Xem mẫu

  1. TẬP TRUNG TRÍ TUỆ ĐÓNG GÓP Ý KIẾN DỰ THẢO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA HIẾN PHÁP 1992 Thực hiện chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức hội nghị toàn thể cán bộ, giáo viên đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992. Bài thông tin dưới đây tổng thuật những ý kiến đóng góp cơ bản trong quá trình thảo luận theo tinh thần khoa học, thiết thực. PHONG LAN I. Những vấn đề chung của Dự thảo Bản thuyết minh các nội dung cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 xác định phạm vi sửa đổi, bổ sung lần này chỉ tập trung vào một số điều bức xúc về tổ chức bộ máy Nhà nước và về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học,
  2. công nghệ phù hợp với các nội dung mới đã được Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định. Một số ý kiến cho rằng không nên sửa đổi Hiến pháp 1992 trong thời gian này mà nên tập trung cho việc nghiên cứu tổng kết thực tiễn, lý luận, từ đó mới có thể tiến hành sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện. Các ý kiến này xuất phát từ nhận thức rằng, những vấn đề được nêu trong phạm vi sửa đổi, bổ sung chưa thực sự là những vấn đề bức xúc. Về kỹ thuật lập hiến cũng được nhiều ý kiến quan tâm trao đổi. Theo các ý kiến này, Dự thảo còn mang tính chất chung chung, chưa rõ. Có vấn đề cụ thể được đề cập thì lại là những vấn đề quá nhỏ, không mang tính chất điển hình. Nhiều đoạn sửa đổi cũng chủ yếu là sửa đổi về từ ngữ. Những từ ngữ được sửa đổi thực chất là sự sao chép từ ngữ của nghị quyết của Đảng. Trong khi đó, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, ngôn ngữ được sử dụng trong Hiến
  3. pháp phải mang tính pháp lý – chính trị. Các ý kiến này đề nghị nên thay thế những từ ngữ chính trị thuần túy bằng các thuật ngữ pháp lý để bảo đảm tính chất của Hiến pháp. II. Những nội dung cụ thể qua các điều khoản Về Chương I – Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị: Có hai loại ý kiến đóng góp cho Điều 2. Loại ý kiến thứ nhất đề nghị theo phương án 1 (giữ nguyên như Hiến pháp 1992). Bởi lẽ, nếu khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” thì chưa phù hợp với thực tiễn nước ta hiện nay. Chúng ta chưa hoàn toàn có một Nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của từ này. Điều này đã được xác định trong Điều 12 của Dự thảo rằng “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức và công dân”. Hiểu theo tinh thần “cái
  4. đã có” với “cái đang xây dựng” thì phải chăng giữa Điều 2 và Điều 12 sẽ có sự mâu thuẫn? Loại ý kiến thứ hai không đồng ý và cho rằng cần phải hiểu khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN theo tinh thần biện chứng khoa học Mác xít. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN chính là một quá trình củng cố, phát triển từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Vả lại, Dự thảo xác định như thế chính là xuất phát từ tính chất cương lĩnh của Hiến pháp. Điều 2 như Dự thảo chính là một quy định mang tính tuyên ngôn. Còn một số ý kiến khác đề nghị chỉ cần ghi “quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” là đủ mà không cần thiết phải thêm cụm từ “nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Về Điều 3, có ý kiến đề nghị bỏ hai chữ “dân chủ” để tránh cách hiểu thiên về khía cạnh chính trị. Điều 8 cũng có nhiều ý kiến đề nghị nên sửa lại là “… mọi nhân viên nhà nước…” chứ không nên quy định trong phạm vi hạn hẹp chỉ có “cán bộ, công chức nhà
  5. nước”. Bởi lẽ, việc “tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến, chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng” là nghĩa vụ của mọi nhân viên Nhà nước, kể cả những người làm việc theo chế độ hợp đồng, chứ không phải chỉ là nghĩa vụ của “cán bộ, công chức nhà nước”. Về Điều 12, các ý kiến đều nhất trí như trong Dự thảo, chỉ đề nghị nên có đoạn xác định rõ thêm những dấu hiệu đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN. Về Chương II – Chế độ kinh tế: Cũng với tinh thần khoa học, thiết thực, nhiều ý kiến về Điều 15 đều cho rằng cần làm rõ khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và không cần đưa thêm cụm từ “đan xen, hỗn hợp” mà chỉ cần giữ lại cụm từ “kinh doanh đa dạng” là đủ. Bởi xét về mặt nội hàm, khái niệm “kinh doanh đa
