- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam - Các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường đối với các hộ nông dân mục tiêu thông qua việc tiếp nhận các phương pháp được đề nghị để cải tiến chất lượng ca cao (so sánh với khảo sát thực tế)
Xem mẫu
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Chương trình
Hợp tác Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
013/VIE05
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng
ca cao ở Việt Nam
Báo cáo tiến độ
Mục 9: Các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường
đối với các hộ nông dân mục tiêu thông qua việc tiếp nhận các phương pháp
được đề nghị để cải tiến chất lượng ca cao (so sánh với khảo sát thực tế).
- NỘI DUNG
1. Thông tin cơ quan _____________________________________________________ 1
2. Tóm lược dự án _______________________________________________________ 2
3. Tóm lược kết quả chính đạt được ________________________________________ 2
4. Giới thiệu và cơ sở của dự án____________________________________________ 5
5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại __________________________________ 6
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật ________________________________________________ 6
5.2 Lợi ích cho các nông hộ ___________________________________________________ 6
5.3 Xây dựng năng lực _______________________________________________________ 7
5.4 Sự quảng bá_____________________________________________________________ 7
5.5 Quản lí dự án____________________________________________________________ 7
6. Báo cáo về các vấn đề liên quan__________________________________________ 8
6.1 Về môi trường ___________________________________________________________ 8
6.2 Về giới tính và xã hội _____________________________________________________ 8
7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững __________________________________ 11
7.1 Vấn đề và giới hạn ______________________________________________________ 11
7.2 Các chọn lựa ___________________________________________________________ 12
7.3 Tính bền vững __________________________________________________________ 12
8. Các bước chính tiếp theo ______________________________________________ 12
9. Kết luận ____________________________________________________________ 13
- 1. Thông tin cơ quan
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam.
Tên dự án
Trường Đại học Cần Thơ
Cơ quan Việt Nam
Tiến sĩ Hà Thanh Toàn
Điều hành dự án phía Việt Nam
Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM
Cơ quan Việt Nam
Tiến sĩ Phạm Hồng Đức Phước
Điều hành dự án phía Việt Nam
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Tây Nguyên
Cơ quan Việt Nam
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thường
Điều hành dự án phía Việt Nam
QDPI&F
Tổ chức Úc
Neil Hollywood
Nhân sự
02/2006
Ngày bắt đầu
02/2008
Ngày hoàn thành (lúc đầu)
06/2008
Ngày hoàn thành (lúc sau)
Nhân viên liên hệ
Phía Úc: Điều hành
Neil Hollywood 617 34068643
Tên: Điện thoại:
Nhà vi sinh vật học 617 34068699
Chức vụ: Fax:
QDPI&F Neil.hollywood@dpi.qld.gov.au
Tổ chức: Email:
Phía Úc: Liên hệ hành chính
Michelle Robbins 617 33462711
Tên: Điện thoại:
Nhân viên kế hoạch 617 33462727
Chức vụ: Fax:
QDPI&F Michelle.robbins@dpi.qld.gov.au
Tổ chức: Email:
Phía Việt Nam
Hà Thanh Toàn 84 71 830604
Tên: Điện thoại:
Giám đốc Viện NC&PT CNSH 84 71 830604
Chức vụ: Fax:
Trường Đại học Cần Thơ httoan@ctu.edu.vn
Cơ quan: Email:
1
- 2. Tóm lược dự án
Chính phủ Việt Nam đang tập trung vào chất lượng cao của hạt ca cao Việt Nam và đề ra
mục đích sẽ có 10.000 hecta trồng ca cao đến 2010, với trọng tâm là ở tỉnh Đắc Lắc và
Đồng bằng Sông Cửu Long, là vùng ưu tiên cho dự án CARD. Các hộ nông dân sản xuất
nhỏ sẽ canh tác hầu hết ở vùng này và thấy rằng giá trị cao của ca cao có thể giúp sự phát
triển nông thôn. Tuy nhiên, có ý kiến rằng Việt Nam sản xuất ca cao được lên men chất
lượng cao với giá cao chênh lệch, điều đó sẽ tăng thêm thu nhập cho người nông dân
trồng ca cao Việt Nam. Phương thức tốt nhất để đảm bảo chất lượng tốt là huấn luyện
những chuyên gia Việt Nam về phương pháp đánh giá các chỉ tiêu chất lượng ca cao, các
phương pháp lên men và sấy khô. Những nhà khoa học của nhóm phát triển ca cao Việt
Nam sẽ được chọn để huấn luyện bao gồm các nhà khoa học của Đại học Nông Lâm, Đại
học Cần Thơ (nằm tại một trong những vùng trồng ca cao rộng lớn nhất Đồng bằng Sông
Cửu Long), và WASI (Viện nghiên cứu ca cao của chính phủ, đặt tại tỉnh Đắc Lắc). Trong
dự án, phương pháp lên men và sấy mặt trời hạt ca cao ở phạm vi hộ gia đình, đã được
phát triển ở các nước khác, sẽ được kiểm chứng và điều chỉnh trong điều kiện Việt Nam
và sự chấp nhận làm theo các yêu cầu thực tiễn của người dân. Những phương pháp này
sẽ được chuyển giao cho các hộ nông dân và các hệ thống khác. Kế tiếp sau đó, đội ngũ
cán bộ được tập huấn phân tích hóa học và cảm quan ca cao dưới sự chỉ đạo của QDPI&F.
Điều này sẽ đáp ứng mục đích sản xuất ca cao với chất lượng mong muốn, từ đó ca cao có
thể được kiểm soát bởi các đơn vị Việt Nam tham gia dự án.
3. Tóm lược kết quả chính đạt được
• Các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường đối với các hộ nông dân mục tiêu
thông qua việc tiếp nhận các phương pháp được đề nghị để cải tiến chất lượng
ca cao (so sánh với khảo sát thực tế).
