư,doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và ngược lại. -Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các hoạt động xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi phát triển mạnh mối quan hệ tài chính-quan hệ tín dụng-giữa các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư với ngân hàng. -Quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế với thị trường . Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các “quỹ tiền tệ” tồn tại dưới các hình thức khác nhau.Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội.Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài chính nói trên, quan hệ mua bán “ vốn” giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị truờng tài chính theo phương hướng đã định.
  5. -Quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư…) : Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân, nguời lao động; phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể. Thông qua hướng dẫn, điều tiết, nhà nước vừa đảm bảo cho các quan hệ tài chính không phát triển tự phát như trong chủ nghĩa tư bản; vừa hướng dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.[1 ,trg204 - 206 ] 1.1.1.2 Chức năng của tài chính: tài chính có 2 chức năng Thứ nhất, chức năng phân phối Tài chính tham gia vào cả phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu diễn ra trong lĩnh vực sản xuất vật chất giữa các doanh nghiệp với người lao động và nhà nước. Cụ thể là sau khi các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm, số doanh thu này sẽ được phân phối cho các quỹ: quỹ bù đắp tư liệu sản xuất, quỹ trả công cho người lao động, khoản nộp thuế cho ngân sách nhà nước, khoản trả lợi tức cổ phần,phần còn lại là lợi nhuận của các doanh nghiệp để mở rộng sản xuất và nâng cao phúc lợi của doanh nghiệp. Phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu chung cho xã hội như: duy trì bộ máy nhà nước, phát triển văn hoá, xã hội, y tế, thể thao… Quá trình phân phối lại thông qua ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính trung gian(công ty tài chính, ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty bảo hiểm…) Thứ hai, chức năng giám đốc Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ,tài chính có vai trò như người “giám sát”, “đôn đốc”, “kiểm tra”, “điều chỉnh” tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, nguời ta có thể biết được tình hình thực hiện hoạt động của các doanh nghiệp để có giải pháp điều chỉnh. 1.1.1.3 Vai trò của tài chính Một là, điều tiết kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng: phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dung biện pháp đầu tư
  6. thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dung biện pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những khâu chưa cần thiết… Đồn thời, nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển cân đối theo đinh hướng, muc tiêu. Hai là, xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế-xã hội Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính, một mặt nhà nước cần có những biện pháp cấp bách điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt khác, nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị trường vốn trung hạn,dai hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn chúng phát triển đúng hướng. Ba là, tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại, từ lĩnh vực phi sản xuất sang lĩnh vực sản xuất và từ nước ngoài vào trong nước. Nếu nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển,giảm bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Bốn là, tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu-chi tài chính và phân phối thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông qua chức năng giám đốc, tài chính duy trì kỷ luật tài chính, góp phần đẩy lùi lãng phí, tham ô… Năm là, hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dung hợp lý Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối từng bước cho phù hợp, có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp hoặc cũng có thể thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo, nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp… Sáu là, củng cố liên minh công-nông, tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc phòng.
  7. Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy một nền kinh tế tài chính lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công-nông-trí thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc phòng. [ 1 ,trg 206 – 208 ] [5, trg 547] 1.1.2 Thị trường tài chính 1.1.2.1 Định nghĩa: “Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao dịch và mua bán quyền sử dụng những khoản vốn thông qua các phương thức giao dịch và những công cụ tài chính nhất định” Đối tượng được mua bán trên thị trường tài chính là các khoản vốn Để mua bán các khoản vốn này, người ta sử dụng các công cụ giao dịch nhất định. [14 , web ] 1.1.2.2 Phân loại thị trường tài chính Có nhiều cách đến phân loại thị trường tài chính:  Nếu phân loại theo công cụ tài chính trên thị trường thì ta có: - Thị trường nợ - Thị trường chứng khoán  Nếu phân loại theo thời gian luân chuyển vốn, ta có: - Thị trường tiền tệ: thị trường có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm - Thị trường vốn: thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên  Nếu phân loại theo hình thức phát hành, thì ta có: - Thị trường sơ cấp: thị trường phát hànhc chứng khoán lần đầu tiên - Thị trường thứ cấp: thị trường mua đi bán lại các chứng khoán Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các hình thức phân loại nào thì sẽ tuỳ thuộc vào vấn đề mà người ta muốn nghiên cứu đến. Thông thường, khi nói đến thị trường tài chính người ta thường phân ra theo 2 cách dưới. [ 14, web ] 1.2 Cấu thành của thị trường tài chính Trong một thị trường tài chính hiện đại, luôn có ba thành phần cơ bản sau đây tham gia: Người sử dụng cuối cùng,các định chế tài chính trung gian, và các nhà đầu tư. 1.2.1 Người sử dụng cuối cùng Những doanh nghiệp, tư nhân khi cần đầu tư vốn cho kế hoạch kinh doanh của mình. Họ có thể huy động nguồn vốn này trên thị trường tài chính, bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua các định chế tài chính trung gian.
