- Trang Chủ
- Báo cáo khoa học
- Báo cáo nghiên cứu khoa học: CẤU TRÚC THÀNH PHẦN LOÀI CÁ Ở HỆ THỐNG SÔNG Ô LÂU, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Xem mẫu
- TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 55, 2009
CẤU TRÚC THÀNH PHẦN LOÀI CÁ Ở HỆ THỐNG SÔNG Ô LÂU,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Võ V n Phú
ă
Tr ng i h c Khoa h c, i h c hu
ờư ạĐ ọ ọ ạĐ ọ ế
Nguy n Duy Thu n
ễ ậ
Tr ng i h c S ph m, i h c Hu
ờư ạĐ ọ ư ọ ạĐ ạ ế
TÓM TẮT
Thành ph n loài cá h th ng sông Ô Lâu khá a d ng. ã xác nh c 109 loài, 76
ầ ệở ố đ ạ Đ ợưđ ịđ
gi ng v i 31 h thu c 11 b cá khác nhau. S loài phong phú nh t thu c v b cá Chép
ố ớ ọ ộ ộ ố ấ
ộề ộ
(Cypriniformes) v i 47 loài (chi m 43,12%). S u th v thành ph n loài c a b cá Chép trong
ớ ế ưự ềế ầ ộủ
khu h th hi n tính ch t n c ng t i n hình. ng tôi ti n nh so nh nh ph n i
úhC
àh ế ãđ àht ás àol ầ
ệ ể ệ ấ ớư
ểđ ọ
sông Ô Lâu v i c khu h trong n c b c u nh n nh thành ph n loài cá sông
ác ác ớ ác ệ ịđ ậ ầđ ớư àv ớư ảc ầ
Ô Lâu n m trong khu ông Tr ng S n. Y u t B c Vi t Nam là ch y u, song y u t Mekong,
ằ Đ ờư ơ ế ắố ệ ếủ ế ố
y u t b n a rõ nét h n các khu khác c a t nh a lý ng v t B c Vi t Nam. Thành ph n
ệ ắ ác ậ ộđ ịđ ỉ ầ
ế ịđ ả ố ởơ ủ
loài cá h th ng sông Ô Lâu v a có nh ng loài chung v i khu h cá mi n B c v a có nh ng
ố ệở ừ
ữ
ớ
ệ
ừắề ữ
loài chung v i khu h cá mi n Nam. i u này cho th y khu h cá sông Ô Lâu mang tính ch t
ớ ệ ề
ềĐ
ấ
ệ ấ
chuy n ti p gi a khu h cá mi n B c và khu h cá mi n Nam.
ữếể ệ ắề
ệ
ề
1. Đặt vấn đề
Thừa Thiên Huế là nơi chuyển tiếp giữa hai vùng khí hậu Bắc và Nam của Việt
Nam, giới hạn ngăn cách bởi đèo Hải Vân. Là một trong những trung tâm mưa của cả
nước, với đặc điểm địa hình có dải Trường Sơn chạy dọc phía Tây và phá Tam Giang -
Cầu Hai ở phía Đông đã hình thành ở Thừa Thiên Huế một mạng lưới sông, hồ, đầm
phá đa dạng và độc đáo chứa trong mình tài nguyên đa dạng sinh học cá. Sông Ô Lâu là
sông lớn thứ hai ở Thừa Thiên Huế sau sông Hương, bắt nguồn từ đồi núi phía Tây của
huyện Phong Điền chảy qua Phò Trạch, Vân Trình đổ vào phá Tam Giang - Cầu Hai ở
cửa Lác. Sông Ô Lâu có diện tích lưu vực 900 km2, chiều dài 66 km [7]. Về nguồn lợi
thủy sinh vật, sông Ô Lâu chưa được nghiên cứu nhiều. Trong bài báo này, chúng tôi công
bố cấu trúc thành phần loài và yếu tố địa động vật cá sông Ô Lâu.
