Xem mẫu

  1. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù Vò ThÞ Hång yÕn * ộ luật dân sự n¨m 1995 (BLDS) có được gọi là bất động sản và luôn luôn phải B hiệu lực từ ngày 1/7/1996 đã thực sự đi vào cuộc sống và phát huy sức mạnh chờ các quy định cụ thể của các văn bản pháp luật. Điều này đã hạn chế tính mềm điều chỉnh của chúng trong điều kiện của dẻo linh hoạt của các quy phạm pháp luật nền kinh tế thị trường hiện nay. Các quy và khiến cho nó không bắt kịp được với định của BLDS nói chung và các quy định điều kiện của nền kinh tế thị trường mà về tài sản và quyền sở hữu nói riêng đã tạo trong đó các loại tài sản vô cùng đa dạng, ra các cơ sở pháp lí hữu hiệu để các cấp toà phong phú và chuyển hoá, biến đổi không án xét xử khi có tranh chấp xảy ra liên quan ngừng. Để định nghĩa bất động sản cần chỉ đến vấn đề tài sản và quyền sở hữu. Tuy rõ đặc tính riêng biệt và nổi bật của nó là nhiên, xung quanh vÊn ®Ò nµy còn có một tính bất di bất dịch - điều đó sẽ khiến mọi số bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung. người hiểu ngay bất động sản bao giờ cũng - Trước hết, chúng tôi đề cập về cách là đất đai. Khoản 1 Điều 181 còn liệt kê phân loại tài sản được quy định tại Điều những tài sản được coi là bất động sản do 181 BLDS. Tài sản có thể được phân loại tính gắn liền của nó với đất đai. Sự liệt kê theo nhiều cách khác nhau nhưng cách này là không cần thiết bởi trong BLDS đã phân loại cơ bản và quan trọng nhất đó là có Điều 183 quy định về vật chính và vật phân tài sản thành động sản và bất động phụ. Đương nhiên những tài sản khác như sản. Khoản 1 Điều 181 BLDS đưa ra định nhà cửa, các công trình xây dựng, cây cối, nghĩa về bất động sản dựa trên đặc tính mùa màng… mà được gắn với đất đai vì giá không di dời được của tài sản, tiếp đó liệt trị sử dụng của nó hay suy cho cùng là để kê cụ thể những tài sản mà luật gọi là bất khai thác giá trị sử dụng của chính mảnh động sản. Động sản là các tài sản không đất đó đều được coi là mối quan hệ giữa vật phải là bất động sản - khái niệm động sản chính và vật phụ, trong đó đất đai là vật đã được định nghĩa theo phương pháp loại chính. Nếu vật phụ được gắn kết với vật trừ. Như vậy, bất kì tài sản nào chỉ có thể chính vì giá trị thẩm mĩ hay giá trị sử dụng hoặc là động sản hoặc là bất động sản. Việc của vật chính thì sẽ thuộc về vật chính. Mặt đưa ra khái niệm dưới dạng liệt kê đối với khác, Điều 183 còn quy định khi chuyển bất động sản như vậy tuy có tính cụ thể nhưng khiến cho khái niệm bị rơi vào tình * Giảng viên Khoa luật dân sự trạng “đóng” bởi nó đã giới hạn các tài sản Trường đại học luật Hà Nội 90 T¹p chÝ luËt häc
  2. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù giao vật chính thì phải chuyển giao cả vật thông báo hoặc trả lại ngay cho người là phụ. Sự gắn kết giữa vật chính và vật phụ chủ sở hữu của tài sản; nếu không biết ai là không phải là vĩnh viễn và bất biến, nó luôn chủ sở hữu thì phải thông báo ngay hoặc có thể bị phá vỡ vì ý chí của con người. Bởi giao nộp ngay cho uỷ ban nhân dân xã, vậy, ngay cả nhà cửa, các công trình xây phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần dựng không phải lúc nào cũng được coi là nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyÒn bất động sản vì thực tế hiện nay với kĩ thuật khác theo quy định của pháp luật. Yêu cầu hiện đại người ta có thể dễ dàng dời chuyển đặt ra ở đây là các nghĩa vụ thông báo, trả nhà cửa khỏi một mảnh đất cụ thể. Khi đó lại hay giao nộp của người phát hiện phải các chủ thể có thể chỉ cần kí kết hợp đồng được thực hiện ngay tức thì tại thời điểm mua bán bản thân ngôi nhà