- Trang Chủ
- Báo cáo khoa học
- Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp Phát triển chăn nuôi lợn bền vững qui mô nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
Xem mẫu
- Ministry of Agriculture & Rural Development
B¸o c¸o tiÕn ®é cña dù ¸n
Ph¸t triÓn ch¨n nu«i lîn bÒn v÷ng qui m«
n«ng hé t¹i mét sè tØnh miÒn Trung ViÖt Nam
CARD Project 004/05VIE
NỘI DUNG 4: ĐIỀU TRA CƠ BẢN
- 1. Th«ng tin vÒ c¸c ®èi t¸c
Ph¸t triÓn ch¨n nu«i lîn bÒn v÷ng qui m« n«ng hộ
Tªn dù ¸n
tại mét sè tØnh miÒn Trung ViÖt Nam
Viện Chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông
§èi t¸c phÝa ViÖt Nam
lâm Huế (HUAF); Viện Thú Y Quốc gia (NIVR)
Dr. Tạ Bích Duyên (NIAH), Dr. Nguyen Quang Linh
Tr−ëng Dù ¸n phÝa ViÖt nam
(HUAF), Dr. Cu Huu Phu (NIVR)
The University of Queensland/Victorian Department of
§èi t¸c phÝa Australia
Primary Industry/South Australian Research and
Development Institute/University of Sydney
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr
Tªn c¸n bé tham gia dù ¸n phÝa
Tony Fahy, Dr Trish Holyoake
Australia
Ngµy b¾t ®Çu 1 th¸ng 4 n¨m 2006
Ngµy kÕt thóc (dù ®Þnh ban ®Çu) th¸ng 4 n¨m 2009
Ngµy kÕt thóc (sau khi ®· söa th¸ng 9 n¨m 2009
ch÷a)
Nội dung 4
Giai ®o¹n viÕt b¸o c¸o
NIVR dongocthuy73@yaoo.com
Cơ quan Email
2. Các kết quả đạt được
a) Điều tra và phân tích 80 hộ chăn nuôi được chọn ngẫu nhiên (10-15 nái) và 20 trại lớn hơn ở 4
tỉnh, bao gồm các số liệu về mức độ chăn nuôi, cơ chế dinh dưỡng, trạng thái sức khỏe và vệ
sinh, chế độ chăm sóc và quản lý, các tác động môi trường, phân loại lao động, thu nhập và lợi
nhuận.
b) Xác định các hướng ưu tiên thích hợp của dự án và lựa chọn các hộ chăn nuôi cho mục đích tập
huấn và dùng làm các trại mô hình, đánh giá các tác động tiềm tàng về tự nhiên và tài chính
Bằng chứng:
a) Điều tra:
Trường UQ đã tiến hành xây dựng, kiểm tra về căn bản và đưa vào sử dụng 1 cơ sở dữ liệu on-line
nhằm ghi chép lại 1 cách chính xác các điều tra trên giấy, bao gồm cả khả năng đăng tải hình ảnh.
Vai trò của hệ cơ sở dữ liệu này không phải là để tập trung các số liệu 1 cách thấu đáo từ tất cả các
trại được điều tra ở Việt Nam, mà là để có thể nhận ra 1 cách nhanh chóng hệ thống nào có hoạt
động, các trở ngại chính đối với chăn nuôi và loại tác động nào cần phải được tiến hành. Bởi vậy,
các số liệu thu thập được từ mỗi trại được lựa chọn cho các điểm trình diễn sẽ có phạm vi rộng hơn
và mỗi lần trại được kiểm tra lại, các ghi chép về hình ảnh sẽ được tiến hành để bổ xung thêm cho
các phân tích về số liệu.
- Hiện giờ, chúng tôi đang tiến hành kiểm tra trên phạm vi rộng trong lãnh thổ Việt nam và vẫn đang
thiết kế 1 vài phiên bản khác nhau. Phiên bản mới đây nhất có thể được truy cập tại địa chỉ:
http://survey.library.uq.edu.au/pigs/
Để xem được số liệu, cần phải gõ vào phần "username" với tên là "AUSAIDCARD", và "password"
với tên là: "pỉgproject". Sau đó, nhấp vào nút "Edit and existing form", rồi nháy "Display all posible
forms" để chọn 1 trại riêng rẽ và xem các số liệu của trại đó. Nháy vào "Submit your data now" ở
phần kết thúc số liệu của mỗi trại để quay lại màn hình bắt đầu. (Chú ý là bạn sẽ có thể nhận được
dòng tin nhắn sau: Sorry. As user AUSAIDCARD you don't have rights to edit records).