2. Phương pháp
- Việc thu mẫu được tiến hành bằng cách đánh bắt trực tiếp cùng với ngư dân,
mua mẫu của các ngư dân ở địa điểm nghiên cứu, đặt các bình có pha sẵn hóa chất định
hình để nhờ các hộ ngư dân khai thác thủy sản trên sông thu thập thường xuyên trong
thời gian nghiên cứu. Sau đó thu góp mẫu cá tại ngư dân mỗi tháng 1 lần. Mua và kiểm
tra mẫu cá ở các chợ cá xung quanh khu vực nghiên cứu.
61
- - Mẫu được định hình trong dung dịch formol 10%, bảo quản trong dung dịch
formol 4% và được lưu giữ tại phòng thí nghiệm bộ môn Tài nguyên - Môi trường, khoa
Sinh học, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế.
- Định loại các loài cá bằng phương pháp so sánh hình thái theo các khóa
phân loại lưỡng phân và mô tả của Vương Dĩ Khang (1958), Mai Đình Yên
(1978, 1992), Nguyễn Khắc Hường (1991, 1993), Nguyễn Nhật Thi (1991, 1994, 2000),
Trần Thị Thu Hương và Trương Thủ Khoa (1993), W. J. Rainboth (1996), Nguyễn Văn
Hảo (2001, 2005)... Mỗi loài cá được nêu tên khoa học và tên Việt Nam. Trình tự các bộ,
họ, giống, loài được sắp xếp theo hệ thống phân loại của T. S. Rass và G. U. Lindberg
(1971), chuẩn tên loài theo tài liệu của FAO (1998).
- Để xác định mối quan hệ giữa thành phần loài cá sông Ô Lâu với một số khu
hệ cá nước ngọt trong cả nước, chúng tôi sử dụng công thức tính hệ số gần gũi của
Sorencen (1948).
- B: S loài riêng c a khu h cá B
- S: H s g n g i c a 2 khu h
2C ố ủ ệ
ầốệ ũ ủ ệ
S= Trong óđ
A+B - C: S loài chung c a 2 khu h
- A: S loài riêng c a khu h A ố ủ ệ
ố ủ ệ
3. Kết quả
3.1. Cấu trúc thành phần loài
Ở mỗi một hệ sinh thái, cấu trúc thành phần loài sinh vật được sắp xếp trong
giống, họ, bộ luôn luôn khác nhau tạo nên tính đặc trưng riêng. Hệ thống sông Ô Lâu
nằm trong vùng cảnh quan có điều kiện địa hình rất phong phú, có nhiều khe suối, với
dòng chảy trên các địa hình khác nhau. Thêm vào đó khu vực cửa sông nơi trực tiếp đổ
vào đầm phá Tam Giang có sự giao thoa giữa hai dòng nước ngọt và mặn. Do vậy, cấu
trúc thành phần loài cá thể hiện rất rõ về tính đa dạng trong các bậc taxon.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã lập được danh lục thành phần loài cá ở
hệ thống sông Ô Lâu bao gồm: 109 loài cá nằm trong 76 giống thuộc 31 họ của 11 bộ
khác nhau (bảng 3.1).
B ng 3.1. S l ng các b , h , gi ng và loài c a thành ph n loài cá h th ng sông Ô Lâu
ả ợư ố ọộ ố ủ ầ ệở ố
Họ Giống Loài
Bộ T ỷ lệ T ỷ lệ T ỷ lệ
Số Số Số
Stt
lượng lượng lượng
% % %
1 Osteoglossiformes 1 3,23 1 1,32 1 0,92
2 Elopiformes 1 3,23 1 1,32 1 0,92
3 Clupeiformes 1 3,23 1 1,32 2 1,83
62
- 4 Anguilliformes 1 3,23 1 1,32 2 1,83
5 Cypriniformes 3 9,67 31 40,78 47 43,12
6 Characiformes 1 3,23 1 1,32 1 0,92
7 Siluriformes 5 16,12 9 11,84 10 9,17
8 Beloniformes 1 3,23 1 1,32 2 1,83
9 Synbranchiformes 1 3,23 3 3,94 3 2,75
10 Mastacembeliformes 1 3,23 1 1,32 2 1,83
11 Perciformes 15 48,38 26 34,21 38 34,86
Tổng 31 100 76 100 109 100
3.2. Đặc trưng đa dạng sinh học cá ở hệ thống sông Ô Lâu
3.2.1. Đa dạng về các bậc taxon
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy tính đa dạng sinh học về cá ở hệ thống sông Ô
Lâu không những chỉ thể hiện ở taxon bậc loài mà còn thể hiện ở các bậc taxon cao hơn.