Các đề nghị cuối cùng liên quan đến việc thiết kế và lựa chọn nguyên vật liệu phù hợp cho
thiết bị sấy năng lượng mặt trời đã được hoàn tất vào tháng 8/2006. Công việc này được hoàn
tất trong chuyến công tác của kỹ sư đến từ QDPI&F. Từ thời gian đó, đã có 8 thiết bị sấy
được làm sẵn tại Trường ĐH Cần Thơ. Các thiết bị sấy này được chuyển đến các hộ nông
dân khác nhau. Một thiết bị sấy được giữ lại tại ĐH Cần Thơ để làm mô hình trình diễn, thực
hiện các nghiên cứu và với các mục đích chuyên môn. Ba thiết bị sấy được lắp đặt cho các hộ
nông dân ở Bến Tre, 2 chuyển cho Đắc Lắc và 1 cho Cần Thơ. ĐH Nông Lâm và WASI mỗi
đơn vị được nhận một thiết bị để làm mô hình trình diễn, thực hiện các nghiên cứu và với các
mục đích chuyên môn. Tương tự như vậy, các bộ thùng lên men với 4 kích cỡ khác nhau
(10kg, 25kg, 50kg và 100kg) cũng đã được chuyển giao cho các hộ nông dân và các cơ quan
nghiên cứu. Tất cả các hộ nông dân được nhận thiết bị sấy và các thùng lên men đều được
tham gia trong các đợt khảo sát để ghi nhận các ảnh hưởng của chúng đến khả năng thực hiện
sơ chế ca cao, các phương pháp thực hiện và thu nhập của họ.
Một quyển sổ tay cho nông dân về các kỹ thuật lên men và sấy chỉ mới được hoàn thành vào
đầu năm nay do có sự chậm trễ trong việc hoàn tất các thử nghiệm lên men và các kết quả
đánh giá cảm quan ca cao. Quyển sổ tay này hiện tại đang được hiệu chỉnh các định dạng lần
cuối trước khi tiến hành in ấn. Do sự chậm trễ trong việc hoàn thành các khuyến cáo về qui
trình lên men nên chúng chưa được phổ biến đến các nông hộ. Do đó, quá trình khảo sát chỉ
có thể đánh giá tác động của việc áp dụng các thiết bị sấy bằng năng lượng mặt trời đến các
kỹ thuật sản xuất và thu nhập của họ. Các đặc tính chất lượng của ca cao thì không bị ảnh
2
- hưởng lớn bởi việc áp dụng thiết bị sấy so với các phương pháp làm khô truyền thống. Tuy
nhiên các kết quả từ các thử nghiệm lên men cho thấy đã cải tiến được chất lượng ca cao khi
áp dụng chúng.
Phân tích khuynh hướng tài chính của nông dân từ việc cải tiến chất lượng ca cao
Kết quả đầy đủ thông qua các cuộc khảo sát nông dân được thực hiện trước và sau khi thiết bị
sấy được lắp đặt tại các nông hộ được trình bày ở phần tài liệu đính kèm của báo cáo mục 8.
Tóm tắt các kết quả chính
Đợt khảo sát nông hộ đầu tiên được thực hiện tại tỉnh Bến Tre vào tháng 8/2006 về các vấn
đề liên quan như: các kỹ thuật canh tác, thu hoạch và sơ chế ca cao, thời gian, công lao động,
chi phí và thu nhập liên quan đến ca cao. Cuộc khảo sát này được thực hiện để thiết lập các
dữ liệu cơ bản như: năng suất, thu nhập, thời gian và công lao động và các vấn đề có liên
quan thông qua việc phỏng vấn 50 hộ nông dân. Các kết quả cơ bản đã được trình bày trong
phần báo cáo điểm mốc thực hiện 2 của dự án vào tháng 12/2006.
Sau cuộc khảo sát này, có 3 hộ nông dân ở tỉnh Bến Tre được cung cấp thiết bị sấy ca cao
vào nửa cuối năm 2006. Một cuộc khảo sát sau đó được thực hiện vào tháng 12/2007. Cuộc
khảo sát này được thực hiện bao gồm 25 hộ nông dân từ đợt khảo sát ban đầu năm 2006, có 2
trong số họ đã được cung cấp thiết bị sấy và 25 hộ nông dân mới không có trong đợt khảo sát
năm 2006. Một trong số 25 hộ nông dân mới này đã được cung cấp thêm 1 thiết bị sấy bằng
năng lượng mặt trời. Ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ nông dân được tóm tắt bên dưới và
được trình bày chi tiết trong phần báo cáo kết quả khảo sát đính kèm báo cáo mục 8. Một vấn
đề liên quan đến khảo sát là các hộ nông dân thường không thể cung cấp chính xác các thông
tin có liên quan đến sản lượng và thu nhập của họ. Thông thường thì các hộ nông dân chỉ
cung cấp một các tương đối hoặc không có câu trả lời cả về sản lượng và thu nhập cũng như
các nhân tố khác có liên quan. Trong trường hợp mà chỉ cung cấp các thông tin về sản lượng
mà không cung cấp thông tin về thu nhập thì thu nhập sẽ được tính toán dựa trên các thông
tin về sản lượng và giá mua. Thông tin chi tiết sẽ được trình bày trong phần đính kèm của
báo cáo điểm mốc thực hiện 8.
Trong thời gian thực hiện báo cáo này thì việc khảo sát các hộ nông dân sản xuất ca cao ở
Cần Thơ, Đắc Lắc và Đắc Nông cũng được hoàn tất. Chỉ có một hộ nông dân sản xuất ca cao
đáng kể ở Cần Thơ và hộ nông dân này cũng được cung cấp 1 thiết bị sấy năng lượng mặt
trời vào năm 2007. Do vấn đề về khoảng cách từ WASI đến các hộ nông dân đến hơn 60km
nên việc khảo sát ở đây chỉ được thực hiện với tổng cộng là 6 hộ nông dân ở Đắc Lắc và Đắc
Nông. Một trong các hộ nông dân này cũng đã được cung cấp 1 thiết bị sấy vào tháng
12/2006. Các kết quả từ các địa phương này cũng tương tự như ở tỉnh Bến Tre và được trình
bày tóm tắt như sau:
Ở tỉnh Bến Tre có 3 hộ nông dân được nhận thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt trời.
Người đầu tiên là bà Năm Sương ở ấp An Phú, xã An Khánh, huyện Châu Thành. Bà chỉ có
0,25 hecta diện tích đất trồng với 200 cây ca cao cho nên sản lượng ca cao của Bà cũng rất ít.