thôi mà không mà người đó phát hiện được và đương cần phải kí kết hợp đồng chuyển nhượng nhiên trong khoảng thời gian từ lúc phát quyền sử dụng đất. Hơn nữa, khi quy định hiện ®ến lúc thông báo hoặc giao nộp thì họ về thế chÊp bất động sản, BLDS sự cũng có quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài quy định vật phụ của bất động sản chỉ thuộc sản. Nếu họ chậm trễ trong việc thực hiÖn tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận. các nghĩa vụ trên mà không đưa ra đ-ợc lí Như vậy, có những tài sản có lúc được coi do chính đáng thì việc nắm giữ những tài như bất động sản nhưng cũng có lúc lại là sản phát hiện được đó sẽ bị coi là bất hợp động sản và ngược lại (ví dụ như máy điều pháp. Khi đó hoàn toàn có thể suy đoán họ hoà trong sự gắn kết với ngôi nhà). Nếu xây nắm giữ tài sản đó nhằm mục đích tẩu tán dựng các quy phạm nhằm mục đích giới và biển thủ đối với tài sản mà họ phát hiện hạn và mang tính chất “cứng” để điều chỉnh được. Với ý nghĩa đó thì đoạn 2 khoản 1 một vấn đề có nhiều biến động như vậy thật Điều 194 nên tóm gọn lại trong nội dung của không phù hợp và thiếu tính hiệu quả. Điều đoạn 1 như sau: 181 của BLDS cần quy định lại như sau: “ 1. Người phát hiện tài sản bị đánh rơi, “1. Bất động sản là những tài sản không bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm, tài di dời được. sản không xác định được ai là chủ sở hữu có 2. Động sản là những tài sản không quyền chiếm hữu tài sản đó nhưng phải thực phải là bất động sản”. hiện nghĩa vụ thông báo hoặc trả lại ngay - Tiếp theo, đó là quy định tại Điều 194 cho chủ sở hữu tại thời điểm phát hiện; nếu về quyền chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bị không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm, tài sản báo hoặc giao nộp cho uỷ ban xã, phường, không xác định được ai là chủ sở hữu. thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất hoặc cơ Nếu một người mà phát hiÖn thấy tài quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy sản của ai đó bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị định của pháp luật”. chôn giấu, bị chìm đắm thì phải có nghĩa vụ - Điều 196 BLDS có quy định về hành T¹p chÝ luËt häc 91
  3. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù vi chiếm hữu liên tục đối với tài sản như lại và bắt đầu lại kể từ ngày kết thúc việc sau: “Việc chiếm hữu tài sản được thực tranh chấp; thứ hai, nếu người tranh chấp hiện trong một khoảng thời gian mà không thua kiện thì việc chiếm hữu coi như chưa có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu hề bị gián đoạn, người đang chiếm hữu vẫn liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho có quyền tiếp tục chiếm hữu tài sản đó. người khác chiếm hữu”. Nếu coi việc Như vËy, không phải mọi tranh chấp xảy chiếm hữu liên tục đối với tài sản là việc ra đều dẫn đến hậu quả làm mất tính liên chiếm hữu được thực hiện trong một tục của sự chiếm hữu. Để phù hợp với khoảng thời gian mà không có tranh chấp thực tiễn cuộc sống và thực tiễn xét xử về tài sản đó sẽ không phù hợp với thực tế của toà án, Điều 196 cần được sửa đổi cuộc sống. Trước hết, ta phải hiểu như thế như sau: “Chiếm hữu liên tục là việc nào là “có tranh chấp về tài sản”? Sự tranh chiếm hữu tài sản được thực hiện trong chấp ở đây có thể liên quan đến nội dung một khoảng thời gian mà không có tranh của quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chấp về tài sản đó hoặc nếu có thì sự chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định tranh chấp đó cũng không có hậu quả đoạt đối với tài sản. Có dạng tranh chấp về pháp lí. Việc chiếm hữu cũng được