Tính bình quân, mỗi bộ chứa 2,82 họ; 6,91 giống và 9,91 loài. Mỗi họ chứa 2,45 giống;
3,52 loài và mỗi giống chứa 1,43 loài.
- Về taxon bậc họ: Trong tổng số 31 họ, đa dạng nhất là bộ cá Vược
(Perciformes) với 15 họ chiếm 48,38%. Tiếp đến là bộ Cá Nheo (Siluriformes) có 5 họ
chiếm 16,13%, bộ cá Chép (Cypriniformes) có 3 họ chiếm 9,68%. Các bộ cá còn lại: bộ
cá Thát lát (Osteoglossiformes), bộ cá Cháo (Elopiformes), bộ cá Trích (Clupeiformes),
bộ cá Chình (Anguilliformes), bộ cá Hồng Nhung (Characiformes), bộ cá Nhái
(Beloniformes), bộ Lươn (Synbranchiformes), bộ cá Chạch sông (Mastacembeliformes)
mỗi bộ có 1 họ chiếm 3,23%.
- Về taxon bậc giống: Ưu thế nhất là bộ cá Chép (Cypriniformes) có 31 giống
chiếm 40,78% tổng số giống. Tiếp đến là bộ cá Vược (Perciformes) có 26 giống, chiếm
34,21%, sau đó là bộ cá Nheo (Siluriformes) có 9 giống chiếm 11,84%. Bộ Lươn
(Synbranchiformes) có 3 giống (chiếm 3,95%), bộ cá Thát lát (Osteoglossiformes), bộ
cá Cháo (Elopiformes), Bộ cá Trích (Clupeiformes), bộ cá Chình (Anguilliformes), bộ
cá Hồng Nhung (Characiformes), bộ cá Nhái (Beloniformes), bộ cá Chạch sông
(Mastacembeliformes) mỗi bộ chỉ có 1 giống chiếm 1,32%.
- Về taxon bậc loài: Phong phú nhất vẫn là bộ cá Chép (Cypriniformes) có 47
loài chiếm 43,12% tổng số loài. Tiếp đến là bộ cá Vược (Perciformes) với 38 loài chiếm
34,86%. Bộ Cá Nheo (Siluriformes) với 10 loài chiếm 9,17%. Bộ Lươn
(Synbranchiformes) có 3 loài chiếm 2,75%, bộ cá Trích (Clupeiformes), bộ cá Chình
(Anguilliformes), bộ cá Nhái (Belonniformes), bộ cá Chạch sông (Mastacembeliformes)
63
- mỗi bộ có 2 loài chiếm 1,83%. Các bộ còn lại có 1 loài chiếm 0,92%.
Trong số 31 họ cá phân bố ở hệ thống sông Ô Lâu, họ cá chép (Cyprinidae)
chiếm ưu thế nhất với 25 giống (chiếm 32,9% tổng số giống), 37 loài (chiếm 33, 94%).
Tiếp đến là họ cá Bống trắng (Gobiidae) có 5 giống (chiếm 6,6%), 5 loài (chiếm 4,6%);
các họ cá Chạch vây bằng (Balitoridae), cá Bống đen (Eleotridae), cá Sặc (Belontidae)
đều có 4 giống (chiếm 5,26%). Trong đó, họ cá Chạch vây bằng (Balitoridae) có 7 loài
(chiếm 6,42%), họ cá Bống đen (Eleotridae), cá Sặc (Belontidae) đều có 6 loài (chiếm
5,50%). Họ cá Lăng (Bagridae), họ cá Nheo (Siluridae), họ Lươn (Synbranchidae) đều
có 3 giống (chiếm 3,95%) và 3 loài (chiếm 2,8%); có 2 họ cá Chạch (Cobitidae) và cá
Căng (Teraponidae) đều có 2 giống (chiếm 2,63%), trong đó họ các Chạch (Cobitidae)
có 3 loài (chiếm 2,8%) họ cá Căng (Teraponidae) có 2 loài (chiếm 1,83%). Các họ còn
lại chỉ có 1 giống (chiếm 1,32%), trong đó có 10 họ có 2 loài (chiếm 1,83%) và 10 họ
có 1 loài (chiếm 0,92% tổng số loài).