  8. Họ là những người sử dụng nguồn vốn này để thực hiện các kế hoạch kinh doanh, tạo ra lợi nhuân. Đồng thời, họ cũng có những nghĩa vụ của người vay nợ đối với người cho vay. 1.2.2 Các định chế tài chính trung gian  Các tổ chức nhận ký gửi Các tổ chức nhận ký gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hợp tác xã tín dụng. Các tổ chức này có đặc điểm chung là nhận tiền gửi và sau đó đem cho vay trực tiếp tới các cá nhân, tổ chức cần vốn và một phần khác đem đầu tư vào chứng khoán. Như vậy, thu nhập của tổ chức này có được từ 2 nguồn: thu nhập từ tiền lãi cho vay và đầu tư chứng khoán; thu nhập từ các khoản phí dịch vụ.  Các tổ chức không nhận ký gửi Loại tổ chức này bao gồm các tổ chức như: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư [ 14 , web ] 1.2.3 Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những ngưòi sẵn sang bỏ vốn ra để đầu tư cho các dự án kế hoạch. Trong lĩnh vực tài chính,họ chính là thành phần đầu vào tạo ra nguồn vốn cho các doanh nghiêp. Họ là những người gửi tiết kiệm ngân hàng, mua cổ phiếu,trái phiếu. Mong muốn của các nhà đầu tư là số vốn của mình bỏ ra tạo ra được lợi nhuận. 1.3 Vai trò của thị trường tài chính Thị trường tài chính có 3 chức năng kinh tế cơ bản sau:  Thứ nhất, hình thành giá các tài sản tài chính. Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và những người bán, giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định, hay nói cách khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định. Yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp gọi vốn chính là mức lợi tức mà các nhà đầu tư yêu cầu; và với đặc điểm này của thị trường tài chính đã phát tín hiệu cho biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản tài chính. Quá trình đó được gọi là quá trình hình thành giá.  Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán một tài sản tài chính. Với đặc tính này, thị trường tài chính là thị trường tạo ra tính thanh khoản. Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến khi nào đáo hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào công ty tự nguyện thu hồi hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị
  9. trường tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản sẽ là khác nhau giữa chúng.  Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiến và chi phí thông tin. Để các giao dịch có thể được diễn ra thì những người mua và người bán phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền và thời gian cho việc tìm kiếm này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó là chi phí tìm kiếm. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư như khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ có tính trung lập này – là nơi để người mua, người bán đến đó tìm gặp nhau, là nơi cung cấp các thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp nhất những khoản chi phí trên. Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế, đi từ đơn giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài chính ngày càng có nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian tài chính ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm tài chính đa dạng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia thị trường. [ 2 , trg 23 ] Chương II: Thực trạng hoạt động của thị trường tài chính ở nước ta thời gian qua 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính 1991 tới nay Với sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam vào tháng 7 năm 2000. Ta có thể dựa vào cột mốc đó để chia ra làm hai giai đoạn hình thành và phát triển của thị trường tài chính 2.1.1 Giai đoạn từ 1990 đến 2000 Đây là giai đoạn đầu, phôi thai cho một thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế thị trường. Do chịu ảnh hưởng của một thời kỳ chiến tranh lâu dài, và thời kỳ trước đổi mới, nền kinh tế ta hoạt động một cách quan liêu và bao cấp kém hiệu quả. Sau đổi mới năm 1986, một thị trường tài chính Việt Nam đã dần dần thành hình. Điển hình là qua những sự kiện như:  Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã thông qua và công bố hai pháp lệnh về Ngân hang: Pháp lệnh ngân hang nhà nước và Pháp lệnh ngân hang, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Hai pháp lệnh nói trên đã tạo cơ sở pháp lý để đổi mới cơ bản tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hang, được coi là mũi đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi
  10. mới hệ thống ngân hang, chính sách tiền tệ, tín dụng trong giai đoạn 1990- 2000.  Về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: nhằm thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả. Văn kiện đại hội Đảng VII khẳng định “ cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất- kinh doanh “  Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời và bước vào hoạt động từ 1/10/1995 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước  Các chính sách và quản lý thuế được đưa ra và sửa đổi liên tục nhằm đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của đất nước  Về tổ chức thị trường tiền tệ: trong những năm này, chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã rất chú trọng tạo dựng hệ thống thị trường tiền tệ (bao gồm thị trường tiền gửi, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường trái phiếu kho bạc, nghiệp vụ mở… ). Tuy chưa có điều kiện phát triển nhưng hệ thống thị trường tiền tệ đã góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng ách tắc của lưu thông, thanh toán, phân phối và điều chỉnh các nguồn vốn ở một mức độ nhất định; đồng thời mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các chủ thể kinh tế. Trong giai đoạn này, thị trường tài chính đã dần dần có những bước đột phá và thành công nhất đinh. Nhưng mức độ huy động vốn trong dân, và từ nước ngoài vẫn chiếm một tỷ lệ chưa cao. 2.1.2 Giai đoạn từ năm 2000 cho đến này Cột mốc đánh dấu đáng chú ý nhất, có ảnh hưởng lớn nhất và đáng tự hào nhất của thị truờng tài chính Viêt Nam. Đó chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán, một thị trường vốn- một kênh huy động vốn hiệu quả nhất cho nền kinh tê. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo nên những bước chuyển đổi và nhảy vọt quan trọng. Thị trường tài chính lớn mạnh hơn, giúp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau sở giao dich chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, rồi đến lượt trung tâm giao dich chứng khoán Hà Nội ra đời. Thị truờng tài chính lại bùng nổ, với hàng loạt quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài ra đời, các ngân hàng thương mại cổ phần nhiều hơn, mức độ huy động vốn lớn hơn, tạo ra một súc mạnh lớn cho nền kinh tế. Uớc tính mức vốn hoá của thị trường chứng khoán hiện nay đã là 40% GDP. Con số này sẽ ngày càng được tăng lên trong những thời gian tới. Có thể nói rằng, chưa bao giờ thị truờng tài chính Việt Nam lại phát triển manh mẽ như lúc này. [ 4 , trg 331 - trg 337 ] [10, web] [9, web ]
  11. 2.2 Vai trò thị trường tài chính trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta những năm qua Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh tế hằng năm. Bởi vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một khâu cốt yếu của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta. Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng. Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%. Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên 70% thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh các kênh huy động vốn nói trên hệ thống ngân hàng còn là đầu mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp nhận vốn và cho vay nhiều dự án của WB, ADB,... về điện lực, giao thông nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo. Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín phiếu Kho bạc nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước, phát hành công trái và vốn của Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện, vốn của Bảo hiểm xã hội chuyển cho Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển). Thêm vào đó còn có nguồn vốn ODA do Ngân hàng Phát triển cho vay lại. Trong giai đoạn 2001 - 2005, Chính phủ đã phát hành khoảng gần 60.000 tỉ đồng trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà nước, 8.000 tỉ đồng phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng
  12. khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh... Cuối năm 2005, Chính phủ cũng lần đầu tiên phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế, thời hạn trái phiếu là 10 năm. Giá bán cuối cùng của trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài bằng 98,223% mệnh giá, với lãi suất là 6,875%/năm, tính ra theo lãi suất của nó, lãi suất của 100% mệnh giá trái phiếu là 7,125%/năm. So với một số nước có mức độ tín nhiệm tương đương Việt Nam thì lãi suất trái phiếu của Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, lãi suất trái phiếu cùng kỳ hạn của Phi- lip-pin là 8,075%/năm, của In-đô-nê-xi-a là 7,75%/năm. Toàn bộ số vốn phát hành trái phiếu Chính phủ nói trên được Bộ Tài chính để Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu. Đến ngày 31-12-2005, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tham gia với tư cách "vốn mồi" để thực hiện trên 6.600 dự án thuộc đối tượng hỗ trợ theo quy định của Chính phủ với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký khoảng 160.000 tỉ đồng, đã giải ngân gần 110.000 tỉ đồng, dư nợ 79.578 tỉ đồng. Cùng với hình thức hỗ trợ trực tiếp, hình thức bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng được đẩy mạnh. Đến nay đã có 1.846 dự án được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng số vốn hỗ trợ theo hợp đồng là 1.550 tỉ đồng và 5 dự án được bảo lãnh tín dụng đầu tư với tổng số vốn gần 30 tỉ đồng; với hai hình thức hỗ trợ gián tiếp này đã tạo vốn để huy động hàng chục ngàn tỉ đồng từ các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động gần 7.000 tỉ đồng trái phiếu địa phương; riêng Hà Nội cũng huy động được hàng trăm tỉ đồng qua phát hành trái phiếu xây dựng cầu Thanh Trì. Đây là một giải pháp rất quan trọng để huy động vốn cho đầu tư phát triển, giảm sức ép về cung ứng vốn từ hệ thống ngân hàng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Để giảm sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng và được phép của Chính phủ, một số loại trái phiếu doanh nghiệp cũng được phát hành để huy động vốn trong xã hội, như: trái phiếu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, trái phiếu của Tổng công ty Dầu khí... Tính đến nay, số vốn trái phiếu doanh nghiệp phát hành cũng lên tới vài nghìn tỉ đồng. [ 7, web][9, web][12, web] Một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận hấp dẫn, như: Vinamilk, Công ty Cao su miền Nam, một số nhà máy điện... đã thu được hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng chục ngàn tỉ đồng đã được huy động trong doanh nghiệp tư nhân. 2.3 Thành tựu và những vấn đề cần đặt ra Việt Nam đã có những bước đi hết sức quan trọng trong việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
  13. (WTO) mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam trên con đường phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật ngày càng thông thoáng được đưa vào áp dụng nhằm mở mang chính sách tài chính và ngân hàng đáp ứng với yêu cầu hội nhập Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ, đặc biệt Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư chung có hiệu lực từ tháng 7 năm 2006 là một bước tiến mang tính đột phá. Thực tế đã mở ra nhiều cơ hội mới cho cộng đồng các doanh nghiệp trong và ngoài nước, thị trường hàng hóa và dịch vụ được mở rộng với những luật lệ rõ ràng và minh bạch hơn.Nước ta mở cửa mạnh mẽ nền kinh tế tạo ra rất nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư và dòng vốn từ các nền kinh tế lớn chảy vào gia tăng đáưng kể. Đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam vào tháng 7 năm 2000 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính. Thị trường chứng khoán ra đời càng lúc càng lớn mạnh, đầu tiên là trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh( giờ đã chuyển thành Sở giao dịch chứng khoán ) ,rồi đến trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Mức vốn hóa trên thị trường chứng khoán hiện nay đã chiếm 40% GDP. Đây là những thành tựu đáng tự hào vì đã đạt được. Tuy nhiên, để nền kinh tế đất nước phát huy được hết tiềm năng, thì việc thiết lập một cơ sở hạ tầng tài chính hiệu ích là vô cùng quan trọng. Trong đó việc cải thiện các yếu tố kinh tế cơ bản và các cải cách chính sách đang thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn tại Việt Nam. Sự phát triển của thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ có tầm quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó sự phát