Bà đã tự thành lập một điểm thu mua trái, lên men và sấy ca cao đã mua được cũng như ca
cao tự trồng trước khi cuộc khảo sát này được thực hiện. Vào năm trước thời điểm tháng
8/2006, bà đã sản xuất và/ hoặc mua được khoảng 2.500kg hạt hàng năm với chi phí khoảng
51 triệu đồng. Sau khi lên men và sấy, bà có được tổng thu nhập hàng năm khoảng 97 triệu
đồng với phần lợi nhuận khoảng 46 triệu đồng. Sau khi nhận được thiết bị sấy, hiện tại bà có
3
- thể sơ chế được với lượng ca cao lớn hơn rất nhiều, lượng trái bà có thể mua hàng tuần vào
thời điểm chính vụ là khoảng 3.000kg và khoảng 400kg/ tuần vào các thời gian còn lại trong
năm. Chi phí để thu mua lượng trái này khoảng 104 triệu đồng, sau khi lên men và sấy bà có
thể có được thu nhập khoảng 285 triệu đồng. Do đó, phần lợi nhuận hàng năm của bà là
khoảng 182 triệu đồng. Bà cũng cho biết là đã giảm được công lao động và thời gian sấy từ 6
- 8 ngày xuống còn 3 - 4 ngày vào mùa nắng và từ 9 - 11 ngày xuống còn 6 - 8 ngày vào mùa
mưa. Như vậy, bà không chỉ gia tăng được khả năng sản xuất và thu nhập mà còn giảm được
công lao động và thời gian sản xuất khoảng 3 ngày.
Hộ nông dân thứ hai ở tỉnh Bến Tre là ông Nguyễn Hùng Sơn và vợ là bà Đinh Thị Kiều ở ấp
Phú Xuân, xã Phú Đức, huyện Châu Thành. Họ có tổng diện tích canh tác là 1 hecta với
khoảng 300 cây được trồng vào năm 2000 và 600 cây được trồng vào năm 2003. Họ cũng là
một điểm thu mua và sơ chế ca cao trước khi nhận đựoc thiết bị sấy. Họ cung cấp một cách
tương đối tổng thu nhập bình quân năm 2006 và 2007 là 100 triệu đồng/ năm. Từ các thông
tin về sản lượng ca cao, cho thấy có khoảng 42 triệu đồng (năm 2006) và 55 triệu đồng (năm
2007) là từ phần ca cao do họ tự trồng. Phần thu nhập còn lại có thể là từ phần ca cao mà họ
thu mua để thực hiện lên men và sấy với giá trị xấp xỉ gấp đôi. Họ cũng cho biết là đã gia
tăng được khả năng sản xuất và giảm được công lao động và thời gian sấy khoảng 1 - 2 ngày
trong mùa nắng và 2 - 4 ngày trong mùa mưa.
Hộ nông dân thứ ba ở tỉnh Bến Tre là ông Nguyễn Thanh Phương và vợ là bà Hồ Thị Hồng
Huệ. Họ có 1 hecta đất canh tác với khoảng 400 cây ca cao được trồng vào năm 2005 và 150
cây được trồng và năm 2006. 400 cây được trồng năm 2005 có thể đã cho trái vào thời gian
thực hiện khảo sát năm 2007. Phần lớn lượng trái mà ông thực hiện lên men và sấy là được
mua từ các hộ nông dân láng giềng. Ông ta cũng đã tăng được khả năng lên men và sấy và sơ
chế khoảng 500kg trái/ tuần vào thời gian thu hoạch chính vụ. Ông ta không cung cấp thông
tin về thu nhập nhưng từ lượng ca cao có thể qui đổi được thu nhập hàng tuần khoảng 2 triệu
đồng từ tiền bán hạt ca cao khô. Giá mua trái là 2.000 đồng/kg nên chí phí để mua trái là 1
triệu đồng nên ông ta nhận được khoảng 1 triệu đồng tiền lãi mỗi tuần trong suốt giai đoạn
thu hoạch chính vụ khoảng 3 tháng. Vào tháng 12/2007, ông ta nhận được khoảng 27.000
đồng/kg hạt khô từ công ty Cargill. Khoảng tháng 6/2008, giá ca cao là 36.000 - 38.000
đồng/ kg và với cùng năng suất trên thì ông ta có thể thu nhập được khaỏng 127 triệu đồng.
Ông ta cũng cho biết là đã giảm được công lao động và thời gian sấy khoảng 3 ngày vào mùa
nắng và 2 ngày vào mùa mưa.
Không có bất kỳ thay đổi nào được ghi nhận đối với các đặc tính chất lượng của ca cao khi
áp dụng thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt trời. Điều kiện thời tiết ở Bến Tre, Đắc Lắc,
Đắc Nông và Cần Thơ giúp cho quá trình làm khô hạt ca cao bằng cách phơi nắng với sự tổn
thất là không đáng kể và cũng không có bất kỳ ảnh hưởng nào gây bất lợi cho mùi vị của ca
cao từ việc xâm nhiễm của nấm mốc. Tất cả các hộ nông dân đều cho biết sự tổn thất chỉ
dưới 1% do sự xâm nhiễm của nấm mốc khi sử dụng phương pháp làm khô truyền thống.
Các thiết bị sấy ca cao chỉ có thể giúp gia tăng được khả năng làm khô hạt ca cao và trong
cùng thời gian có thể giảm được công lao động và thời gian làm khô ca cao. Không cần tốn
thời gian để vận chuyển các vật dụng dùng để làm khô hạt ra vào khi trời mưa và vào thời
gian ban đêm và điều này cho thấy tiết kiệm được có ý nghĩa thời gian và công lao động. Do
đó, các hộ nông dân với thiết bị sấy ca cao có thể gia tăng được khả năng trồng và thu mua từ
các hộ nông dân khác để tiến hành sơ chế với thời gian và công lao động ít hơn. Như vậy có
thể nói rằng việc sử dụng thiết bị sấy ca cao có thể duy trì được các tiêu chuẩn chất lượng
trong khi có thể sản xuất được với sản lượng lớn hơn.