  6. dạng” đã bao hàm trong đó “đan xen, hỗn hợp”. Có ý kiến còn mạnh dạn đề nghị không quy định “sở hữu tập thể là nền tảng” vì trên thực tế, thành phần kinh tế này không phát triển. Đa số ý kiến trao đổi về Điều 16 cho rằng không nên sử dụng phương pháp liệt kê khi quy định về các thành phần kinh tế, vì sẽ gặp tình trạng, đến một giai đoạn phát triển nào đó của nền kinh tế, danh mục liệt kê này có thể sẽ “thiếu” thành phần nào đó phát sinh. Hầu hết ý kiến đều đề nghị sửa đoạn đầu của Điều 16 là “… phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế hỗn hợp khác”. Riêng về khái niệm “kinh tế nhà nước”, có ý kiến cho rằng nên thay thế bằng khái niệm “kinh tế quốc doanh”. Về đoạn cuối của Điều 16, nhiều ý kiến đề nghị nên xem lại khái niệm “thị trường bất động sản”, bởi nói đến “bất động sản” thì trước hết và chủ yếu là nói đến
  7. đất đai mà đất đai lại thuộc sở hữu toàn dân. Do đó, nếu sửa Hiến pháp thì tất yếu phải sửa Luật đất đai cho phù hợp. Về Điều 19, có khá nhiều ý kiến cho rằng không nên quy định như đoạn 2 của điều này, bởi quy định như thế là xác nhận tình trạng không bình đẳng giữa “doanh nghiệp nhà nước” với các chủ thể kinh doanh khác và đề nghị đoạn này nên sửa lại là “kinh tế quốc doanh là công cụ để nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế”. Về Chương III – Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ: Khi góp ý cho Điều 36, các ý kiến đều cho rằng không nên quy định đoạn 1 như dự thảo, vì dễ dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý chủ yếu quản lý các vấn đề mang tính chất vi mô. Đoạn 2 về các hình thức giáo dục, chỉ nên quy định gọn lại thành hai hình thức giáo dục là trường công lập và ngoài công lập là đủ, không cần thiết phải liệt kê từng hình thức giáo
  8. dục. Về Điều 59, một số ý kiến đề nghị chỉ quy định học tập là quyền, không nên quy định vừa là quyền vừa là nghĩa vụ, cũng nên giữ lại đoạn quy định “bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” như Hiến pháp 1992. Về Chương VI – Quốc hội: Nhiều ý kiến thảo luận về Điều 84. Các ý kiến này cho rằng tại khoản 7, không cần thêm vào như Dự thảo, bởi lẽ các quyền này đã được các Luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ quy định. Nếu có sửa, đề nghị nên sửa theo hướng quy định thủ tục để thực hiện các quyền này. Một số ý kiến lại thống nhất với quy định như trong Dự thảo. Về Chương VIII – Chính phủ: Về Điều 114, có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định Thủ tướng Chính phủ có quyền “… bổ nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp cần thiết quy định tại Điều
  9. 123…” vì UBND là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân. Nếu trao quyền đó cho Thủ tướng thì phải sửa đổi những quy định về UBND để UBND có tính chất như Ủy ban hành chính trước đây, đồng thời phải làm rõ “trường hợp cần thiết” là những trường hợp nào (ví dụ trường hợp thành lập một đơn vị hành chính mới, nâng cấp một đơn vị hành chính, khuyết chức danh Chủ tịch: cách chức, chết…), v.v… Các ý kiến này đều cho rằng không nên trao quyền bổ nhiệm cho Thủ tướng mà nên quy định Thủ tướng chỉ có quyền chỉ định Chủ tịch UBND tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương lâm thời. Về Chương X – Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân: Chương này, các ý kiến chỉ tập trung góp ý cho Điều 137¸, có ý kiến đồng ý với nội dung của Dự thảo, nhưng đề nghị vẫn giữ lại chức năng kiểm sát hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật như
  10. trước đây để đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Lại có ý kiến đề nghị Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng công tố, đổi tên Viện kiểm sát thành Viện công tố… Nhìn chung, các ý kiến đóng góp diễn ra rất sôi nổi, hào hứng. Có thể còn có những ý kiến này khác chưa thấu đáo, nhưng điều mà phóng viên Tạp chí Khoa học pháp lý ghi nhận được là thái độ khoa học, phát huy trí tuệ của mỗi người. Hội nghị đóng góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 đã thể hiện một cách sinh động trách nhiệm công dân của toàn thể cán bộ, giáo viên trường Đại học Luật TP. HCM trước sự kiện quan trọng này của đất nước.
nguon tai.lieu . vn