triển thị trường trái phiếu cũng như kế hoạch cổ phần hóa có tác động mạnh mẽ đến thị trường cổ phiếu sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư tham gia lớn hơn. Phát triển hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của tín dụng nội địa một cách lành mạnh, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hữu hiệu. Trong thực tiễn đã có những tiến bộ đáng kể đối với hệ thống ngân hàng và hội nhập thị trường vốn quốc tế. Khu vực ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh và kế hoạch cổ phần hóa các ngân hàng quốc doanh có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị trường này. Do đó cần quan tâm tới các vấn đề cổ phần hóa trong ngành ngân hàng, tình trạng nợ xấu đe dọa đến sự ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng và các ngân hàng nước ngoài đóng vai trò đáng kể trong việc phát triển thị trường tài chính. Việt Nam đã thực hiện hàng loạt biện pháp cải cách, trong đó có nhiều nỗ lực đối với việc đơn giản hóa các thủ tục đầu tư kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp. Thực tế đòi hỏi tiếp tục tăng cường hơn nữa sự lành mạnh toàn diện để xây dựng một hệ thống ngân hàng có thể đủ sức chống chọi lại
  14. được những biến động trong các dòng vốn đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là một hệ thống ngân hàng phát triển mạnh các dịch vụ hiện đại mang lại nhiều tiện ích cho đầu tư và có thể điều phối được nguồn vốn vào Việt Nam một cách có hiệu quả là hết sức cần thiết. Việt Nam ngày nay phải nỗ lực nhiều hơn nữa nhằm phát triển một thị trường vốn năng động, thiết lập cơ sở hạ tầng tín dụng có thể đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Song song đó là xây dựng mạng công nghệ thông tin hoàn chỉnh, thiết lập hệ thống đánh giá tín nhiệm đáng tin cậy và những hành lang pháp lý phù hợp cho việc phát triển mạnh nguồn vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt là đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và đưa những doanh nghiệp này tham gia thị trường chứng khoán. Đây là một cam kết thúc đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của thị trường tài chính rộng lớn và qua đó nâng cao lòng tin đối với các nhà đầu tư. Việt Nam đang tiếp tục hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý theo hướng tiếp cận thông lệ quốc tế, tăng cường các biện pháp chống tham nhũng, chống rửa tiền, cải cách hành chính, lành mạnh hệ thống tài chính; duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững, thúc đẩy quá trình quản trị doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, cơ cấu lại các khu vực kinh tế nhà nước và tạo ra sự bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế. Sự phát triển của Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng là hướng về phía trước và có một lộ trình cụ thể thực hiện điều này với một dân số trẻ trung đầy lạc quan sẽ gặt hái được thành công hậu WTO. Các tập đoàn nước ngoài đầu tư mạnh hơn vào Việt Nam chính vì tiềm năng của đất nước và họ đánh giá tương lai nước ta sớm trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất tại châu Á. TPHCM không thể bỏ lỡ cơ hội nhanh chân xây dựng nơi đây là một trung tâm tài chính của khu vực Đông Nam Á, trong đó xác định thu hút đầu tư nước ngoài về lĩnh vực tài chính - ngân hàng là một nhiệm vụ trọng tâm, tạo động lực cho kinh tế Việt Nam hội nhập hiệu quả vào kinh tế khu vực và thế giới. [9 ,web] [13, web] Chương III: Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường tài chính 3.1 Định hướng mở rộng và phát triển thị trường tài chính Việt Nam hội nhập thế giới Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; coi trọng phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Định hướng phát triển tài chính được hoạch định và thực thi dựa trên những quan điểm sau:
  15.  Tài chính là mạch máu của nền kinh tế; có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và mở đường cho sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh; là công cụ sắc bén để Nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.  Chính sách tài chính quốc gia phải hướng vào giải phóng triệt để các nguồn lực trong nước. Đồng thời, xây dựng chính sách động viên hợp lý, hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển kinh tế-xã hội.  Chính sách phân phối và sử dựng các nguồn lực tài chính phải đảm bảo hợp lý và hiệu quả để khuyến khích phát triển sản xuất; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối; tăng cường kiểm tra giám sát tài chính, đảm bảo sử dụng tiết kiệm triệt để mọi nguồn lực tài chính quốc gia.  trong hội nhập và hợp tác tài chính quốc tế, mở rộng quan hệ tài chính đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế về tài chính để phát triển nền tài chính quốc gia.  Quản lý nhà nước về tài chính bằng pháp luật, đảm bảo tính thống nhất,minh bạch, kỷ cương và hiện đại hóa nền tài chính quốc gia; xây dựng đội ngũ công thức tài chính giỏi về chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp, trong sạch, chí công, vô tư. [4 ,trg 163 – 165] 3.2 Các giải pháp mở rộng thị trường tài chính 3.2.1 Thứ nhất, khai thác và động viên cao độ đi đôi với phân phối hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính để đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hấp dẫn, thúc đẩy mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Phân phối và sử dụng hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả nguồn lực đầu tư của toàn xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đồng bộ các vùng, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế gắn với đảm bảo công bằng xã hội. 3.2.2 Thứ hai, đổi mới và phát triển doanh nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Bên cạnh việc đẩy nhanh quá trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng cơ chế chính sách tài chính doanh nghiệp ổn định, bình đẳng, minh bạch; tăng cường quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong đầu tư và huy động vốn. 3.2.3 Thứ ba, đổi mới chính sách tiền tệ, nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá, đảm bảo an toàn tài chính và sự ổn định kinh tế vĩ mô.
  16. Mở rộng hệ thống ngân hàng, cả về số lượng lẫn chất lượng.Tạo điều kiện thúc đẩy và là nhân tố quan trọng giúp lưu thông tiền tệ, làm cho thị trường tài chính lưu động hơn,tạo tính thanh khoản cao. Hiện nay, Có thể thấy rằng, các ngân hàng Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Hiện ngân hàng đã là kênh huy động, cung ứng vốn chính cho nền kinh tế với 30% vốn đầu tư phát triển hàng năm và 40% tổng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Tuy còn thấp hơn so với một số nước khác, nhưng tổng dư nợ tín dụng qua hệ thống ngân hàng vào cuối năm 2005 đã trên 60% GDP, cao hơn mức bình quân chung của các nước có thu nhập thấp. Không những thế, nếu trong những năm giữa thập niên 1990, phần lớn (hơn ba phần tư) nguồn vốn của các ngân hàng đổ vào các doanh nghiệp nhà nước, thì đến cuối năm 2005, con số này chỉ còn khoảng 30%. Ngoài ra, các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò tích cực hơn rất nhiều. Để xây dựng nên một hệ thống ngân hàng lớn mạnh cả về qui mô lẫn chất lượng. Giải pháp được đưa ra là cổ phần hóa, kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Việc có các nhà đầu tư chiến lược là điều hết sức quan trọng. Họ sẽ giúp nâng cao khả năng quản trị, xây dựng chiến lược dài hạn... Bằng chứng là hệ thống ngân hàng các nước đông Âu đã tốt lên rất nhiều nhờ các nhà đầu tư chiến lược. Đây cũng là lý do khiến các ngân hàng thương mại nhà nước Trung Quốc không ngần ngại bán ngay cổ phần cho những đại gia như Bank of America, HSBC, Royal Bank of Scotland Hiện nay,một số ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam đã có những bước tiến rất vượt bậc. Họ đã có những nhà đầu tư chiến lược quan trọng từ nước ngoài, không những mức độ vốn hóa trên thị trường của các ngân hàng trên thị trường càng lúc càng tăng nhanh chóng, mà trình độ quản lý cũng được cải thiện và mang tính chuyên nghiệp cao. Trên thị trường hiện nay đã có hai ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung đó là ngân hàng thương mại cổ phần SACOMBANK và ngân hàng thương mại Á Châu (ACB). Sắp tới đây, nhưng đại gia ngân hàng lớn cũng chuẩn bị cổ phần hóa, mà điển hình la Vietcombank , hay ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV cũng đã có kế hoạch cổ phần hóa trong năm 2008. 3.2.4 Thứ tư, phát triển thị trường tài chính, thị trường dịch vụ tài chính, đáp ứng yêu cầu thu hút các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển.