Trong 76 giống cá ở hệ thống sông Ô Lâu, giống có loài nhiều nhất là giống cá
Móm Gerridae với 4 loài (chiếm 3,7% tổng số loài), có 3 giống: Sewellia, Onychostoma,
Eleotris đều có 3 loài (chiếm 2,8%). Có 24 giống có 2 loài (chiếm 1,83%) và 48 giống
có 1 loài (bảng 3.2).
ng 3.2. C u c nh ph n i h th ng sông Ô Lâu
ảB àht úrt ấ ệ ở ác àol ầ ố
Loài trong giống
Họ Số giống Số loài
Stt
1 loài 2 loài 3 loài 4 loài
1 Notopteridae 1 1 1
2 Megalopidae 1 1 1
3 Engraulidae 1 2 1
4 Anguillidae 1 2 1
5 Cyprinidae 25 37 14 10 1
6 Cobitidae 2 3 1 1
7 Balitoridae 4 7 2 1 1
8 Characidae 1 1 1
9 Bagridae 3 3 3
10 Cranoglanididae 1 1 1
11 Siluridae 3 3 3
12 Sisoridae 1 1 1
13 Clariidae 1 2 1
64
- 14 Hemiramphidae 1 2 1
15 Synbranchidae 3 3 3
16 Mastacembelidae 1 2 1
17 Centropomidae 1 1 1
18 Ambassidae 1 2 1
19 Teraponidae 2 2 2
20 Sillaginidae 1 1 1
21 Cichlidae 1 2 1
22 Gerridae 1 4 1
23 Lutjanidae 1 2 1
24 Sparidae 1 1 1
25 Monodactylidae 1 1 1
26 Mugilidae 1 2 1
27 Eleotridae 4 6 3 1
28 Gobiidae 5 5 5
29 Anabantidae 1 1 1
30 Belontidae 4 6 2 2
31 Channidae 1 2 1
Tổng cộng 76 109 48 24 3 1
3.2.2. Đa dạng về sinh thái
Cá là nhóm động vật biến nhiệt, thích nghi với chế độ nhiệt luôn luôn biến đổi ở
vùng ven bờ nhiệt đới. Tuy nhiên, hệ thống sông Ô Lâu có độ sâu và độ lớn trung bình
nên sự phân bố các loài cá theo nhiệt độ thể hiện không rõ. Mặt khác, khu vực cửa sông
Ô Lâu chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều, có nhiều nhánh sông nhỏ
giao lưu với hệ thống ruộng lúa ở hạ lưu, có các khe suối ở các độ cao khác nhau vùng
thượng lưu cùng đổ vào sông đã góp phần tạo nên những nét đặc trưng thuỷ văn riêng
biệt so với các thuỷ vực khác. Đây là những yếu tố sinh thái rất quan trọng đối với các
loại thuỷ vực, tạo ra những nhóm sinh vật có khả năng thích nghi khác nhau. Sự khác
nhau này không những thể hiện về hình thái, sinh lý mà còn cả về tập tính sinh học.
Về mặt sinh thái học, có thể chia thành phần loài cá sông Ô Lâu thành 3 nhóm
sinh thái theo độ mặn:
65
- - Nhóm cá nước ngọt điển hình
+ Nhóm cá có nguồn gốc từ khe suối
Đặc trưng cho nhóm sinh thái này gồm chủ yếu các loài cá hẹp sinh cảnh, phân
bố chủ yếu ở các khe suối vùng núi, gồm: Annamia normani, Bagarius rultilus,
Micronemacheilus taenia, Sewellia brevis, Schistura fasciolata... Chúng tôi đã thu được
nhiều mẫu của các loài cá thuộc họ cá bám đá Balitoridae, nhóm cá vốn được coi là sinh
vật chỉ thị cho tính nguyên sơ của môi trường thủy sinh.