4
- Đóng góp quan trọng của dự án này là về các thuộc tính chất lượng của ca cao thông qua việc
áp dụng các khuyến cáo liên quan đến qui trình lên men như đã được trình bày ở phần các
thử nghiệm lên men và trong quyển sổ tay ở mục 5 và 7 của dự án. Do không thực hiện kịp
nên các khuyến cáo này chỉ được tổng kết vào tháng 3/2008 nên không có đủ thời gian để
thực hiện tại các nông hộ và đánh giá ảnh hưởng của nó lên các đặc tính chất lượng của ca
cao. Có nhiều lý do để tin tưởng rằng việc áp dụng các khuyến cáo trong qui trình lên men có
thể cải tiến được chất lượng ca cao nhưng cần thiết phải thực hiện trong giai đoạn khác.
Các kết quả chi tiết các phát hiện từ các đợt khảo sát nông hộ đã được trình bày trong phần
đính kèm của Báo cáo điểm mốc thực hiện 8.
4. Giới thiệu và cơ sở của dự án
Sản xuất ca cao của Việt Nam được tập trung ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với mục
tiêu đạt khoảng 10.000 hecta đất trồng ca cao vào năm 2010.
Mục tiêu tổng quát của dự án là giúp cho Việt Nam có thể sản xuất hạt ca cao lên men chất
lượng cao và qua đó có thể tăng thu nhập của các hộ nông dân trồng ca cao.
Các mục tiêu cụ thể của dự án bao gồm:
1. Xây dựng năng lực đánh giá chất lượng ca cao ở ba cơ quan nghiên cứu được lựa chọn ở
Việt Nam.
2. Thiết lập các phòng thí nghiệm đánh giá cảm quan ca cao, huấn luyện các hội đồng đánh
giá cảm quan và cài đặt các phần mềm để phân tích ở cả ba cơ quan tham gia.
3. Tập huấn các phương pháp phân tích về các khía cạnh của chất lượng ca cao tại
QDPI&F, Úc cho các nhà khoa học từ Trường ĐH Cần Thơ và Trường ĐH Nông Lâm
dựa trên khả năng phân tích sẵn có của họ.
4. Tối ưu hóa kỹ thuật lên men cho các hộ nông dân.
5. Giới thiệu kỹ thuật sấy bằng năng lượng mặt trời cho hai cơ quan nghiên cứu được lựa
chọn phía Việt Nam.
6. Cung cấp tài liệu khuyến nông cho các nông hộ.
Để đạt được các mục tiêu này, các phương pháp được phát triển, kiểm tra và mở rộng để
đánh giá chất lượng ca cao tại các cơ quan nghiên cứu và phát triển các kỹ thuật sơ chế phù
hợp cho các nông hộ nhỏ và các phương pháp đảm bảo chất lượng.
Mục 8 được xác định với mục tiêu là đánh giá năng lực của các cán bộ ở ĐH Cần Thơ, ĐH
Nông Lâm và WASI về:
• Thiết kế, lắp đặt và hướng dẫn nông dân sử dụng các thiết bị lên men và sấy khô phù
hợp.
• Các kỹ năng thiết lập và quản lý về hội đồng đánh giá mùi vị, phân tích cảm quan ca
cao và các tiến trình sinh trắc.
• Phân tích và báo cáo các thử nghiệm ở nông hộ.
5
- 5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật
Các hoạt động được liệt kê như trong tài liệu của dự án được nói rỏ hơn trong hợp đồng đã
được bổ sung.
Mục tiêu 7: Xác nhận các lợi ích của các nông hộ nhỏ.
Hoạt động 7.1: Cải tiến chất lượng ca cao của các hô nông dân thông qua việc tối ưu hóa kỹ
thuật lên men.
Hoạt động 7.2: Đánh giá dữ liệu của thử nghiệm lên men.
Hoạt động 7.3: Đánh giá các thử nghiệm về sấy.
Hoạt động 7.4: Thiết lập các thiết bị sấy bằng năng lượng mặt trời tại ĐH Cần Thơ và ĐH
Nông Lâm để phân phối đến WASI và các nông hộ.
Các mục tiêu từ 7.1 đến 7.4 đã được hoàn chỉnh và báo cáo trước đó. Tuy nhiên, các phát
hiện từ các thử nghiệm lên men đã không có đủ thời gian để thực hiện hoàn chỉnh ở phạm vi
của các nông hộ nhỏ
Việc xác định các lợi ích của các nông hộ thông quan việc áp dụng các thiết bị sấy bằng năng
lượng mặt trời đã có được thông qua các cuộc khảo sát nông hộ thực hiện tại Bến Tre, Cần
Thơ, Đắc Lắc và Đắc Nông. Việc giới thiệu các thiết bị sấy có được kết quả là gia tăng được
khả năng sơ chế ca cao của các hộ nông dân với khoảng thời gian ngắn hơn. Các kết quả này
được thảo luận chi tiết trong kết quả khảo sát nông hộ đính kèm theo Báo cáo điểm mốc thực
hiện 8.
5.2 Lợi ích cho các nông hộ
Ca cao được lên men và làm khô đầy đủ và có các đặc tính mùi vị tốt có thể mang về được
giá trị cao hơn so với giá hạt ca cao thông thường ở Đông Nam Á. Các khóa tập huấn được
thực hiện bởi Success Alliance, MARS và Cargill và sự phổ biến kiến thức thông qua các cán
bộ nhà nước ở địa phương và các câu lạc bộ của nông dân đã giúp cho ca cao Việt Nam được
sản xuất với chất lượng cao và bán được với giá tốt hơn. Các kết quả được phân tích được ghi
nhận trong suốt dự án này cho thấy các mẫu ca cao trên thị trường từ Cần Thơ, Bến Tre và
Đắc Lắc có độ axit thấp hơn và mùi sô-cô-la coa hơn so với các mẫu ca cao của Malaysia,
Indonesia và Papua New Guinea. Dự án CARD với sực giúp đỡ của MARS và các cơ quan
Việt Nam đã thiết lập được các khuyến cáo có thể cải tiến được chất lượng theo các tiêu
chuẩn cao hiện nay. Từ đó có thể giảm được độ axit và gia tăng mùi vị của ca cao và như vậy
có thể sản xuất được ca cao có chất lượng gần giống với ca cao của Tây Phi. Các phương
pháp này cũng giúp cho ca cao được sản xuất với tỷ lệ hạt nâu cao hơn khi kiểm tra cắt hạt
mà không cần phải kéo dài thời gian lên men. Các nhà thu mua thường sử dụng kết quả kiểm
tra cắt hạt để xác định giá trị của ca cao.