Các số liệu đã được cập nhật mở màn với tổng cộng 40 trại ở tỉnh Bình Dịnh (do NIVR chịu trách
nhiệm), 44 trại ở Quảng Trị (do NIAH chịu trách nhiệm), 87 trại ở Quảng Nam và 98 trại ở Thừa
Thiên Huế (do HUAF chịu trách nhiệm)
Chúng tôi đã nhận ra 1 số vấn đề khi tiến hành điều tra này. Điều này trở nên rõ ràng khi chúng tôi
may mắn có được 1 tình nguyện viên là sinh viên chuyên ngành thú y để giành thời gian vài tháng ở
Việt Nam (1/12/2007-26/1/2008) để làm việc trong khuôn khổ dự án của chúng tôi. Sinh viên này
đã kiên trì dịch tất cả các điều tra trên giấy sang tiếng Anh và đã kiểm tra hệ thống online bằng việc
kết nối Internet trong điều kiện tại thực địa. Có 1 số nhận xét như sau: thứ nhất, có 1 vài điểm điều
tra quan trọng đã bị thất lạc trong quá trình dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Thứ hai, có 1 vài sự
khác nhau trong quá trình viết phiếu điều tra giữa các cơ quan nghiên cứu. Thứ ba, đã phát hiện
thấy có sự chạy không đều của chương trình mà trước đó đã không được phát hiện thấy khi hệ
thống được chạy thử nghiệm tại Australia. Thứ 4, trong quá trình tiến hành các điều tra tại các trại
đã được chọn lựa cho mục đích nâng cấp, tập huấn và tiến hành các tác động liên tục, chúng tôi đã
phát hiện ra rằng có 1 vài câu hỏi cần phải được thay đổi để có thể thu được các thông tin 1 cách
đúng mức hoặc thay đổi chất lượng của thông tin thu được. Cuối cùng, mạng internet tại Việt nam
rất chậm đôi khi cũng đã gây khó khăn cho việc điền các phiếu điều tra trực tiếp online, cũng như
việc thu nạp các hình ảnh và kế hoạch. Chi tiết hơn về những điều này có thể được tìm thấy trong
báo cáo về chuyến đi của Ms. Tarni Cooper (xem Phụ lục 1: Ms Tarni Cooper Trip report). Sinh
viên này cũng đã kiểm tra, đối chiếu rất nhiều thông tin và đã giành thời gian là vài tháng trước đó
để làm việc với tác giả của trang web tại trường UQ, Warren Ham, để xây dựng 1 phiên bản ngắn
gọn của bộ câu hỏi điện tử (đã báo cáo trong MS3-phiên bản ngắn này đã được Mr. Phuong từ
HUAF thu gọn) và đã sửa chữa lại tất cả các lỗi được phát hiện thấy. Sinh viên này cũng đã được
tuyển dụng (trong 1 nguồn dự án khác), giành 10 tiếng/tuần để tiếp tục xây dựng các dữa liệu và
trang web cho dự án, đồng thời giữ mối liên hệ với các nhà khoa học phía Việt Nam, đặc biệt là với
Mr. Bien từ NIAH và Mr. Phuong từ HUAF để tiến hành kiểm tra chất lượng của các số liệu thu
thập được. Sự đóng góp của cô ây đối với dự án là rất hiệu quả và chúng tôi đã lập kế hoạch cho cô
ấy sẽ giành 2 tháng nữa ở Việt Nam vào khoảng cuối năm nay để tiếp tục các công việc có ích.