tính quyền sử dụng tài sản như phản đối việc liên tục kể cả khi tài sản được chuyển người đang chiếm hữu trong quá trình khai giao cho người khác chiếm hữu”. thác tài sản đã làm ảnh hưởng đến quyền - Các hình thức sở hữu là một trong lợi của họ, ví dụ: Người hàng xóm phản đối những vấn đề trọng tâm của chương này, chủ sở hữu đã mở đài quá to trong giờ nghỉ trong đó hình thức sở hữu hỗn hợp luôn thu ngơi hay không trông giữ cẩn thận để trâu hút được sự quan tâm của nhiều người. bò đến phá vườn cây của họ… Những tranh Theo quy định của Điều 226 thì hình thức chấp đó dù có xảy ra, thùc nhưng không thể sở hữu hỗn hợp phải hội tụ đủ các điều kiện coi đó là căn cứ làm mất tính liên tục của sau: Phải có ít nhất từ hai chủ sở hữu trở sự chiếm hữu. Trong thời gian bị phản đối, lên; các chủ sở hữu đó phải thuộc các thành chủ sở hữu vẫn có quyền chiếm hữu đối với phần kinh tế khác nhau; tài sản được đóng tài sản và quãng thời gian đó được tính góp thể hiện dưới dạng vốn và các chủ thể trong thời gian chiếm hữu liên tục của chủ đều hướng tới mục đích sản xuất kinh sở hữu đối với tài sản. Hoặc cũng có trường doanh, thu lợi nhuận. Quy định này của hợp, có người khởi kiện người đang chiếm BLDS sự chưa phù hợp với điều kiện phát hữu tài sản về quyền chiếm hữu và sở hữu triển của nền kinh tế thị trường và trước hết đối với tài sản. Khi đó sẽ có hai khả năng chưa phù hợp với những quy định trong xảy ra: Thứ nhất, nếu người tranh chấp Luật doanh nghiệp n¨m 1999. Theo luật thắng kiện thì việc chiếm hữu sẽ bị gián thực định, chủ thể của sở hữu hỗn hợp là đoạn, thời gian chiếm hữu phải được tính pháp nhân đ-îc thành lập theo ý chí của 92 T¹p chÝ luËt häc
  4. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù thành viên góp vốn để sản suất kinh doanh, thành viên góp vốn để thành lập công ti đều thu lợi nhuận. Việc thành lập pháp nhân có thuộc một thành phần kinh tế. Chính bởi hình thức sở hữu hỗn hợp phải có sự công vậy, chúng tôi kiến nghị nên bỏ quy định ở nhận của cơ quan nhà nưíc có thẩm quyền - Điều 226. pháp nhân này được gọi là công ti và chức - Về vấn đề chia tài sản thuộc sở hữu năng thuần tuý là kinh doanh. Khi thực hiện chung khoản 2 Điều 238 quy định như sau: các quyền năng trong sở hữu hỗn hợp thì do Khi có người yêu cầu một trong số các chủ cơ quan của pháp nhân (như hội đồng quản sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán trị, giám đốc…) thực hiện trước người thứ thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài ba theo quy định của Luật doanh nghiệp và sản chung để nhận tiền thanh toán và được điều lệ công ti còn các thành viên góp vốn tham gia vào chia tài sản chung, trừ trường thực hiÖn quyền của chủ sở hữu chung hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, trong quan hệ nội bộ theo quy định của sở người có quyền yêu cầu ở đây là chủ nợ hữu chung trong BLDS. Nếu quy định về riêng của một chủ sở hữu chung đó. Điều chủ thể của sở hữu hỗn hợp như Điều 226 luật không quy định rõ chủ nợ của một thì dễ dẫn đến sự nhầm lần giữa hình thức trong sè các chủ sở hữu chung có quyền sở hữu hỗn hợp với hình thức sở hữu chung yêu cầu ai: Yêu cầu các chủ sở hữu chung theo phần. Trong hình thức sở hữu chung còn lại để chia tài sản chung hay yêu cầu theo phần cũng có các thành viên góp vốn toà án kê biên để chia tài sản chung? Theo nhằm thực hiện một hay một loạt các hoạt nội dung điều luật này thì chủ nợ của một động sản suất kinh doanh nhưng không trong số các chủ sở hữu chung có quyền thành lập pháp nhân độc lập để quản lí yêu cầu các chủ sở hữu chung còn lại chia nguồn vốn đó. Mặt khác, điều luật đặt ra