+ Nhóm cá có nguồn gốc ao, ruộng
Đại diện cho nhóm này gồm các loài: cá Chạch bùn (Misgurnus
anguillicaudatus), cá Trê đen (Clarias fuscus), Lươn (Monopterus albus) và các loài
trong giống Macropodus,… Một số loài sống đáy có vây bụng dạng đĩa bám như các đại
diện của họ cá Bống trắng (Gobiidae), một số loài khác có khả năng bơi lội giỏi như cá
Diếc (Carasius auratus), cá Chép (Cyprinus carpio), số khác có cơ quan hô hấp phụ
như cá rô (Anabas testudineus), cá Quả (Channa striata)...
- Nhóm cá nước lợ
Sông Ô Lâu đổ nước ra phá Tam Giang - Cầu Hai ở phía Bắc qua cửa Lác. Tại
đây hình thành hệ sinh thái cửa sông có sự trao đổi nước thông qua chế độ bán nhật
triều không đều của vùng Tam Giang - Cầu Hai. Cá ở khu vực này chủ yếu là các loài
trong bộ cá Vược (Perciformes), thích ứng với độ mặn thấp và dao động lớn. Thành
phần loài ở đây có sự giao lưu của 2 nhóm cá nguồn gốc nước ngọt và nước mặn điển
hình. Các loài này phân bố rộng ở vùng cửa sông về mùa khô lẫn mùa mưa, điển hình là
các loài cá Chẽm (Later calcarifer), cá Móm (Gerres filamentosus), cá Hồng chấm
(Lutjanus johnii), cá Tráp vây vàng (Acanthopagrus latus), cá Đối (Mugil cephalus), cá
Dầy (Cyprinus centralus)...
- Nhóm cá di cư
Các loài cá di cư ở sông Ô Lâu không nhiều, thường gặp một số đại diện các loài
gốc biển và nước ngọt di cư kiếm mồi và tìm nơi đẻ trứng.
+ Di cư kiếm mồi: Một số loài ở hệ thống sông Ô Lâu có đặc tính di chuyển từ
vùng nước ngọt đến vùng nước lợ. Đại diện là cá Kìm sông (Hyporhamphus
unifasciatus)... và ngược lại, cá biển di cư vào như cá Cháo (Megalops cyprinoides), cá
Hồng bạc (Lutjanus argentimaculatus), cá Bống cát tối (Glossogobius giuris)...
+ Di cư sinh sản: Số loài thường di chuyển ngược dòng sông ra biển để sinh sản
như cá Chình mun (Anguilla bicolor), Chình hoa (Anguilla marmorata)... Hoặc ngược
lại, cá biển di cư vào đẻ trứng như cá Cháo (Megalops cyprinoides), cá Đục (Sillago
aeolus), cá Hồng bạc (Lutjanus argentimaculatus).
66
- 3.3. Yếu tố địa động vật của thành phần loài cá sông Ô Lâu
3.3.1. So sánh thành phần loài cá sông Ô Lâu với một số khu hệ cá khác
Để đánh giá mức độ gần gũi giữa thành phần loài cá hệ thống sông Ô Lâu với
các khu hệ cá khác ở Việt Nam và phân bố địa lý cá của vùng nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng công thức tính hệ số gần gũi tương quan thành phần loài theo Sorencen (1948) để
so sánh (bảng 3.3).