Ca cao chất lượng cao ở Bến Tre hiện tại có thể được bán với giá là 38.000 đồng/kg. Trong
hai đợt khảo sát nông dân thực hiện năm 2006 và 2007 cho thấy có 29 trong tổng số 75 hộ
nông dân có thực hiện lên men xuyên suốt hoặc chỉ lên men vào một thời gian nào đó và bán
trái vào các khoảng thời gian còn lại. Các hộ nông dân còn lại chỉ bán trái cho các hộ khác ở
xung quanh hoặc bán trái cho các chợ điạ phương hoặc bán trái để làm cây giống. Trong 29
hộ nông dân này thì trung bình mỗi hộ có thể sản xuất được khoảng 5.733 kg trái mỗi năm.
Hộ sản xuất ít nhất là 850 kg trái và hộ sản xuất nhiều nhất đến 26.530 kg trái mỗi năm. Khi
6
- lượng trái này được dùng để lên men và sản xuất hạt khô thì lượng hạt khô được sản xuất từ
hộ ít nhất là 126kg và hộ nhiều nhất là 3.916kg, trung bình là 851kg.
Năm 2006, giá hạt ca cao khô len men trung bình là 20.375 đồng/kg. Giá trung bình ở Bến
Tre vào tháng 12/2007 là 24.979 đồng/kg và vào tháng 6/2008 thì mức giá trung bình là
35.000 đồng/kg. Do đó, với hộ sản xuất ít nhất thì tổng thu nhập hàng năm là khoảng
2.567.250 đồng, hộ sản xuất nhiều nhất là 79.788.500 đồng và tổng thu nhập trung bình hàng
năm là khoảng 17.339.125 đồng vào thời điểm năm 2006. Với cùng một lượng trái đó, thì
tổng thu nhập vào năm 2007 lần lượt là: 3.147.354 đồng, 97.817.764 đồng và 21.253.725
đồng.
Tác động từ việc áp dụng các phương pháp từ dự án đã được báo cáo chi tiết trong phần kết
quả khảo sát nông dân kèm theo phần báo cáo điểm mốc thực hiện 8.
5.3 Xây dựng năng lực
Tập huấn trong việc bố trí các thử nghiệm lên men, sấy khô và phân tích các thông số có liên
quan hiện tại đang được hoàn thành ở mỗi cơ quan tham gia.
Huấn luyện sử dụng phương pháp HPLC để phân tích các axit hữu cơ và GC-MS phân tích
các hợp chất thơm cho đội ngũ cán bộ Việt Nam của mỗi cơ quan tham gia đã được diễn ra
tại QDPI&F vào tháng 8/2006. Các cơ quan tham gia, chỉ có ĐH Nông Lâm là có thiết bị để
thực hiện các phân tích này.
Tập huấn đánh giá cảm quan và sinh trắc học của các kết quả cũng được thực hiện trong hội
thảo này. Tiếp theo là khóa tập huấn được thực hiện bởi phía đối tác Úc trong chuyến công
tác vào tháng 12/2006 và vào tháng 04/2007. Thiết bị cối và chày cho sản xuất sô-cô-la và
dịch lỏng ca cao được gửi đến WASI và một máy chế biến sô-cô-la hay sản xuất dịch lỏng
được gửi tới ĐH Cần Thơ. ĐH Nông Lâm đã có thiết bị trước khi bắt đầu dự án.
5.4 Sự quảng bá
Các điểm sau có thể được áp dụng để quảng bá các thông tin liên quan về AusAID và CARD
• Các điểm tham quan và ký kết với các nơi thí điểm, các buổi hội thảo và tập huấn (thiết bị
sấy năng lượng mặt trời và các thùng lên men được trình bày ở tỉnh Bến Tre trong “Hội
thảo ca cao quốc tế” vào tháng 11/2006 và một Hội nghị chuyên đề về lên men, sấy và
đánh giá chất lượng ca cao được thực hiện tại Đại học Nông Lâm vào tháng 4/2007).
• Giới thiệu các quyển sổ tay tập huấn.
• Xuất bản của dự án trên bản tin của Quỹ ca cao Thế giới (WCF).
5.5 Quản lí dự án
Các cơ quan Việt Nam chịu trách nhiệm sắp xếp kế hoạch và kiểm soát thử nghiệm lên men
và sấy khô cũng như việc tập huấn phân tích và đánh giá cảm quan. Cơ quan Việt Nam cũng
chịu trách nhiệm việc theo dõi các thử nghiệm và các tác động lên nông dân bao gồm lao
động và thu nhập cũng như chất lượng của ca cao mà các nông hộ thu hoạch khi tiến hành
các thử nghiệm. Cơ quan Úc sẽ phối hợp theo dõi, phân tích dữ liệu thu được, việc phát hành
các tài liệu khuyến nông và báo cáo tiến trình dự án đồng thời quản lý kinh phí dự án.
7
- 6. Báo cáo về các vấn đề liên quan
6.1 Về môi trường
Việc trồng ca cao có thể có tác động ít phức tạp lên môi trường hơn các hình thức canh tác
khác của nông nghiệp. Các khu sản xuất thường nhỏ, thường là ca cao được trồng xen với
dừa hay một số nông sản khác. Các báo cáo nghiên cứu, gồm việc giới thiệu tại một hội nghị
ICCO (Braxin, 1996) cho thấy sự đa dạng loài như động vật, chim, côn trùng, v.v... ở các khu
trồng ca cao cũng tương tự như các vùng trồng ca cao gần với các khu rừng nhiệt đới.
Mối nguy hại đến môi trường khi tiến hành dự án này là rất ít. Dự án gồm tiến trình trồng ca
cao hiện tại và tương lai. Việc trồng ca cao tương lai có thể tác động lên quần thể động vật và
thực vật nhưng chương trình không mở rộng diện tích trồng ca cao. Ca cao cũng được xem là
một loại hoa màu ôn hòa. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, ca cao được trồng với các hệ hoa
màu khác, thường là dừa hoặc trong một hệ thống rất đa dạng có thể đến 15 loại cây trồng
khác nhau như cây cho quả, hạt, cây bụi, dây leo và cây thuốc tạo nên sự đa dạng sinh học
cao.
