Xem mẫu

  1. ĐỀ TÀI 7: Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997 BÁO CÁO MÔN HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997 Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 1
  2. Lời nói đầu ................................................................................................... 02 I. Nguyên nhân ........................................................................................ 03 1. Mất cân đối vĩ mô ........................................................................... 03 2. Dòng vốn nước ngoài chảy vào ..................................................... 05 3. Thị trường tài sản bong bóng ......................................................... 08 4. Rút vốn ồ ạt .................................................................................... 08 5. Tấn công của các nhà đầu cơ lớn .................................................. 09 II. Diễn biến ............................................................................................... 10 1. Thái Lan .......................................................................................... 10 2. Philippines ...................................................................................... 11 3. Malaysia.......................................................................................... 11 4. Indonesia ........................................................................................ 11 III. Hậu quả ................................................................................................. 12 IV. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng ......................... 12 1. Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô .................................. 13 2. Cải cách khu vực tài chính ............................................................. 13 3. Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp ............................ 13 4. Cải cách các thị trường .................................................................. 13 V. Một số bài học cần lưu ý cho Việt Nam: .......................................... 13  Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 2
  3. Lời nói đầu Kính thưa Cô! Các bạn sinh viên thân mến! Chúng tôi, nhóm sinh viên phụ trách đề tài số 7: “Khủng hoàng tài chính Đông Nam Á”, với kiến thức đã được các Thầy, Cô đã truyền đạt trên lớp, chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để hoàn thành đề tài này. Dẫu biết rằng đây là đề khó, vì liên quan đến nhiều vấn đề như: Thương mại Quốc tế, Chính sách tiền tệ và Kinh tế vĩ mô… nhưng chúng tôi cố gắng trình bày ngắn gọn, có dẫn chứng, chứng minh… Ngoài một số nội dung tổng hợp và trích dẫn từ giáo trình, ý kiến một số chuyên gia kinh kế đã được đăng tải trên Internet chúng tôi còn đưa ra một số nhân định riêng của chúng tôi. Nội dung trình bày gồm có phân tích nguyên nhân và những dấu hiệu dẫn đến cuộc khủng hoảng tiền tệ và đưa ra mô hình của cuộc khủng hoảng. Diễn biến của cuộc khủng hoảng và ảnh hưởng của nó đến nền Kinh tế - Chính trị - và Xã Hội ra sao. Và đối với Việt Nam sẽ rút ra được những kinh nghiệm quý báu gì từ cuộc khủng hoảng đó. Cô và Các bạn kính mến! Vì thời gian có hạn và với kiến thức còn hạn chế của chúng tôi, mong Cô và các bạn đóng góp ý kiến, chúng tôi sẽ ghi nhận sự mọi đóng góp ý kiến. Chân thành cám ơn Cô và Các bạn!  Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 3
  4. Khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Châu Á". Cuộc khủng hoảng này còn được gọi là Khủng hoảng tiền tệ Đông Á. Indonesia, Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Malaysia, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng đến các quốc gia khác như Hàn Quốc, HongKong. I. Nguyên nhân 1. Mất cân đối vĩ mô Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á bắt đầu chững lại. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các nước Đông Á ở mức 19-21% trong năm 1994-1995 giảm xuống 4% trong năm 1996. Nguyên nhân làm chững lại xuất khẩu bao gồm: (i) tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm; (ii) đồng yên mất giá; (iii) tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng của các nước Đông Á lên giá; (iv) lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là điện tử, suy giảm. Bảng 1: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%) Quốc Gia 1994 1995 1996 1997 Thái Lan 19 20 -1 3 Hàn Quốc 14 23 4 5 Malaysia 20 21 6 1 Indonesia 8 12 9 7 Philippines 17 24 14 21 Hồng Kông 11 13 4 4 Singapore 24 18 5 -1 Đài Loan 9 17 4 4 Trung Quốc 25 19 2 21 Nguồn: NHTG, “East Asia – The Road to Recoverty”, 1998 Dấu hiệu rõ nhất là ở Thái Lan. Việc đồng baht được gắn cố định với đồng đô la Mỹ đã làm cho tỷ giá hối đoái thực lên giá (khi đồng đô la lên giá liên tục so với đồng yên). Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan vào năm 1996 lên tới 8% GDP, trong khi con số của bốn nước còn lại ở trong khoảng 3,4-4,8%. Mực thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng vốn vay ngắn hạn nước ngoài chảy vào (theo NHTG 1998). Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 4