B ng 3.3. Quan h gi a thành ph n loài cá sông Ô Lâu và khu h cá khác
ả ệ ữ ầ ệ
T ng S T
ổ ố ỷ
S
Stt Khu h cá s loài l% Tác gi và n m công b
ệ ố ệ ả ă ố
(**)
loài chung (*)
1 Mi n B c 201 48 44,03 0,44 Mai ình Yên, 1978
ề ắ Đ
2 C a Sót 101 21 19,26 0,25 Võ V n Phú và H Th H ng, 2004
ử ă ồ ồị
Sông Ki n ế
3 169 35 32,11 0,34 Võ V n Phú và c ng s , 2002
ă ộ ự
Giang
Sông Th ch Nguy n Tr ng Khoa và Võ V n
ạ ễ ờư ă
4 83 35 32,11 0,57
Hãn Phú, 2000
KBTTN Võ V n Phú và Hoàng Tr ng Tú,
ă ọ
5 100 49 44,60 0,88
Dakrong 2006
Võ V n Phú và Phan Qu c
ă ỗĐ ố
6 Sông H ng 121 54 49,54 0,88
ơư
Hùng, 2005
Võ V n Phú, Ngô c Ch ng
VQG B ch ă ắĐ ứ
ạ
7 57 31 28,44 0,60
Mã Lê V Khôi, Lê Tr ng S n, 2004
ũ ọ ơ
Tam Giang -
8 171 39 35,77 0,40 Võ V n Phú, 2002
ă
C u Hai
ầ
9 m L ng Cô 151 20 18,34 0,20 Võ V n Phú và Tr n H ng nh, 2000
ầĐ ă ă ầ ồ ỉĐ
Võ V n Phú và H Th Thanh
ă ồ ị
10 Sông Hàn 108 30 27,52 0,38
Tâm, 2006
Võ V n Phú và V Th Ph ng
ă ũ ị ơư
11 Sông Tam K 83 43 39,44 0,81
ỳ
Anh, 2005
Võ V n Phú và Nguy n Minh Ty,
ă ễ
12 Sông Ba 71 33 30,3 0,57
2005
Võ V n Phú và Nguy n Th Phi
ă ễ ị
13 m Ô Loan 108 24 22,02 0,28
ầĐ
Loan, 2003
67
- 14 m Trà 67 29 26,60 0,49 V Trung T ng, 1999
ầĐ Ổ ũ ạ
Sông su i ố
15 138 32 29,35 0,35 Nguy n Th Thu Hè, 1999
ễ ị
Tây Nguyên
16 Mi n Nam 255 29 26,60 0,20 Mai ình Yên, 1992
ề Đ
Ghi chú: (*): T l so v i 109 loài cá h th ng sông Ô Lâu
ệỷ ớ ệở ố
(**): S là h s Sorencen - H s g n g i
ốệ ầốệ ũ
Qua bảng 3.3 ta thấy thành phần loài cá ở sông Ô Lâu có quan hệ rất gần với
khu hệ cá sông Hương và khu BTTN Dakrong (S = 0,88). Điều này liên quan đến ba
khu hệ cá này trong điều kiện địa lý gần nhau của miền Trung. Tiếp theo là khu hệ cá
sông Tam Kỳ, VQG Bạch Mã và sông Thạch Hãn, sông Ba với hệ số gần gũi cao lần
lượt là: 0,81; 0,60 và 0,57. Đối với khu hệ cá miền Nam thì hệ số gần gũi thấp, chỉ đạt
0,20, điều này cho thấy hai khu hệ cá này khác nhau rất xa về mặt địa lý cũng như điều
kiện sinh thái sẽ có mối quan hệ thành phần loài khác nhau.
Khu hệ cá sông Tam Kỳ và sông Ba cũng khá gần gũi với vùng nghiên cứu. Điều
này cho thấy dù khác nhau về mặt địa lý, nhưng điều kiện sinh thái, thủy văn giống
nhau cũng xuất hiện những loài giống nhau.
3.3.2. Tính chất phân bố của thành phần loài cá sông Ô Lâu
Trong thành phần loài cá sông Ô Lâu có 48 loài chung với khu hệ cá nước ngọt
phía Bắc Việt Nam và 29 loài chung với khu hệ cá nước ngọt phía Nam Việt Nam. Có
24 loài của khu vực nghiên cứu phân bố rộng có mặt ở các thuỷ vực miền Bắc và miền
Nam. Tỷ lệ các loài chung giữa khu hệ cá sông Ô Lâu với khu hệ cá phía Bắc chiếm ưu
thế hơn với 44,03%. Trong khi đó tỷ lệ loài chung với khu hệ cá phía Nam chỉ có
26,60%. Các loài phân bố rộng có tỷ lệ là 22,01%.