tài sản chung và được tham gia vào chia tài yêu cầu là các thành viên của sở hữu hỗn sản chung đó. Tuy rằng khoản nợ đã đến hợp phải thuộc các thành phần kinh tế khác hạn và chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhau cũng không phù hợp víi những thay nhưng con nợ vẫn là chủ sở hữu hợp pháp đổi dang diễn ra trong nền kinh tế của đối với phần quyền sở hữu của mình trong chúng ta hiện nay. Theo chủ trương đổi mới khối tài sản chung. Vì vậy, chủ nợ chỉ có của Đảng và Nhà nước ta, theo quy định quyền trên trong hai trường hợp sau: Thứ của Luật doanh nghiệp n¨m 1999, hàng loạt nhất, nếu họ được chủ sở hữu chung đó (tức doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành cổ con nợ của mình) uỷ quyền cho phép được phần hoá. Khi đó, những người đã từng là quyền yêu cầu chia tài sản chung; thứ hai, cán bộ, công nhân viên chức của doanh tài sản chung đó đã được dùng làm vật đảm nghiệp trước đây được quyền tham gia mua bảo cho chính khoản nợ đó và có sự đồng ý cổ phiếu để trở thành thành cổ đông chính của các đồng sở hữu về việc dùng tài sản thức của công ti cổ phần. Như vậy, các chung để cho đảm bảo cho nghĩa vụ thanh T¹p chÝ luËt häc 93
  5. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù toán của con nợ. Nếu ngoài hai trường hợp toán giá trị phần tài sản của mình và bồi trên và người mắc nợ không còn tài sản thường thiệt hại. riêng nào khác, chủ nợ muốn được trả nợ Người sáp nhập nhập tài sản trong bằng tài sản chung của người mắc nợ chỉ có trường hợp này là không ngay tình và các thể chọn cách yêu cầu cơ quan toà án tiến quy tắc của điều luật sẽ được áp dụng mà hành kê biên phần quyền sở hữu của người không có sự phân biệt tài sản đem sáp nhập mắc nợ trong tài sản chung với người khác thành vật chính và vật phụ. Giả sử tài sản bị và phải tôn trọng quyền ưu tiên mua của sáp nhập do không ngay tình là vật phụ còn các chủ sở chung khác. Điều này cũng phù tài sản dùng để sáp nhập của người sáp hợp với quy định tại khoản 1 Điều 29 Pháp nhập là vật chính mà áp dụng điểm a khoản lệnh thi hành án dân sự ngày 21/4/1993 và 2 Điều 244 thì sẽ dẫn đến hậu quả pháp lí cũng phù hợp với tinh thần chung của pháp khó có thể chấp nhận. Ví dụ: Một người có luật dân sự là khuyến khích việc hình thành quyền sử dụng đất dùng vật liệu biết rõ là và duy trì sự tồn tại của các hình thức sở của người khác để xây dựng nhà ở trên đất hữu chung. Tóm lại, khoản 2 Điều 238 cần của mình mà không có sự đồng ý của chủ phải sửa đổi cho phù hợp với các yêu cầu nguyên vật liệu thì chủ sở hữu của nguyên trên như sau: vËt liệu có quyền yêu cầu người đã sáp “2. Khi có người yêu cầu một trong các nhập không ngay tình phải giao cả nhà mới chủ sở chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán đ-ợc xây dựng và quyền sử dụng đất cho khi đến hạn và tài sản chung này là tài sản mình. ¸p dụng điÒu luật đó để giải quyết duy nhất thuộc sở hữu của người có nghĩa các vụ tranh chấp tương tự xảy ra sẽ không vụ thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia khỏi gây bối rối cho người có thẩm quyền tài sản chung để nhận tiền thanh toán và xét xử vì nó không phù hợp với tập quán được tham gia vào việc chia tài sản chung, giao dịch và thói quen suy nghĩ của mọi trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. người. Để cho c¸c quy định của pháp luật - Về căn cứ xác lập quyền sở hữu, theo đi vào thực tiễn cuộc sống và có sức sống khoản 2 Điều 244, khi một người sáp nhập lâu bền thì trước hết nội dung các điều luật tµi sản của người khác vào tài sản của đó phải được mọi người dân chấp nhận và mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản coi đó như là công cụ hữu hiệu để bảo vệ đó không phải là của mình và cũng không quyền và lợi ích của mình, tạo nên công được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị bằng xã hội. Theo ý kiến của chúng tôi, sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập trong khoản 2 Điều 244 nên bỏ điểm a và có một trong các quyền sau đây: quy định lại như sau: a) Yêu cầu người sáp nhập giao tài sản “Khi một người sáp nhập tài sản của mới cho mình và thanh toán cho người sáp người khác vào tài sản của mình tạo thành nhập giá trị tài sản của người đó; vật mới không phân chia được, mặc dù đã b) Yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là 94 T¹p chÝ luËt häc
  6. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù của mình và cũng không được sự đồng ý Chế biến tài sản là từ những tài sản ban đầu cña chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập, nếu tài dưới dạng nguyên vật liệu thô, người chế sản bị sáp nhập là vật phụ thì chủ sở hữu tài biến đã áp dụng những quy trình công nghệ sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp khoa học để tạo thành vật mới dưới dạng nhập thanh toán giá trÞ phần tài sản của hàng hoá có gi¸ trị và giá trị sử dụng. Như mình và bồi thường thiệt hại; còn nếu tài vậy, trong chế biến tài sản đòi hỏi không sản bị sáp nhập là vật chính thì chủ së h÷u chỉ có nguyên vật liệu mà quan trọng hơn của tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu cả đó là sức lao động, trí tuệ sáng tạo, nhiÒu người sáp nhập giao tài sản mới cho mình khi còn là cả bí quyết nhà nghề thì mới có và thanh toán giá trị tài sản cho người đó”. thể tạo ra được sản phẩm mới. Trong khi đó Mặt khác, Điều 244 không đề cập điều luật lại không dự liệu việc thanh toán trường hợp một người dùng tài sản của sức lao động mà người chế biến không người khác để sáp nhập vào tài sản của ngay tình đã bỏ ra để chế biến sản phẩm, mình mà ngay tình thì hậu quả giải quyết không những thế người này cũng không có như thế nào, nếu người đó được sở hữu quyền së hữu đối với tài sản mới mà còn tài sản mới thì ngoài nghĩa vụ thanh toán phải bồi thường thiệt hại nếu chủ sở hữu giá trÞ phần tài sản bị sáp nhập có phải nguyên vật liệu có yêu cầu. Với nội dung chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nữa quy định đó sẽ không những không khuyến hay không? khích mà còn giảm bớt sự đầu tư chÊt xám Một trong những căn cứ xác lập quyền để mang lại nhưng sản phẩm có giá trị phục sở hữu đối với tài sản đó là thông qua việc vụ cho cuộc sống con người. Do vậy, khoản thực hiện công việc chế biến tài sản. Khoản 3 Điều 246 cần được sủa đổi cho phù hợp 3 Điều 246 quy định: hơn. Vấn đề này chúng ta nên tham khảo “Trong trường hợp người chế biến Bộ luật dân sự Pháp có quy định như sau: không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật Nếu một người dùng nguyên vật liệu của liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu người khác mà chủ së hữu nguyên vật liệu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì không biết để chế biến tài sản thì quyền sở những người này là đồng sở hữu theo phần hữu đối với vật mới tạo thành được xác đối với vật mới được tạo thành, tương ứng định tuỳ theo kết quả so sánh giữa giá trị với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. của nguyên vật liệu và giá trị của sức lao Chủ së hữu nguyên vật liệu bị chế biến động bỏ ra: Chủ sở hữu đối với phần lớn không ngay tình có quyền yêu cầu người hơn sẽ là chủ sở hữu đối với tài sản mới chế biến bồi thường thiệt hại”. được tạo thành; nếu người chế biến trë Nếu áp dụng quy định này thì chúng ta thành chủ sở hữu tài sản mới tạo thành thì thấy rằng nó hoàn toàn không phù hợp với phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu cho bản chất của chế biến tài sản. Chế biến tài chủ sở hữu của nguyên vật liệu, nếu chủ sở sản khác với sáp nhập hay trộn lẫn tài sản. hữu nguyên vật liệu trở thành chủ sở hữu T¹p chÝ luËt häc 95