  17. Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Cần được mở rộng và phát triển hơn nữa. Hiện tại vốn hóa thị trường chứng khoán VN đã đạt khoảng 45% GDP, nếu tính cả trái phiếu thì tương đương hơn 50% GDP. Theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán thời gian qua đã đáp ứng khá tốt nhu cầu của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán vốn nhạy cảm nên để phát triển nhanh và bền vững trong những năm sắp tới, các cơ quan quản lý phải xây dựng một thị trường chứng khoán hiện đại. Để làm được điều đó, việc đầu tư phải tập trung vào một số yếu tố quan trọng như xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển nhưng vẫn phải có sự giám sát, phân tích, dự báo chặt chẽ; sử dụng công nghệ hiện đại; đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực cao, thích ứng được xu hướng tăng của thị trường. Theo số liệu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, đến nay cả hai sàn HOSE và HASTC đã có 225 doanh nghiệp niêm yết. Mới đầu, chỉ có những doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp lên sàn, đến nay dần dần đã mở rộng sang tài chính, ngân hàng, thực phẩm, dược phẩm, công nghệ thông tin, xây dựng... Không chỉ doanh nghiệp trong nước mà cả những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tham gia niêm yết, giúp thị trường ngày càng trở nên sôi động hơn. [11, web][13, web][ 9,web] Để phát triển thị trường chứng khoán ngày càng bền vững, và quy mô ngày càng cao càng rộng. Cần phải có những chính sách phù hợp và hợp lý. Những chính sách của Chính phủ, Ủy ban chứng khoán nhà nước đều có những sự tác động sâu xa đến thị trường chứng khoán. Điển hình như, chỉ thi 03 của Ủy ban chứng khoán vừa mới đây, đã làm cho thị trường có những tác động nhất định. Hay là dự thảo về thuế thu nhập chứng khoán, đều là những chính sách có ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát triển của thị trường chứng khoán. Không nổi đình đám như thị trường chứng khoán và ngân hàng nhưng trong tuần qua, thị trường bảo hiểm VN cũng có những hoạt động đáng chú ý. Liên quan đến chứng khoán, Công ty môi giới bảo hiểm Gras Savoye Willis Vietnam đã có buổi giới thiệu về loại hình bảo hiểm cho các công ty chứng khoán Việt Nam. Theo kế hoạch, công ty này sẽ liên hệ với các công ty môi giới chứng khoán để mở rộng sản phẩm này tại Việt Nam trong thời gian tới. Xét trong bối cảnh TTCK VN hiện nay, đây là thời điểm rất tốt để phát triển loại hình bảo hiểm này cho các công ty chứng khoán tại Việt Nam. Một đại gia trong ngành bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Minh (Bảo Minh) sẽ trở thành nhà bảo hiểm gốc đứng đầu trong hợp đồng bảo hiểm hàng không năm 2007 vừa ký với Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines). Tổng giá trị bảo hiểm của hợp đồng này là trên 4 tỷ USD,
  18. trong đó giá trị bảo hiểm máy bay là trên 2,5 tỷ USD, bảo hiểm trách nhiệm là gần 1,5 tỷ USD và trên 8 triệu lượt hành khách sẽ được bảo hiểm theo các điều khoản của hợp đồng này. Mới đây nhất, lãnh đạo Công ty Bảo Việt Nhân thọ miền Nam cho rằng khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại WTO thì hoạt động đầu tư sẽ càng phát triển mạnh mẽ. Theo đó, mục tiêu doanh thu đầu tư của Bảo Việt Nhân thọ miền Nam trong năm 2007 dự kiến khoảng 1.200 tỷ đồng. Năm 2006, tổng phí khai thác mới của Bảo Việt Nhân thọ miền Nam tăng trưởng trên 12%, tổng chi trả giải quyết quyền lợi bảo hiểm năm 2006 trên 140 tỷ đồng, trong đó chi trả đáo hạn chiếm trên 60%, chi trả quyền lợi định kỳ và lãi chia hợp đồng cho các khách hàng chiếm trên 12%. 3.2.5Thứ năm, mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế về tài chính nhằm củng cố và phát triển nền tài chính quốc gia. Những cam kết mở cửa thị trường đang dần thực hiện, các tổ chức tài chính nước ngoài ngày càng tiếp cận sát hơn thị trường Việt Nam, với chiến lược dài hạn và hết sức rõ ràng, họ đang tạo những chỗ đứng hết sức vững chắc, điển hình như ANZ, HSBC, Standard Chartered Bank, Citi Bank, Dragon Capital... Việc giành thắng lợi và chiếm lĩnh thị trường của họ là điều hiển nhiên. Đối với các doanh nghiệp trong nước, thì cần phải củng cố chính sách, phương hướng hoạt động để có thể cạnh tranh với các tổ chức tài chính hàng đầu thế giới. Khi mà Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều kiện hội nhập, đòi hỏi các tổ chức tài chính Việt Nam muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có những bước đi rõ ràng và chắc chắn. 3.2.6 Thứ sáu, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo hoạt động tài chính thông suốt, chất lượng và hiệu quả. 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính Để đạt mục tiêu huy động vốn đầu tư toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế, cần hết sức chú trọng các giải pháp về huy động khai thác các nguồn lực tài chính. Có thể nói trọng tâm của các giải pháp huy dộng các nguồn lực tài chính cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới không chỉ chú trọng tới huy động các nguồn nội lực, mà còn chú trọng đến các nguồn vốn nước ngoài, kể cả dưới hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. 3.3.1 Về chính sách tài khoá Tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước, trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn
  19. với việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách hiện hành để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp. Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát triển con người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền vững, xoá đói, giảm nghèo. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất, vai trò chủ đạo và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm và tính chủ động trong quản lý ngân sách của các bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách. 3.3.2 Về cải cách hệ thống chính sách thuế và hải quan Triển khai có hiệu quả chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính sách thuế đồng bộ, công bằng, hiệu quả, minh bạch và công khai nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, bảo đảm nguồn lực tài chính lâu dài và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân; sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng nhằm bảo đảm công bằng và đơn giản, hoàn thiện phương pháp tính thuế, khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế; sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế và không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước, hàng nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm giảm mức thuế suất, diện miễn giảm và hướng tới thống nhất mức ưu đãi giữa các thành phần kinh tế; hoàn thiện chính sách thuế về sử dụng đất, thuế tài nguyên như ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường, Luật Thuế tài sản. Xây dựng và triển khai Luật Quản lý thuế; áp dụng rộng rãi cơ chế tự khai, tự nộp thuế trong quản lý thuế kết hợp với hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hiện đại hoá hệ thống hải quan; chuẩn bị các điều kiện cần thiết về hệ thống pháp lý để nhanh chóng gia nhập Nghị định thư sửa đổi Công ước Kyoto của Hải quan Thế giới. 3.3.3 Về thị trường vốn Tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài hạn, an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước hội nhập với
  20. thị trường vốn khu vực và thế giới. Đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính phủ làm chuẩn mực cho các công cụ nợ; khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phần, trái phiếu; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là gắn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và tạo tiền đề phát triển thị trường chứng khoán. Hoàn thiện thể chế hoạt động của thị trường chứng khoán, phát triển hệ thống các định chế tài chính trung gian, mở rộng thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức (qua Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán) và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; thực hiện giám sát và cưỡng chế thực thi nghiêm ngặt; áp dụng nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, công ty đại chúng. Từng bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn quốc tế. 3.3.4 Về cải cách doanh nghiệp Xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, bảo đảm bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính theo hướng đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp gắn liền với việc tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả các tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Đổi mới căn bản chính sách, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh với chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp; xoá bỏ cơ chế chủ quản; áp dụng cơ chế nhà nước đặt hàng việc sản xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công ích. Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước từng bước đảm nhiệm vai trò quản lý đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và chức năng đầu tư tài chính. Thực hiện cơ chế tín dụng đầu tư Nhà nước thông qua Ngân hàng phát triển Việt Nam; tạo cơ chế chính sách để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với thị trường vốn (như Quỹ Bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa…). 3.3.5 Về quản lý tài sản công
nguon tai.lieu . vn