Cá nước ngọt Việt Nam có 2 nguồn gốc địa - động vật rõ ràng: nguồn gốc Bắc Việt
Nam - Hoa Nam và nguồn gốc Mekong. Tỉnh địa - động vật cá nước ngọt Bắc Việt Nam kéo
dài cho đến sông Trà Khúc (Quảng Ngãi). Khu tận cùng phía Nam của tỉnh này kéo dài từ lưu
vực sông Ngàn Phố (Hà Tĩnh) đến sông Trà Khúc. Ranh giới phía Tây của khu này là đường
phân thuỷ Trường Sơn cho đến gần vĩ độ 14. Như vậy, miền Trung Việt Nam vừa thuộc tỉnh
địa lý cá Bắc Việt Nam vừa thuộc tỉnh Mekong [4]. Khu tận cùng phía Nam của tỉnh địa lý
cá Bắc Việt Nam cũng là ranh giới thấp nhất của phân vùng Bắc Việt Nam - Hoa Nam.
Sông Trà Khúc là giới hạn phân bố tuyệt đối thấp về phía Nam của các loài ôn đới và
cận nhiệt đới. Hình thể khu địa lý động vật cá này giống một ống tay áo mà đường viền
của nó là hai chướng ngại thiên nhiên. Một phía là biển Đông, một phía là Trường Sơn
(nên gọi khu địa lý này là Đông Trường Sơn). Đông Trường Sơn có tính đa dạng sinh
học cao, là một trung tâm phát sinh của cá nước ngọt. Do địa hình Đông Trường Sơn bị
chia cắt mạnh nên tất cả các lưu vực sông đều ngắn và dốc. Tỉnh địa lý động vật
68
- Mekong ngoài lưu vực sông Mekong còn bao gồm cả lưu vực sông Đồng Nai và các lưu
vực sông Nam Trung bộ kéo ra đến sông Ba (Phú Yên) [4].
Từ những phân tích trên bước đầu có thể nhận xét:
- Thành phần loài cá sông Ô Lâu nằm trong khu Đông Trường Sơn. Yếu tố Bắc
Việt Nam là chủ yếu, song yếu tố Mekong, yếu tố bản địa rõ nét hơn ở các khu khác của
tỉnh địa lý động vật Bắc Việt Nam.
- Thành phần loài cá ở hệ thống sông Ô Lâu vừa có những loài chung với khu hệ
cá miền Bắc vừa có những loài chung với khu hệ cá miền Nam. Điều này cho thấy khu
hệ cá sông Ô Lâu mang tính chuyển tiếp giữa khu hệ cá miền Bắc và khu hệ cá miền
Nam.
4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
- Thành phần loài cá ở hệ thống sông Ô Lâu khá đa dạng. Đã xác định được 109 loài
cá nằm trong 75 giống thuộc 31 họ của 11 bộ khác nhau. Số loài ưu thế nhất thuộc về bộ cá
Chép (Cypriniformes) với 47 loài (chiếm 43,12%), tiếp đến là bộ cá Vược (Perciformes) có
38 loài (chiếm 34,86%), bộ cá Nheo (Siluriformes) có 10 loài (9,17%). Các bộ khác có số loài
không nhiều.
- Thành phần loài cá ở sông Ô Lâu chủ yếu thuộc về các loài nước ngọt điển
hình, số loài có nguồn gốc biển rộng muối, đã thích nghi với điều kiện sống trong môi
trường nước lợ có độ mặn dao động lớn và các loài cá nước mặn, loài di cư không nhiều.
- Thành phần loài cá sông Ô Lâu nằm trong khu Đông Trường Sơn. Yếu tố Bắc
Việt Nam là chủ yếu, song yếu tố Mekong, yếu tố bản địa rõ nét hơn ở các khu khác của
tỉnh địa lý cá Bắc Việt Nam. Thành phần loài cá sông Ô Lâu mang tính chất chuyển tiếp
giữa khu hệ cá miền Bắc và khu hệ cá miền Nam.
4.2. Đề nghị
- Quy định cụ thể về mùa vụ khai thác, kích thước ngư cụ, tuân theo những điều
khoản của pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Nghiêm cấm khai thác cá bằng những
ngư cụ lạc hậu hiện còn sử dụng khá phổ biến trên sông như xung điện, nổ mìn, dùng bã
độc.