  7. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù tài sản mới thì phải thanh toán tiền công lao biển mà chúng ta thường xuyên chứng kiến động cho người chế biến. là những thực tế mà chúng ta phải giải - Điều 248 BLDS quy định về xác lập quyết. Vậy hậu quả pháp lí xác định quyền quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị sở hữu đối với tài sản đó như thế nào khi chìm đắm được tìm thấy: “Vật bị chôn chúng bị phát hiện? Theo ý kiến chúng tôi giấu, bị chìm đắm được tìm thấy mà không tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm hay trôi có hoặc không xác định được ai là chủ sở dạt đều giống nhau về bản chất pháp lí, hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo chúng đều trong tình trạng nằm ngoài sự quản, quyền sở hữu đối với vật đó được xác chiếm hữu thực tế của con người, đều chưa định như sau: 1) Vật được tìm thấy là cổ xác định ngay được ai là chủ sở hữu hay đó vật, là di tích lịch sử văn hoá thì thuộc Nhà là tài sản vô chủ. Chính bởi vậy, Điều 248 nước; người tìm thấy vật đó được hưởng cần bổ sung thêm trường hợp xác lập quyền một khoản tiền thưởng theo quy định của sở hữu đối với vật trôi dạt được tìm thấy. pháp luật; 2) Vật được tìm thấy không phải Sự bổ sung này là cần thiết để cho chúng là cổ vật, di tích lịch sử văn hoá mà có giá phù hợp và thống nhất với quy định trong trị lớn thì người tìm thấy được hưởng 50% Quyết định số 1766/1998/QĐ-BTC ngày giá trị của vật, phần còn lại thuộc Nhà 7/12/1998 của bộ trưởng Bộ tài chính ban nước và nếu vật có giá trị nhỏ thì thuộc sở hành “Quy chế quản lí và xử lí tài sản khi hữu của người tìm thấy vật đó, trừ trường có quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước hợp pháp luật có quy định khác”. Vật bị và tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà chôn giấu, bị chìm đắm là những vật trong nước”. Khoản 3 Điều 1 của Quy chế này có tình trạng hiện tại con người không thực tế quy định về tài sản được xác lập quyền sở chiếm hữu được những vật đó. Theo cách hữu nhà nước theo Điều 248 của Bộ luật hiểu thông thường vật bị chôn giấu là dân sự gồm có tài sản bị chôn giấu, chìm những vật đang nằm ở dưới lòng đất hay đắm, trôi dạt được tìm thấy. Mặt khác, theo đang được giấu kín bên trong một vật nào ý kiến chúng tôi Điều 248 cần phải quy định đó; vật bị chìm đắm là những vật đang nằm rõ về nghĩa vụ phải thông báo công khai của dưới lòng sông, hồ hay lòng đại dương, người phát hiện được tài sản bị chôn giấu, biển cả. Trên thực tế, chúng ta gặp rất nhiều chìm đắm, trôi dạt nhằm mục đích tránh trường hợp các tài sản có giá trị không nằm được sự tranh chấp về việc xác định chủ sở trong sự kiểm soát, sự chiếm hữu thực tế hữu của tài sản sau này vµ giúp cho việc của con người nhưng lại không rơi vào hai quản lí của cơ quan có thẩm quyền các cấp trường hợp bị chôn giấu hay bị chìm đắm hiệu quả hơn trong trường hợp tài sản phát trên mà ở trong tình trạng bị trôi dạt trên hiện được là tài sản có giá trị lớn, hay đó là mặt nước, mặt sông, hồ, biển cả. Những bè cổ vật di tích lịch sử văn hoá và quan trọng gỗ lớn, những tài sản có giá trÞ khác bị hơn cả là tránh trường hợp người phát hiện nước cuốn trôi trong các trËn lũ lụt hay bão tẩu tán, biển thủ đối với tài sản./. 96 T¹p chÝ luËt häc
nguon tai.lieu . vn