6.2 Về giới tính và xã hội
Nhiều nông hộ trồng ca cao ở Việt Nam đã thực hiện việc lên men và sấy ca cao do chính các
hộ này thu hoạch và vì thế có nhiều kinh nghiệm trong các công đoạn này. Trong suốt thử
nghiệm tối ưu hóa kỹ thuật lên men, một nỗ lực để kết hợp chặt chẽ nhằm thu được kết quả
tốt nhất khi tiến hành các phương pháp do chúng tôi đề nghị. Sự kết hợp này bao gồm các kê
khai nguyên liệu sử dụng và môi trường, công việc thử nghiệm và yếu tố xã hội.
Một điều tra của Success Alliance vào năm 2005 cho thấy:
SA có 4 tỉnh tham gia gồm Bình Phước (1.095 hộ dân), Bà Rịa Vũng Tàu (1.560), Tiền
Giang (1.600) và Bến Tre (1.679). Ở các tỉnh này, lao động phụ nữ chiếm từ 9% ở Bình
Phước đến 20% ở Bến Tre. Tiền Giang có 16% và Bà Rịa Vũng Tàu là 13%.
Hầu hết các nông hộ tham gia này thì việc canh tác là thu nhập chính. Số lượng người tham
gia có độ tuổi từ 26 - 55 được xem là lực lượng lao động có kinh nghiệm. Lượng người tham
gia thuộc một gia đình là 3 - 5 thành viên. Tỉ lệ nông dân có trình độ văn hóa cấp II và cấp III
là 69 - 77% trãi đều ở các tỉnh, vì thế tỉ lệ cao người có trình độ văn hóa rất thuận lợi cho
việc tiếp thu kiến thức, kỹ thuật mới.
Tại tỉnh Bình Phước có 90% nông dân thu nhập từ 12 - 100 triệu đồng/năm cho tất cả loại
cây trồng. Trung bình là 40 triệu đồng. Ở Bà Rịa Vũng Tàu, gần 90% nông dân thu nhập từ 1
- 45 triệu đồng, trung bình là 17 triệu đồng. Ở Bến Tre, 90% nông dân có thu nhập 1 - 10
triệu đồng, trung bình là 4 triệu đồng. Ở Tiền Giang là 2 - 10 triệu đồng, trung bình 5 triệu
đồng. Ở Cần Thơ chỉ có 1 hộ trồng ca cao có thu nhập hàng năm là 16 triệu đồng từ cacao.
Các vấn đề liên quan đến giới tính và xã hội được xác định trong các cuộc khảo sát nông dân
thực hiện vào năm 2006 và 2007. Do có sự giới hạn về kinh phí và thời gian của các cán bộ
ĐH Cần Thơ nên việc khảo sát với mức độ lớn hơn đã không được thực hiện. Có khoảng
2.000 hộ trồng ca cao ở Bến Tre nhưng chỉ khảo sát được có 50 hộ nông dân trong số đó nên
chưa có được một kết quả thật sự tổng quát. Trong đợt khảo sát đầu tiên vào năm 2006 có 50
hộ nông dân được phỏng vấn để trả lời theo bảng câu hỏi. Cuộc khảo sát sau đó được tiến
hành vào tháng 11/2007. Trong số 50 hộ nông dân được khảo sát lần đầu chỉ có 25 hộ được
8
- thực hiện trong đợt khảo sát tiếp theo. Hai trong số các hộ nông dân này đã được trang bị
thiết bị sấy bằng năng lượng mặt trời. Có 25 hộ nông dân mới được tham gia vào cuộc khảo
sát tiếp theo và có 1 hộ trong số các hộ này đã được trang bị thiết bị sấy. Do đó, sự gia tăng
trong tổng số các hộ nông dân này sẽ rất hữu ích để thể hiện tính đại diện cho các đặc điểm
và các tác động trong quá trình canh tác ca cao. Các hộ nông dân được thêm mới này cũng ở
trong các vùng lân cận với nơi các thiết bị sấy đã được lắp đặt nên họ cũng đã cung cấp các ý
kiến các quan điểm và trao đổi với các hộ nông dân có liên quan.
Kết quả các cuộc khảo sát nông dân, được tiến hành trong dự án này đã ghi nhận được một số
vấn đề có liên quan đến giới tính và xã hội như sau:
• Vấn đề Giới tính
Tỉnh Bến Tre
Ở đợt khảo sát đầu tiên, có 10 trong số 50 hộ trả lời phỏng vấn là phụ nữ. Trong đợt khảo sát
lần 2, có 12 người tham gia khảo sát là phụ nữ trong số 25 hộ nông dân mới. Như vậy, với 75
hộ nông dân được phỏng vấn thì tỷ lệ người được tham gia phỏng vấn là 29%. Con số này
cũng tương đối phù hợp tuy có phần lớn hơn một ít so với với kết quả từ khảo sát của
Success Alliance. Điểm được ghi nhận là khi các hộ nông dân có thuê mướn nhân công để
thực hiện các công việc như trồng cây hay thu hoạch thì thông thường lao động là phụ nữ sẽ
được trả với mức là 3.000 đồng/giờ và đàn ông là 5.000 đồng cho 1 giờ công lao động.
TP. Cần Thơ
Ở TP. Cần Thơ, chỉ có một hộ nông dân trồng cây ca cao đáng kể đó là ông Huỳnh Kim Vinh
và ông ta đã được cung cấp một thiết bị sấy.
Tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông
Có tổng công 6 hộ nông dân được khảo sát ở hai tỉnh này và chỉ có duy nhất 1 hộ nông dân
được phỏng vấn là phụ nữ. Người phụ nữ duy nhất này là bà Nguyễn Thị Huệ và cũng đã
được cung cấp một thiết bị sấy.
• Phân bố theo độ tuổi
Sự phân bố theo độ tuổi có thể được chia thành 4 nhóm: 15 - 25; 26 - 40; 41 - 55 và trên 55
tuổi.
Tỉnh Bến Tre
Ở tỉnh Bến Tre, phần lớn (54%) các hộ nông dân có độ tuổi nằm trong khoảng 41 - 55 tuổi.