Thực tế, rất khó để các nhà khoa học Australia có thể giành thời gian hơn vài tuần công tác tại Việt
nam, bởi vậy việc chú ý đến các chi tiết như mức độ chính xác và đồng nhất của các theo dõi điều
tra điện tử giữa các cơ quan nghiên cứu là điều không thể thực hiện được. Vì vậy, việc thay thế
bằng 1 sinh viên sẽ giúp thúc đẩy tình bạn, sự hợp tác và cơ hội tập luyện tuyệt vời để trở thành 1
bác sí thú y trong tương lai - 1 người luôn ước ao được làm việc tại các cộng đồng đang phát triển.
b) Phân tích:
HUAF đã tiến hành phân tích các kết quả từ các điều tra của họ (tổng cộng khoảng 220 trại tại Thừa
Thiên Huế và Quảng Nam), sử dụng phần mềm SPSS, có thể được tóm tắt như sau: (xem Phụ lục 2:
Report of Survey Activities in Quang Nam and Thua Thien Hue). Số lượng lợn nái dao động từ 1
đến 20, với số trung bình là 3.5 và 84% nuôi lợn Móng Cái. Tổng số có 93% số hộ nuôi ít hơn 11
nái (có nghĩa là 1-10), và 89% nuôi ít hơn 6 nái (1-5). Các số liệu về nhân khẩu đã chỉ ra 1 thực tế là
98.4%, 80%, 35% và 7% nông dân theo thứ tự có trình độ tiểu học, trên tiểu học, trung học cơ sở và
trên trung học cơ sở, nhưng trình độ học vấn này không có liên quan gì đến số lượng lợn nái được
nuôi. Điều đáng chú ý là tất cả các nông dân đều có nhiều hơn 5 năm kinh nghiệm chăn nuôi lợn và
- 89% số hộ có nhiều hơn 10 năm kinh nghiệm. Số lợn con trung bình sinh ra và sống là 12.04 +
1.63, đối với lợn Móng Cái là 12.61, còn lợn ngoại chỉ là 9.95. Số chết khi sinh (bao gồm cả tỷ lệ
chết ngay sau khi sinh do con mẹ đè bẹp) trung bình là 15.9% (13.7% đối vưói lợn Móng Cái và
32.8% đối với lợn ngoại). Lợn Móng Cái là những con mẹ tốt và ít khi phải yêu cầu có chuồng đẻ
riêng. Trên 80% số đàn con sinh ra đã được báo cáo là có mắc tiêu chảy. Các nguyên nhân gây ra
tiêu chảy ở lợn con bao gồm chuồng trại quá sơ sài, thiếu thiết bị để khống chế nhiệt độ, thiết
vaccine phòng bệnh do E. coli, hệ thống chăm sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh kém, kể cả những kỹ
thuật đơn giản nhất như việc rửa dọn chuồng nuôi hàng ngày. Các trở ngại chính cho việc giảm
năng suất chăn nuôi bao gồm dinh dưỡng và chế độ ăn nói chung (giới hạn lượng thức ăn cho lợn
nái trong 1 ngày), chuồng trại và thông thoáng gió, thiếu các con đực để kích thích, làm chậm và
không đều chu kỳ động dục của con nái, thiếu số liệu được ghi chép ngay tại trại, điều đó có nghĩa
là không thể xác định 1 cách chính xác số lợn con/nái/năm được sinh ra. Lợi ích chính của điều tra
này cũng được tóm tắt trong phần trình bày bằng powerpoint do Dr. Colin Cargill trình bày vào
tháng 10 năm 2007 trong chuyến thăm của CARD tới trường UQ (xem Phụ lục 3: CARD
REPORT). Số liệu điều tra ở dạng Excel cũng đã được tổng hợp và có thể trình bày khi có yêu cầu,
các theo dõi riêng rẽ của từng trại cho hầu hết các trại cũng đã được đăng nhập vào hệ thống trên
mạng.