- Quy hoạch tổng thể và chi tiết các khu vực nuôi thuỷ sản. Phát triển nuôi thuỷ
sản phải theo đúng quy hoạch và quy định trong thiết kế hệ thống ao nuôi để tránh sự ô
nhiễm nguồn nước. Cần nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái một số loài cá kinh tế
bản địa và nhập nội để làm đối tượng nuôi thả ở các ao ven bờ, lồng, bè thuộc vùng hạ
lưu sông Ô Lâu nhằm cải thiện đời sống, tạo công việc làm cho cộng đồng và giảm sức
ép khai thác tự nhiên.
69
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguy n V n H o, Cá n c ng t Vi t Nam, T p 1, NXB Nông nghi p, Hà N i, 2001.
ớư ọ ệ
ễ ă ả ậ ệ ộ
2. Nguy n V n H o, Cá n c ng t Vi t Nam, T p 2 và t p 3, NXB Nông nghi p, Hà N i,
ớư ọ ệ
ễ ă ả ậ ậ ệ ộ
2005.
3. Lê V Khôi và Nguy n Ngh a Thìn, a lý sinh v t, NXB i h c Qu c gia, Hà N i,
ịĐ ậ
ũ ễ ĩ ạĐ ọ ố ộ
2000.
4. Nguy n Thái T , Nguy n Th Thu H ng, Nguy n Th H ng Hà, “Mi n Trung Vi t ề ệ
ễ ự ễ ị ờư ễ ị ồ
Nam v i a ng v t cá n c ng t”, Tuy n t p công trình H i ngh khoa h c th y s n
ộđ ịđ ớ ậ ớư ọ ể ậ ộ ị ọ ủ ả
toàn qu c v nuôi tr ng th y s n n m 2003, (2004).
ố ề ồ ủ ả ă
5. Mai ình Yên, nh lo i cá n c ng t các t nh mi n B c Vi t Nam, NXB Khoa h c và
ịĐ ạ ớư ọ ỉ ề ắ ệ
Đ ọ
K thu t, Hà N i, 1978.
ỹ ậ ộ
6. Mai ình Yên, nh lo i các loài cá n c ng t Nam B , NXB Khoa h c và K thu t,
ịĐ ạ ớư ọ ộ
Đ ọ ỹ ậ
Hà N i, 1992.
ộ
7. S Khoa h c và Công ngh Th a Thiên Hu , c i m khí h u - th y v n t nh Th a
ể đ ặĐ ế ậ ủ ă ỉ ừ
ở ọ ệ ừ
Thiên Hu , NXB Thu n Hóa, 2004.
ế ậ
8. FAO, Catalog of Fish, Volume 1, 2, 3, California Academy of Sciences, 1998.
9. Keiichi Matsuura, Seishi Kimura, Fishes of Libong Island West Coast of Southern
Thailand, 2001.
10. W. J. Rainboth, Fishes of The Cambodian Mekong, FAO, 1996.
STRUCTURE ON THE COMPOSITION OF FISH SPECIES
IN O LAU RIVER - THUA THIEN HUE
Vo Van Phu
College of Sciences, Hue University
Nguyen Duy Thuan
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
The composition of some fish species in Olau river is of wide biodiversity. Our study
have revealed 109 species, 76 genus, 31 families belonging to 11 different orders, among which,
the Cypriniformes is the one being the most plentiful with 47 species reaching 43,12%. The
domination in composition of Cypriniformes in regional fauna shows the typical fresh water’s
quality. We have carried out typical comparison between Olau river species’s composition of the
fish in Olau river and that of the regional fauna over the country and initially determined the
fish components of this river in the Truong Son Eastern. Factors charavyerized fish species in
70
- the North Vietnam are dominating, but those characterized fish species in Mekong and
indigenous areas are clearer in other animal fish geography of North Vietnam region. Olau
river which has the same species with both the fish regional fauna in the North and in the South.
This shows that the fish regional fauna in Olau river has the transitional nature between
Northern and Southern the fish regional fauna.
71
nguon tai.lieu . vn