  5. Bảng 2: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP) Quốc Gia 1994 1995 1996 Hàn Quốc -0,96 -1,74 -4,42 Thái Lan -5,59 -8,05 -8,05 Malaysia -6,07 -9,73 -4,42 Indonesia -1,58 -3,18 -3,37 Philippines -4,60 -2,67 -4,77 Nguồn: NHTG, “Chỉ số phát triển thế giới 2002”. Bảng 3: Tăng trưởng GDP thực (%/năm) Nguồn: NHTG, “World Development Indicators”, 2002 Để bảo vệ tỷ giá cố định trước sức ép tăng giá, các ngân hàng trung ương Thái Lan phải bảo vệ tỷ giá bằng cách thực hiện chính sách tiền tệ sau đây: B S S E1 A E0 C S’ E0 D D’ E2 D D Q1 Q2 Q3 Q1 Q2 Q3 Hình 1 Hình 2 Trong cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá do CP quy định. Khi tỷ giá quy định là E1 cao hơn tỷ giá cân bằng E0 thì CP sẽ mua ngoại tệ vào đề E1 trở thành điểm cân bằng mới. (Hình 1) Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 5
  6. Ngược lại, nếu tỷ giá quy định là E2 thấp hơn tỷ giá cân bằng trên thì trường E0 thì CP phải bán ngoại tệ ra để giữ tỷ giá vẫn là E2 (Hình 2) Đi liền với khủng hoảng tiền tệ là khủng hoảng ngân hàng. Lãi suất cao trong thời gian chính phủ bảo vệ tỷ giá buộc cả các tổ chức tài chính và các đối tượng vay vốn lâm vào tình thế khó khăn. Hàng loạt công ty tài chính của Thái Lan phá sản trước cả khi phá giá đồng baht. Và khi đồng baht bị phá giá, trách nhiệm nợ phải trả tính ra đồng nội tệ của các khoản nợ nước ngoài tăng vọt, kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính nữa Hình 3: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa chính thức (nội tệ/USD) Nguồn: NHTG, “World Development Indicators”, 2002 2. Dòng vốn nước ngoài chảy vào Những yếu tố dẫn đến khủng hoảng ở Đông Nam Á không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội địa mà còn cả từ bên ngoài. Từ năm 1990 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu hút một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% trong nửa đầu thập niên 90 (theo NHTG 1998). Tỷ suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển và sự thần kỳ trong tăng trưởng của Đông Nam Á là những động lực thúc đẩy dòng vốn dịch chuyển từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU tới các nền kinh tế Đông Nam Á. Chênh lệch lãi suất giữa các nền kinh tế Đông Nam Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương. Dòng vốn tư nhân càng được thúc đẩy vào giữa thập niên 90 với chính sách tiền tệ mở rộng ở Hoa Kỳ, nới lỏng Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 6
  7. kiểm soát tài chính ở châu Âu và tình trạng bong bóng đồng yên ở Nhật Bản. Thêm vào đó, một số chính phủ các nước Đông Nam Á đã tự do hóa tài khoản vốn theo hướng khuyến khích dòng vốn nước ngoài ngắn hạn. Cụ thể, chính sách của Thái Lan là hạn chế đầu tư nước ngoài dài hạn dưới dạng FDI hay đầu tư chứng khoán, trong khi chỉ cho phép các ngân hàng được vay ngắn hạn nước ngoài. Tỷ giá hối đoái cố định mà nhiều chính phủ Đông Nam Á duy trì cũng là yếu tố khuyến khích dòng vốn nước ngoài do rủi ro tỷ giá được loại bỏ. Lãi suất nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng là một khuyến khích cho các tổ chức kinh doanh và tài chính nội địa đi vay vốn nước ngoài. Bảng 4: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc,Thái Lan, Malaysia,Indonesia và Philippines), 1991-1996 Đvt: Tỷ USD Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000 Hình 4: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á, 1990-96 Nguồn: Tính toán từ NHTG – World Development Indicators 2002 Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay vay mới khi các Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 7