Nhóm chiếm ưu thế thứ hai (24%) là có độ tuổi trên 55. Nhóm thứ ba ở độ tuổi 26 - 40 tuổi
chiếm 19%. Nhóm có độ tuổi 15 - 25 chỉ chiếm 3% trong tổng số các hộ nông dân được
phỏng vấn. Điều này cho thấy không có sự hấp dẫn của đối với lứa tuổi này để theo đuổi sản
xuất nông nghiệp cho thu nhập của họ. Phần lớn các hộ nông dân này có độ tuổi trên 41.
9
- TP. Cần Thơ
Ở TP. Cần Thơ, chỉ có một hộ nông dân trồng cây ca cao đáng kể đó là ông Huỳnh Kim Vinh
và năm sinh của ông là năm 1930. Có một vài người láng giềng trồng cây ca cao và bán trái
cho ông như một loại trái cây được mua bán ở chợ. Các hộ nông dân láng giềng này sản xuất
ca cao rất ít nên không được thực hiện trong các đợt khảo sát.
Tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông
Ở tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông chỉ có 2 trong tổng số 6 hộ nông dân được phỏng vấn cho biết
tuổi của họ và tất cả đều nằm trong nhóm trên 55 tuổi (Sinh năm 1932 và 1947).
• Trình độ giáo dục
Trình độ giáo dục được phân chia thành 4 nhóm: Tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5), THCS (lớp 6
- 9), THPT (lớp 10 - 12) và Đại học - Cao đẳng.
Ở Bến Tre, các hộ nông dân đã hoàn thành THCS, THPT hoặc có trình độ Đại học - Cao
đẳng chiếm đến 77% trong tổng số các hộ nông dân được khảo sát. Điều đó cho thấy cộng
đồng dân cư đã có trình độ giáo dục tương đối khá nên các hộ nông dân này có thể tiếp thu và
áp dụng các phương pháp đã được khuyến cáo.
TP. Cần Thơ
Ông Huỳnh Kim Vinh ở TP. Cần Thơ (78 tuổi) chỉ có trình độ tiểu học nhưng ông ta cho
thấy là có khả năng sẵn sàng tự áp dụng và cải tiến các phương pháp được khuyến cáo.
Tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông
Ở tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông chỉ có duy nhất một hộ nông dân cho biết về trình độ giáo dục
đó là bà Nguyễn Thi Huệ, bà đã tốt nghiệp THPT.
• Qui mô nông hộ
Qui mô nông hộ được chia thành 3 nhóm: Nhỏ, có 1 - 2 thành viên; Trung bình, có 3 - 5
thành viên; và Lớn, có trên 6 thành viên.
Tỉnh Bến Tre
Các hộ gia đình ở Bến Tre có số lượng thành viên trong gia đình từ 3 - 5 là nhóm lớn nhất
chiếm đến 61%. Các hộ gia đình có trên 6 thành viên chiếm 33% và từ 1 - 2 thành viên có tỷ
lệ là 6%.
TP. Cần Thơ
Hộ gia đình ông Huỳnh Kim Vinh ở Cần Thơ có tổng cộng 6 thành viên. Bao gồm: ông Vinh
và vợ, con trai là giáo viên và con dâu là y tá cùng với 2 cháu.
10
- Tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông
Ở tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông, có 2 hộ nông dân với 4 thành viên trong gia đình, 1 hộ có 5
thành viên và 1 hộ có 8 thành viên trong gia đình.
• Nghề nghiệp
Tỉnh Bến Tre
Các hộ nông dân được tham gia phỏng vấn ở Bến Tre ngoài công việc làm vườn, họ còn
tham gia trong 5 ngành nghề khác. Bao gồm: chăn nuôi, cán bộ nhà nước ở địa phương, 1
người là thợ chụp ảnh, 1 người là chủ quán cà phê và 1 người kinh doanh bảo hiểm. Hầu hết
các hộ nông dân (79%) tham gia trong đợt khảo sát thì làm vườn là nguồn thu nhập chủ yếu
của họ. Cùng với 15% các hộ nông dân có tham gia chăn nuôi thì có đến 94% các hộ nông
dân có thu nhập chủ yếu là từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
TP. Cần Thơ
Ở Cần Thơ, Ông Huỳnh Kim Vinh và vợ chỉ làm vườn. Trong các thành viên còn lại, con trai
ông ta là giáo viên và con dâu là y tá.
Tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông
Trong 6 hộ nông dân ở tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông được khảo sát, có 2 người được tham gia
phỏng vấn là cán bộ nhà nước ở địa phương còn 4 hộ còn lại chỉ làm nông nghiệp là nguồn
thu nhập chính.
7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững
7.1 Vấn đề và giới hạn
Một vấn đề liên quan là các thiết bị sấy dùng năng lượng mặt trời không phù hợp cho các
nông hộ nhỏ vì giá thành cao và phức tạp. Tuy nhiên có thể thiết kế một dạng thiết bị sấy nhỏ
hơn phù hợp với các nông hộ nhỏ. Sau chuyến thăm của các chuyên gia sấy QDPI&F, giá
thành và sự sẵn có của các vật liệu để lắp đặt máy sấy được so sánh. Các khung gỗ cho thấy
có giá thành bằng với các nguyên liệu khác như ống thép vuông và sắt mạ kẽm. Các khung
sắt được ưa thích hơn vì không bị mục và bị vênh so với khung gỗ cùng thời gian. Tuy nhiên
máy sấy kích cỡ nhỏ nhất, có thể sấy khô 100 - 150 kg hạt ướt có giá thành khoảng 3,2 triệu
đồng. Vấn đè này có thể được giả quyết khi sử dụng các tấm lợp rẻ hơn có bán sẵn tại TP.
HCM. Các tấm lợp polycacbonat của Israel được sử dụng trong dự án có giá thành là 1,2
triệu đồng một tấm và với thiết sấy có 4m2 diện tích sàn sấy (năng suất là 200kg hạt ướt) sẽ
cần đến 2 tấm lợp. Ngoài vấn đề về giá cả, các tấm lợp này cũng không có bán sẵn tại Việt
Nam. Với các tấm lợp rẻ hơn có sẵn tại Việt Nam, chi phí có thể giảm xuống đến 1,6 triệu
đồng cho một thiết bị sấy với diện tích sàn sấy là 2x2 m2. Hiện tại đã có sự tiếp xúc giữa nhà
phân phối Úc với một số công ty ở Việt Nam.