NIAH và NIVR đã nhập các số liệu điều tra các trại của họ ở Quảng Trị và Bình Định vào file dạng
Excel (chi tiết có thể liên lạc với Dr. Duyen NIAH; Dr. Thuy NIVR), nhưng chưa được tiến hành
phân tích chi tiết vì còn đang đợi hệ thống quản lý từ trường UQ hoạt động hoàn chỉnh, 1 việc mà
chỉ có thể hoàn thành cách đây vài tuần sau khi các vấn đề rắc rối đã được Ms. Tarni Cooper và
người thiết kế trang web của UQ gỡ bỏ. Tuy nhiên, dựa trên rất nhiều chuyến đi tới Quảng Trị (báo
cáo chi tiết do Colin Cargill báo cáo, đã nộp cùng với MS3), có 1 điều có thể nhận thấy là ngoài sự
khác nhau về khí hậu tại địa phương va loại thức ăn có sẵn, các trại đều có 1 số vấn đề tương tự
nhau như đã được nhận thấy ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế. Các phân tích về bộ số liệu kết hợp
của 4 tỉnh (Bình Định, Quảng Trị, Quảng Nam và Thừa Thiên Huế) sẽ đòi hỏi việc dịch, biên tập và
kiểm tra chéo 1 cách hết sức cẩn thận bởi Ms. Tarni Cooper (hiện chị đã rất hài lòng với hệ thống
online) trong chuyến đi Việt Nam tới đây để xác nhận lại mức độ chính xác và sửa lại những chỗ
không đồng nhất giữa các cơ quan nghiên cứu. Chúng tôi cũng dự định sẽ công bố các số liệu này
trên các tạp chí có uy tín, bởi vậy chúng tôi cam kết đảm bảo mức độ chính xác và đống nhất của số
liệu này. Chúng tôi cũng đã được đưa ra lời khuyên là nên tiến hành điều tra lại 1 lần nữa tất cả các
trại và tiến hành so sánh số liệu với các điều tra trước đây, khi mà hệ thống ghi nhận số liệu hiện tại
đã hoàn hảo. Công việc này sẽ được tiến hành khi kết thúc dự án vào năm 2009, nhưng các vấn đề
đang xảy ra với bệnh FMD và PRRS tại Việt Nam có thể kéo công việc này tiến hành vào tháng 1
năm 2009.
c) Xác định các hướng ưu tiên hàng đầu thích hợp của dự án (xem Phụ lục 4: High priority project
interventions).
d) Lựa chọn các nông hộ để làm mô hình trình diễn:
Cả NIAH và HUAF đã tiến hành phân loại và chọn 25-30 trại hàng đầu để tiến hành nâng cấp thành
các điểm trình diễn. Nâng cấp các cơ sở vật chất, nhập lợn giống, áp dụng các kỹ thuật tiến bộ nhất
và liên tục cải thiện là những việc đã từng được áp dụng ở các trại đã được chọn lựa này trong suốt
1 năm qua. Hầu hết các trại vẫn trong quá trình thực thi, nhưng các tiến bộ rõ rệt đã có thể được
quan sát thấy. Các trại đã được chọn lựa có thể xem được trong hệ thống dữ liệu vào bất kỳ thời
điểm nào bới vì các thông số về các trại này đã được đăng nhập hoàn chỉnh, mỗi trại được nhận biết
bằng 1 mã số riêng và tên người phỏng vấn (Tarni). Mỗi theo dõi của trại cũng có cả kế hoạch hành
động của trại, việc nâng cấp và cải tiến, các bức ảnh của người chủ và gia đình họ, các bức ảnh về
khu chuồng và đàn lợn chỉ ra những thay đổi mà họ đã làm được trong suốt quá trình thực hiện dự
án. Hiện tại, các khả năng đăng nhập đang được tiến hành làm với các chỉ tiêu để xác định vị trí của
trại (kinh độ, vĩ độ) để có thể được xác định bằng hệ thống GPS. Việc này sẽ được thực hiện trong
chương trình tập huấn vào tháng 5.
e) Những rủi ro đối với dự án:
- Dịch bệnh PRRS (tai xanh) hiện nay đã được xác định tại tỉnh Thua Thien Hue và tính cho tới thời
điểm này đã có ảnh hướng đến 3 trại trong số các trại của nghiên cứu này (Phụ lục 5: Pictures of pig
slaughters from TTH). Một đợt dịc bệnh và kết quả là phải tiến hành thanh toán hoặc chiến dịch
quản lý là cai mà dự án của chúng tôi không thể tránh được tại thời điểm này. Cho dù là các nông
dân đã được bồi thường các thiệt hại, chúng tôi cũng không thể tự tin để nói rằng chương trình tập
huấn và kể hoạch cải tiến liên tục đàn giống, trang thiết bị, quản lý và chăm sóc nuôi dưỡng sẽ cho
phép nông dân bắt đầu lại và tăng sản lượng chăn nuôi của mình 1 cách nhanh chóng.
nguon tai.lieu . vn