  8. khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn. Dòng vốn chảy vào đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng trong khu vực. Trong thập niên 1990, tín dụng ngân hàng cấp cho khu vực tư nhân tăng lên nhanh chóng. Tới cuối năm 1996, tổng giá trị nợ tài chính của khu vực tư nhân trên GDP lên tới hơn 140% ở Hàn Quốc và Thái Lan (bảng 5). Mức cung tiền M2 ở Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia tăng gần 20%/năm trong năm 1996 và 1997. Bảng 5: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%) Nguồn: Radelet và Sachs (1998). Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được đầu tư dài hạn. Thái Lan vay nước ngoài chủ yếu thông qua các ngân hàng và công ty tài chính. Trong trường hợp của Indonesia, các doanh nghiệp vay nước ngoài trực tiếp trên thị trường vốn “hải ngoại”(NHTG 1998). Bảng 6 trình bày tình hình nợ ngắn hạn nước ngoài so với dự trữ ngoại tệ của các nước Đông Nam Á vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng. Chỉ có hai nước Malaysia và Philippines trong số năm nước chịu khủng hoảng là có dự trữ ngoại tệ cao hơn nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn nước ngoài cao hơn dự trữ ngoại tệ có nghĩa là trong thời gian ngắn nền kinh tế sẽ không có khả năng chi trả. Bảng 6: Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997 Nguồn: ADB, “Asian Development Outlook”, 1999 Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản. Ở Indonesia, các khoản cho vay khu vực bất động sản tăng 37%/năm trong giai đoạn 1992- 95 (trong khi tổng tín dụng ngân hàng chỉ tăng 22%/năm). Ở Thái Lan, các khoản cho vay bất động sản của những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai đoạn 1990-95 (trong khi tổng tín dụng chỉ tăng 33%/năm). Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 8
  9. Hình 5: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế biến của các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%) Nguồn: Marcus Miller và Pongsak Luangaram (1998). 3. Thị trường tài sản bong bóng Thông qua sự bảo lãnh ngầm của Chính phủ, các ngân hàng vay vốn nước ngoài sau đó tiến hành cho các nhà đầu tư trong nước vay lại với lãi suất cao, nhưng mức lãi suất này vẫn tỏ ra hấp dẫn vì hiện tượng bong bóng của thị trường tài sản và lợi nhuận cao của các dư án đầu tư bất động sản. Các nhà đầu tư kỳ vọng thị trường tài sản vẫn còn tăng cao hơn nũa trong thời gian sắp tới. Nhưng chính sự đầu tư vào tài sản ồ ạt làm cung vượt cầu, kéo theo giá trị tài sản bắt đầu giảm xuống các nhà đầu tư bắt đầu bị lỗ, mất khả năng chi trả cho ngân hàng. Đến lượt mình Ngân hàng cũng mất khả năng chi trả nợ vay nước ngoài, trong đó có nhiều khoản vay ngắn hạn bằng ngoại tệ khiến các ngân hàng phải tranh nhau mua ngoại tệ để trả nợ. Các chính phủ ĐNÁ không phản ứng kịp thời với những thay đổi trên thị trường tiền tệ cộng với chính sách lỏng lẻo đã làm cho các nhà đầu tư bán tháo tài sản để chuyển sang đồng dollar, các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị trường ĐNÁ để đầu tư vào những thị trường khác hấp dẫn hơn và cuộc khủng hoảng bắt đầu diễn ra 4. Rút vốn ồ ạt Radelet và Sachs (1998) đưa ra ý tưởng rằng trục trặc ở Đông Nam Á nảy sinh do nhà đầu tư mất niềm tin và khủng hoảng xảy ra là một cuộc khủng hoảng mất tính thanh khoản. “Sự thất bại trong phối hợp” đã làm cho các nhà đầu tư đồng loạt rút vốn. Một ngân hàng đang hoạt động tốt nhưng bị người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Mặc dù, giá trị tài sản có vẫn lớn hơn giá trị tài sản nợ (tức là xét về tiêu chuẩn tài chính thì ngân hàng vẫn đứng vững), nhưng ngay tại thời điểm bị rút tiền đồng loạt thì không có khả năng trả tiền cho tất cả những ai muốn rút tiền. Như vậy, ngân hàng rơi vào tình trạng không còn khả năng thanh toán (hay mất tính thanh khoản). Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 9
  10. Đông Nam Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tự nước ngoài lẫn trong nước đều muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Nam Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ. Bảng 7: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-1996 Đvt: Tỷ USD Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 3/2000. 5. Tấn công của các nhà đầu cơ lớn Các nhà đầu tư lớn rút vốn có thể gây tác động lớn đến nền kinh tế mà họ đã đầu tư. Tương tự như vậy, họ cũng có thể đầu cơ và đánh cược vào tình hình tài chính của một nền kinh tế. Theo như lời buộc tội của Thủ tướng Malaysia Mahatir, cuộc khủng hoảng 1997/98 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư chứng khoán chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Thực tế của nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ trước cho thấy khi tỷ giá kỳ hạn được định dựa trên tỷ giá cố định thì các nhà đầu cơ có thể kiềm lời bằng cách bán khống đồng nội Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 10
  11. tệ (hay mua ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn, tương lai) và rút ngoại tệ khi đồng nội tệ sụt giá. Chúng ta có thể tóm tắt cuộc khủng hoảng Đông Nam Á bằng sơ đồ sau: II. Diễn biến 6. Thái Lan Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 11
  12. sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. 7. Philippines Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống. 8. Malaysia Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. 9. Indonesia Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 12