Như kết quả đã ghi nhận trong các thử nghiệm về sấy, việc khuyến cáo sử dụng 50kg hạt ướt
trên 1m2 diện tích sàn sấy là không chính xác về khả năng sấy của thiết bị. Con số này có
được là dựa trên các kết quả từ các thử nghiệm ở một địa phương của Papua New Guinea,
nơi có lượng mưa cao hơn so với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Các kết quả cho thấy sàn
11
- sấy có thể được sử dụng với khối lượng đến 100kg hạt ướt trên 1m2 vào mùa khô. Điều đó có
nghĩa là với diện tích sàn sấy là 2x2 m2 thì năng suất sấy là 400kg hạt ướt trong 4 - 5 ngày.
Như vậy với sự cải thiện rất lớn về năng suất sấy của các hộ nông dân trong quá trình sơ chế
ca cao thì phần kinh phí đầu tư này cũng hợp lý.
Các công việc đã thực hiện cho thấy các kỹ thuật như trữ trái, trải/ phơi hạt trước khi cho vào
thùng lên men và rửa hạt lên men trước khi sấy có thể cải thiện được chất lượng của ca cao.
Tất cả các kỹ thuật này có thể được thực hiện một cách dễ dàng bởi các hộ nông dân và được
trình bày chi tiết hơn trong quyển sổ tay như là phần đính kém của điểm mốc thực hiện 5.
7.2 Các chọn lựa
Tất cả các qui trình nói trên hiện tại đã được kiểm tra một cách thích đáng và được đề cập
trong quyển sổ tay của nông dân.
7.3 Tính bền vững
Các thử nghiệm lên men và sấy hầu hết đã được tiến hành bởi các cán bộ của ĐH Cần Thơ,
ĐH Nông Lâm và WASI, điều đó có nghĩa là các cơ quan này có đủ khả năng để thực hiện
các thử nghiệm trong tương lai về các vấn đề liên quan đến quá trình sơ chế ca cao. Sự huấn
luyện chuyên môn để phân tích hạt ca cao khô cho đội ngũ các cán bộ thường xuyên từ CTU,
NLU và WASI mang ý nghĩa dự án có tính bền vững ở cấp độ cao. Cùng với khóa tập huấn
đánh giá chất lượng cảm quan ở Brisbane, phân phát thiết bị, và các huấn luyện tiếp theo của
đối tác Úc, điều đó có nghĩa là chương trình sẽ có tính bền vững
8. Các bước chính tiếp theo
Các bước chính tiếp theo là mỗi một mục nhỏ trong bảng liệt kê hoạt động của đề tài:
Các mục tiêu 15, 16, 17 và 18: Báo cáo hoàn chỉnh dự án.
Hoạt động 15.1: Các kết quả đã được thiết lập cho hội thảo tổng kết dự án và báo cáo tổng
kết của dự án.
Hoạt động 16.1: Đánh giá cuối cùng về các thử nghiệm và các hoạt động được trình bày ở
hội thảo tổng kết dự án vào tháng 12/2008.
Hoạt động 17.1: Trình bày các kết quả của dự án đạt được tại hội thảo tổng kết dự án của
ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm, WASI, SUCCESS và các tổ chức có liên quan khác.
Các hoạt động 15.1, 16.1 và 17.1, việc tiến hành các thử nghiệm và trình bày kết quả đã được
hoàn thành nhưng chậm so với kế hoạch của dự án. Do sự chậm trễ trong việc thực hiện các
điểm mốc của dự án và việc chi trả kinh phí nên hội thảo tổng kết dự án đã không thực hiện
trước ngày kết thúc dự án. Điều này cho thấy cần thiết phải yêu cầu thêm 6 tháng để thực
hiện các hoạt động này.
Hoạt động 18.1: Viết báo cáo dự án hoàn chỉnh và các khuyến cáo cuối cùng.
Hoạt động này sẽ được hoàn thành vào tháng 12/2008.
Sáu tháng được yêu cầu thêm sẽ đủ cho phép để xuất bản các tài liệu khuyến nông, tập huấn
nông dân với các qui trình lên men mới và đánh giá tác động của các qui trình này đến chất
lượng ca cao.
12
- 9. Kết luận
Kết quả từ các thử nghiệm lên men đã thực hiện cho thấy có nhiều khuyến cáo mới có liên
quan đến qui trình lên men ca cao đã chứng tỏ là mang lại hiệu quả cho chất lượng của ca cao
và có thể được thực hiện một cách dễ dàng bởi các hộ nông dân. Các khuyến cáo này bao
gồm: trữ trái, trải/ phơi hạt trước khi cho vào thùng lên men và rửa hạt lên men trước khi sấy.
Các khuyến cáo có hiệu quả đã được thực hiện nhưng điều này đã làm chậm trễ trong việc
tổng kết các thử nghiệm lên men và kết quả là làm chậm trễ trong việc hoàn chỉnh các tài liệu
khuyến nông. Do đó dẫn đến việc chậm trễ trong việc cung cấp thông tin đến các nông hộ và
các cán bộ chuyên môn ở các Sở Nông nghiệp và Phát trển nông thôn và Sở Khoa học và
Công nghệ. Kết quả là cũng bị chậm trễ trong việc sử dụng các khuyến cáo trong các thử
nghiệm trên đồng và sự đánh giá các tác động của chúng đến tập quán sản xuất của nông dân.
Các hoạt động của dự án, đặc biệt là các thử nghiệm trên đồng, việc kiểm soát các kỹ thuật
và việc đánh giá sự thích hợp của các khuyến cáo đến chất lượng ca cao gặp khó khăn do ở
Cần Thơ, nơi đặt cơ quan chủ trì của dự án, chỉ có duy nhất một hộ nông dân có trồng ca cao
một cách đáng kể. Địa phương gần nhất có diện tích trồng ca cao đáng kể với lượng lớn hộ
nông dân cũng cách Cần Thơ đến 80km. Điều đó cho thấy rằng để đánh giá tác động của các
khuyến cáo này đến chất lượng ca cao và tổ chức hội thảo tổng kết phải cần thêm khoảng 6
tháng thêm nữa.
13
nguon tai.lieu . vn