  13. vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống. Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2.000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi. III. Hậu quả Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia và Thái Lan. Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. IV. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế. Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 13
  14. 10. Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD. 11. Cải cách khu vực tài chính Các nước Đông Nam Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn. 12. Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài. 13. Cải cách các thị trường Các nước Đông Nam Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đông Nam Á trở nên linh hoạt hơn. V. Một số bài học cần lưu ý cho Việt Nam: Thực chất cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á là khủng hoảng nợ nước ngoài, đặc biệt là vốn vay tư nhân và ngắn hạn, dẫn tới cầu về USD tăng cao, vượt quá cung và đồng nội tệ mất giá nhanh chónh dẫn đến mất khả năng trả nợ. Vì vậy, bài học đầu tiên là Việt Nam phải có chiến lược, qui hoạch và biện pháp để quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài (ODA, vốn vay ngắn hạn và dài hạn) một cách hiệu quả nhất, cũng đảm bảo hoàn trả vốn vay đúng thời hạn. Việt Nam cần có khung luật pháp nghiêm minh và hệ thống quản lý của Nhà nước chặt chẽ nhằm kiểm soát những khoản vay nước ngoài ngày càng gia tăng. Chính sách vay vốn nước ngoài cần khuyến khích hướng vào vay vốn dài hạn, hạn chế và quản lý Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 14
  15. chặt chẽ vốn ngắn hạn; cần phải thận trọng vớI những luồng chu chuyển vốn ngắn hạn ồ ạt.  Trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như điều hành vĩ mô, cần duy trì một thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: lạm phát, tăng ttrưởng , tỷ giá hối đoái, lãi suất, ngân sách, cán cân thương mạI và cán cân thanh toán. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần được điều hành một cách linh hoạt, đồng bộ và phói hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau.  Lựa chọn một cách tập trung và phù hợp vớI các mục tiêu ưu tiên trong quá trình phát triển( lựa chọn vùng, ngành, sản phẩm, thị trường, qui mô các dự án và nhịp độ tăng trưởng). Nhà nước phải có định hướng đầu tư của toàn xã hội theo một cơ cấu hợp lý.  Tiếp tục đổi mới và mở cửa nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đạI, quốc tế hoá nền kinh tế và phát huy cao độ nội lực để tăng trưởng nhanh và phá triển bền vững, đối phó tốt với các “cú sốc” từ bên ngoài.  Sự thâm hụt của cán cân vãng lai là một vấn đề cần được quan tâm thường xuyên và có biện pháp điều chỉnh thích hợp.Kinh nghiệm của các nước: Malaysia, Indonesia cho thấy, mặc dù tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai so với GDP thấp hơn của Thái Lan; mặc dù có dự trữ ngoại tệ tương đối lớn, song cũng không ngăn cản được phản ứng dây chuyề của khủng hoảng tài chính ở Thái Lan  Sự phát triển của kinh tế thị trường phải đi liền với xây dựng một hệ thống ngân hang đủ mạnh, có kinh nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ trong nền knih tế thị trường.  Trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hòa nhập với thị trường tài chính quốc tế, việc mở rộng thị trường vốn của mỗi nước là điều hết sức cần thiết. Song, việc mở rộng cánh cửa thị trường vốn không có nghĩa là hoàn toàn buông lỏng. Mỗi một quốc gia phải duy trì một tỷ lệ hợp lí:  Quan hệ tỷ lệ giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài.  Quan hệ tỷ lệ giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong khi gọi vốn từ nước ngoài. Nếu tỷ lệ vốn ngắn hạn lớn không ổn định và mong manh sẽ là một vấn đề có tác động rất nhạy cảm khi thị trường tiền tệ trong nước có diễn biến xấu. Sự rút vốn đồng loạt và ồ ạt sẽ là yếu tố gây rối loạn thị trường vốn trong nước. Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 15
  16.  Quan hệ giữa thời hạn vay và đối tượng được đầu tư. Nếu thời hạn vay ngắn, nhưng lại dược đầu tư vào bất động sản, một khi thị trường bất động sản bế tắc thì khả năng trả nợ sẽ khó và nợ quá hạn sẽ lớn, gấy mất ổn định trong hệ thống tài chính.  Tài liệu tham khảo Fulbright Economics Teaching Program - Nguyễn Xuân Thành Giáo trình Tài chính Quốc tế - PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Nguyễn Thái Thảo Vy Giáo trình Tài chính – Tiền tệ - PGS. TS. Vũ Đình Thành TS. Vũ Thị Minh Hằng Và một số tư liệu trên Internet Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - 2007 16
nguon tai.lieu . vn